TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2011 - 2015
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. BÙI THỊ MỸ HƢƠNG
Bộ môn: Luật Thƣơng Mại
Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ THẢO NGUYÊN
MSSV: 5115736
Lớp: LK1165A1
Cần Thơ, 11/2014
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
---------…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………....
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2014
MỤC LỤC
-----Trang
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………...1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu… ...................................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 2
5. Bố cục của đề tài ................................................................................................................. 2
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ........... 3
1.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng .............................................................................................. 3
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa ................................................................ 3
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................................... 5
1.1.3.1. Quan điểm của các nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................. 5
1.1.3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam ...................... 6
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế...................................................... 8
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng ................................................................................................. 8
1.2.2. Đối tượng của hợp đồng ............................................................................................. 9
1.2.3. Đồng tiền thanh toán .................................................................................................. 9
1.2.4. Luật điều chỉnh hợp đồng ......................................................................................... 10
1.3. Các nguyên tắc và hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .......... 10
1.3.1. Các nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................ 10
1.3.2. Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ......................................... 12
1.3.2.1. Đàm phán trực tiếp giữa các bên ..................................................................... 12
1.3.2.2. Ký kết giữa các bên vắng mặt ......................................................................... 13
1.4. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ..................................... 13
1.4.1. Điều ước quốc tế ...................................................................................................... 14
1.4.2. Pháp luật quốc gia .................................................................................................... 15
1.4.3. Tập quán thương mại quốc tế ................................................................................... 17
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA CISG VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ....................................................................................... 19
2.1. Hình thức và hiệu lực của hợp đồng ............................................................................. 19
2.1.1. Hình thức của hợp đồng ........................................................................................... 19
2.1.1.1. Hình thức của hợp đồng theo CISG ................................................................ 19
2.1.1.2. Hình thức của hợp đồng theo luật Việt Nam .................................................. 20
2.1.2. Hiệu lực của hợp đồng ............................................................................................. 21
2.1.2.1. Hiệu lực của hợp đồng theo CISG .................................................................. 22
2.1.2.2. Hiệu lực của hợp đồng theo luật Việt Nam ..................................................... 23
2.2. Giao kết hợp đồng ......................................................................................................... 27
2.2.1. Giao kết hợp đồng theo CISG .................................................................................... 27
2.2.1.1 Chào hàng .......................................................................................................... 27
2.2.1.2. Chấp nhận chào hàng ....................................................................................... 29
2.2.2. Giao kết hợp đồng theo luật Việt Nam ...................................................................... 30
2.2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng .............................................................................. 30
2.2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ............................................................. 32
2.3. Quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng .................................................................. 34
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ các bên theo CISG ....................................................................... 34
2.3.1.1. Nghĩa vụ của bên bán ....................................................................................... 34
2.3.1.2. Nghĩa vụ của bên mua ...................................................................................... 36
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ các bên theo luật Việt Nam .......................................................... 38
2.3.2.1. Nghĩa vụ của bên bán ....................................................................................... 38
2.3.2.2. Nghĩa vụ của bên mua ...................................................................................... 42
2.4. Thời điểm chuyển quyền sở hữu và thời điểm chuyển rủi ro ...................................... 45
2.4.1. Thời điểm chuyển quyền sở hữu ................................................................................ 45
2.4.1.1. Thời điểm chuyển quyền sở hữu theo CISG ................................................... 46
2.4.1.2. Thời điểm chuyển quyền sở hữu theo luật Việt Nam ..................................... 46
2.4.2. Thời điểm chuyển rủi ro ............................................................................................. 47
2.4.2.1. Thời điểm chuyển rủi ro theo CISG ................................................................ 48
2.4.2.2. Thời điểm chuyển rủi ro theo luật Việt Nam .................................................. 49
2.5. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ................................................................................ 51
2.5.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm do vi phạm .................................................................. 52
2.5.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm ...................................................................... 54
2.5.2.1. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm theo CISG ......................................... 54
2.5.2.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm theo luật Việt Nam ............................ 56
2.5.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm ........................................................... 60
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
CŨNG NHƢ VẤN ĐỀ GIA NHẬP CISG CỦA VIỆT NAM ....................................................
3.1. Một số bất cập và phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...........................................................................................
3.1.1. Về khái niệm và hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ..........................
3.1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................................
3.1.1.2. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................................................
3.1.2. Các vấn đề về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .....................................
3.1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng ...............................................................................
3.1.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ..............................................................
3.1.3. Các quy định về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng và thời hạn khiếu nại
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .....................................................................................
3.1.3.1. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng..................................................
3.1.3.2. Thởi hạn khiếu nại trong hợp đồng ..................................................................
3.1.4. Vấn đề trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ..................................................................
3.2. Vấn đề gia nhập CISG của Việt Nam hiện nay ...............................................................
3.2.1. Những lợi ích của Việt Nam khi gia nhập CISG ........................................................
3.2.1.1. Đối với hệ thống pháp luật
3.2.1.2. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
3.2.2. Những bất cập của CISG mà Việt Nam cần lưu ý ......................................................
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
-----1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, có thể nói hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn của thế giới
hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Bên cạnh
việc hội nhập kinh tế quốc tế thì việc mở rộng tăng cường hợp tác quốc tế là một nhu cầu
vô cùng thiết yếu. Trong đó việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các
bên cũng là một vấn đề đáng để quan tâm và xem xét bởi hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là loại hợp đồng có yếu tố nước ngoài nên việc giao kết loại hợp đồng này sẽ liên
quan tới việc hợp tác mua bán giữa các nước khác nhau. Vì vậy, việc đảm bảo thực hiện
hợp đồng nhằm mục đích “đôi bên cùng có lợi” là một vấn đề không hề đơn giản nếu như
chúng ta không nắm rõ những quy định của pháp luật trong nước cũng như luật quốc tế về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Mặt khác, người viết nhận thấy rằng để điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa
quốc tế, cần có một cơ chế ổn định để áp dụng và Công ước Viên 1980 quy định về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế đang là chế định cơ bản của thương mại quốc tế phổ biến
nhất hiện nay, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tính ổn định và được nhiều quốc
gia áp dụng, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam chưa phải là thành viên của
Công ước. Pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn có những quy định về hoạt động mua
bán hàng hóa nhưng chỉ áp dụng chủ yếu trong nước trong khi giao dịch thương mại quốc
tế đang ngày càng trở thành một phần hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Bên
cạnh đó, những quy định của pháp luật nước ta về vấn đề này còn nhiều thiếu sót, bất cập
và đôi khi chưa rõ ràng.
Vì vậy, việc tạo lập một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh phù hợp với pháp luật
quốc tế, góp phần giảm bớt khó khăn cho các chủ thể Việt Nam khi tham gia vào quan hệ
thương mại quốc tế cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là vô cùng cần thiết. Nhận thấy rằng đây là vấn đề rất cần có một sự nghiên
cứu toàn diện và hệ thống nên người viết quyết định chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là tiếp cận nghiên cứu có hệ thống các quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế để từ đó phát hiện được những thiếu sót, bất cập của pháp luật Việt Nam. Qua đó
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
1
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trên phương diện
pháp lý và thực tiễn áp dụng của pháp luật Việt Nam.
Với mục tiêu trên thì đề tài xác định được ba nhiệm vụ như sau: thứ nhất, nghiên
cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và Công ước
Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thứ hai, so sánh giữa quy định của
pháp luật Việt Nam với quy định của Công ước. Từ đó phát hiện được những điểm thiếu
sót và chưa rõ ràng của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Thứ ba, đề xuất phương hướng
hoàn thiện, góp phần thu hẹp dần khoảng cách khác biệt giữa pháp luật quốc gia với luật
quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm tạo sự tập trung hơn trong việc thể hiện đề tài cũng như thuận lợi cho việc
nghiên cứu, người viết chỉ đề cập đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dưới góc độ
quy định của Công ước Viên 1980 và pháp luật Việt Nam. Đầu tiên là tìm hiểu về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua một số khái niệm cơ bản cũng như đặc điểm,
nguyên tắc và hình thức giao kết hợp đồng, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Tiếp theo là tiến hành so sánh, phân tích các quy định của Công ước Viên
1980 và pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cụ thể là về một số
vấn đề cơ bản như hình thức và hiệu lực của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ các bên trong
hợp đồng, thời điểm chuyển quyền sở hữu, thời điểm chuyển rủi ro và trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng. Từ đó phát hiện được một số vấn đề còn bất cập, chưa hợp lý và đề xuất
phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế cũng như vấn đề gia nhập Công ước Viên 1980 của Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này ngưởi viết đã sử dụng các phương pháp sau: phân
tích, tổng hợp, liệt kê… nhưng chủ yếu là so sánh những điểm giống và khác nhau giữa
quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước Viên 1980 về hình thức, hiệu lực của hợp
đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Từ đó phát hiện những điểm chưa phù hợp trong điều chỉnh một hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế của pháp luật Việt Nam bởi lẽ phạm vi áp dụng của pháp luật
Việt Nam chỉ giới hạn ở quốc gia trong khi Công ước lại được soạn thảo phù hợp với luật
quốc tế. Ngoài ra, người viết còn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nêu lên nhận định của bản
thân trong việc gia nhập Công ước Viên 1980 của Việt Nam.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
2
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
5. Bố cục của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2. Quy định của CISG và pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
Chương 3. Một số bất cập vả phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt
Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng như vấn đề gia nhập CISG của Việt
Nam
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
3
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng
Có thể nói hợp đồng là một trong những phương tiện hữu hiệu để thực hiện các
giao lưu dân sự trong đời sống xã hội, ghi nhận sự thỏa thuận và có hiệu lực ràng buộc
các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng. Nói các khác, hợp đồng là “luật” do các bên tự
hình thành nên và được nhà nước thừa nhận.
Xét về thực chất, hợp đồng là bất kỳ sự thỏa thuận nào giữa hai hay nhiều bên
được tòa án công nhận là một thỏa thuận nhằm tạo lập những trách nhiệm và nghĩa vụ bị
ràng buộc pháp lý giữa các bên.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng gồm có ba loại cơ bản
là hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng lao động. Tuy nhiên, hầu hết các hợp
đồng đều mang bản chất dân sự, theo đó khái niệm hợp đồng theo nghĩa chung nhất là
“sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”.1 Định nghĩa này cho thấy, để tồn tại một hợp đồng thì phải có sự thỏa thuận giữa các
bên. Sự thỏa thuận đó được hình thành từ hai phía, theo đó một bên đưa ra đề nghị giao
kết hợp đồng và một bên đưa ra chấp nhận đề nghị giao kết đó. Đề nghị giao kết và chấp
nhận đề nghị giao kết được coi là điều kiện cần và đủ để hình thành nên một hợp đồng.
Ví dụ: Anh A và cửa hàng điện máy B có giao kết một hợp đồng mua bán chiếc
tivi hiệu Sony loại 32 inch. Trong hợp đồng có ghi rõ cửa hàng B có nghĩa vụ giao hàng
tại nơi A cư trú và nếu có thay đổi nơi cư trú, A phải thông báo cho B biết. Như vậy, A có
quyền nhận chiếc tivi theo đúng tiêu chuẩn, chất lượng như thỏa thuận trong hợp đồng và
có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ số tiền cho B. B có nghĩa vụ giao hàng cho A đúng chất
lượng, thời gian và địa điểm, đồng thời B có quyền nhận đầy đủ số tiền như đã thỏa thuận
với A trong hợp đồng.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
Mua bán được xem là phương thức chủ yếu để dịch chuyển tài sản và quyền sở
hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác, vì thế các giao dịch về mua bán tài sản là
giao dịch chủ yếu trong các giao dịch dân sự diễn ra trong đời sống kinh tế hằng ngày.
Các giao dịch về mua bán tài sản thường được thực hiện thông qua hợp đồng mua bán tài
sản. Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa
1
Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
4
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả
tiền cho bên bán.2 Như vậy, mua bán tài sản là những giao dịch mà theo đó, bên bán sẽ có
nghĩa vụ chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho bên mua và nhận tiền; còn bên
mua sẽ có nghĩa vụ nhận tài sản và quyền sở hữu tài sản, đồng thời thanh toán tiền cho
bên bán.
Dựa vào chủ thể, mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi mua bán và đối tượng
của giao dịch mua bán có thể chia giao dịch mua bán tài sản thành hai loại là giao dịch
mua bán tài sản có tính chất dân sự và giao dịch mua bán tài sản có tính chất thương mại.
Trong mua bán tài sản có tính chất dân sự, các chủ thể thường không hướng đến mục đích
sinh lợi. Còn trong mua bán tài sản có tính chất thương mại, các bên chủ thể đều là
thương nhân và thường hướng đến mục đích sinh lợi. Tương ứng với hai loại giao dịch
mua bán tài sản trên, chúng ta có hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Thông thường,
một hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế hay dân sự tùy theo chủ thể và mục đích theo
đuổi: hợp đồng mua bán là hợp đồng kinh tế nếu được ký kết giữa các công ty với nhau,
giữa công ty và tư nhân có đăng ký kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh; hợp đồng là
dân sự nếu được ký kết giữa các cá nhân với nhau.3
Tuy nhiên trên thực tế, giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thường không có
ranh giới phân biệt rõ ràng. Ví dụ: Công ty kinh doanh xe A ký kết hợp đồng mua bán
một chiếc xe ô tô với công ty sản xuất xe ô tô B, đây là hợp đồng thương mại đối với cả
hai bên. Nếu công ty A này bán chiếc xe đó cho một tư nhân C mua để sử dụng thì hợp
đồng có tính chất thương mại đối với người bán là A và dân sự đối với người mua là C.
Sau đó, nếu C bán lại cho người khác là D để sử dụng thì khi đó hợp đồng có tính chất
dân sự đối với cả hai bên. Cũng có những trường hợp hợp đồng luôn luôn là dân sự, đó là
các hợp đồng vô thường (không đền bù) bởi vì mọi hoạt động thương mại đều theo đuổi
mục đích lợi nhuận.4
Mua bán hàng hóa là nội dung trọng tâm của hoạt động thương mại bởi theo Luật
Thương mại 2005 thì mua bán hàng hóa là “hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên
mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận”.5
Trong một nền kinh tế thị trường, quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực
hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy, hợp đồng mua
2
Điều 428 Bộ luật Dân sự 2005.
Nguyễn Mạnh Bách, Các hợp đồng thương mại thông dụng, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2007, tr.5.
4
Nguyễn Mạnh Bách, Các hợp đồng thương mại thông dụng, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2007, tr.6.
5
Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005.
3
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
5
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
bán hàng hóa có một vai trò hết sức quan trọng đó là công cụ pháp lý thông dụng nhất
trong việc kinh doanh mua bán. Xét về mặt bản chất, hợp đồng mua bán hàng hóa có bản
chất chung của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán. Luật Thương mại 2005 không đưa
ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp lý của
hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự
2005 về hợp đồng mua bán tài sản. Bởi vì hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại
cũng là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán hàng hóa
là sự thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa có thể có ở hiện tại hoặc sẽ có ở một thời điểm
nào đó trong tương lai. Khi đó, bất kỳ vào lúc nào, một trong các bên của hợp đồng đều
có thể mua bán hàng hóa, thanh toán bằng tiền hoặc bằng các phương thức khác và nhận
quyền sở hữu hàng hóa thì lúc đó sẽ hình thành quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Như đã nói ở trên, Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
mua bán hàng hóa nên dựa vào điều 428 Bộ luật Dân sự 2005, người viết xin đưa ra khái
niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán”. Hợp đồng mua
bán hàng hóa được chia làm hai loại là hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (còn được gọi là hợp đồng mua bán ngoại
thương hay hợp đồng xuất nhập khẩu) là loại hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất
quốc tế (có yếu tố nước ngoài, có nhân tố nước ngoài).6 Tính chất quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu không giống nhau tùy theo quan điểm của pháp luật
từng nước.
1.1.3.1. Quan điểm của các nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo trường phái Xô Viết và pháp luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hoạt
động kinh tế đối ngoại thì “hợp đồng ngoại thương là tất cả những hợp đồng mà trong đó
một bên là công dân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài và nội dung của chúng là
những hoạt động kinh doanh gắn liền với việc xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa”. Tư tưởng
này cũng được thể hiện trong điều kiện chung giao hàng của khối SEV (tên viết tắt của
6
Tại Điều 758 Bộ luật Dân sự 2005 có quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:
“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức,
cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài,
phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
6
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hội đồng tương trợ kinh tế, nay đã giải thể). Còn theo quan điểm của các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển thì dấu hiệu của yếu tố quốc tế là trụ sở của bên mua và bên
bán là ở các nước khác nhau, quốc tịch của các bên không phải là yếu tố phân biệt, cho dù
người mua và người bán có quốc tịch khác nhau nhưng việc mua bán được thực hiện trên
lãnh thổ của cùng một quốc gia thì hợp đồng mua bán hàng hóa đó cũng không phải là
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.7
Theo Công ước La Haye 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình thì tính chất
quốc tế được thể hiện thông qua các tiêu chí như: chủ thể của hợp đồng là các bên có trụ
sở thương mại ở các nước khác nhau, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa phải được
chuyển qua biên giới và việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở các
nước khác nhau (Điều 1 của Công ước). Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại
thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Như vậy, giống như quan điểm của các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Công ước La Haye 1964 cũng cho rằng yếu tố
quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Giống như Công ước La Haye 1964, Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp
Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (United Nations Convention on Contracts
for International Sales of Goods, gọi tắt là CISG) cũng không chú ý đến vấn đề quốc tịch
của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo
điều 1 của Công ước này, tính chất quốc tế được xác định chỉ theo một tiêu chuẩn duy
nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Tuy
nhiên, khác với Công ước La Haye 1964, Công ước Viên 1980 không đưa ra tiêu chí hàng
hóa phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác định tính chất quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo quan điểm của Pháp, khi xác định yếu tố quốc tế của một hợp đồng mua bán
hảng hóa quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn là tiêu chuẩn kinh tế và tiêu chuẩn
pháp lý. Theo tiêu chuẩn kinh tế, hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua
lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó thể
hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Còn theo tiêu chuẩn pháp lý thì hợp đồng được
coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia
như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh
toán,…
7
Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Tập bài giảng Luật Tư pháp quốc tế, Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ,
NXB Trường Đại học Cần Thơ, 2002, tr.91.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
7
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam
Từ khi Nhà nước Việt Nam được thành lập (năm 1945) đến nay thì hoạt động đối
ngoại, nhất là ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên vào giai đoạn mới thành lập Nhà nước, do còn nhiều khó khăn nên hoạt động
ngoại thương chưa được quan tâm. Đến khi đất nước dần ổn định, nền kinh tế bắt đầu
chuyển từ quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì
Nhà nước mới tập trung cho đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Từ đó, hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế mới được chú trọng hơn, hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế cũng được biết đến trong nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như hợp đồng
mua bán ngoại thương, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, hợp
đồng xuất, nhập khẩu hàng hóa,...
Nhà nước ta ban hành quy chế pháp lý cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với
sự quản lý của Nhà nước lần đầu tiên vào năm 1986 và đã sửa đổi, bổ sung qua nhiều thời
kỳ để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của xã hội. Trước thời điểm ban hành Luật
Thương mại 1997, khái niệm “hợp đồng mua bán ngoại thương” được ghi nhận trong
Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK về hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại
thương do Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ban hành ngày 31/7/1991 như
sau: “hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế” với ba
tiêu chí: thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; thứ
hai, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác;
thứ ba, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên
ký kết hợp đồng.
Đến ngày 10/5/1997, quy chế chính thức được Quốc hội thông qua, đây là lần đầu
tiên khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ghi nhận trong văn bản luật –
Luật Thương mại với tên gọi “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài”. Theo quy định tại điều 80 Luật Thương mại 1997 thì “hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một
bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài”. Khái niệm này
cho thấy rằng tiêu chí để xác định yếu tố nước ngoài cho hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là yếu tố quốc tịch của các bên chủ thể hợp đồng. Như vậy, quy định này của Luật
Thương mại 1997 đã làm thu hẹp phạm vi áp dụng khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bởi lẽ điều này sẽ khiến cho một loạt các loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
khác như hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân Việt Nam với nhau ở nước ngoài
hay giữa thương nhân nước ngoài với nhau tại Việt Nam không thuộc phạm vi điều chỉnh
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
8
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của Luật Thương mại 1997. Điều này không chỉ gây ra những bất cập về mặt lý luận mà
còn gây khó khăn về mặt thực tiễn áp dụng.
Hiện nay, mặc dù hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã được sử dụng phổ biến
trong thực tiễn nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng, chính xác trong khoa học pháp
lý Việt Nam. Luật Thương mại 2005 không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế song có thể dựa vào quy định tại điều 758 Bộ luật Dân sự 2005 về quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài để nhận biết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo điều 758,
một quan hệ dân sự (bao gồm quan hệ thương mại) được xem là có yếu tố nước ngoài nếu
có một trong ba dấu hiệu sau:
Thứ nhất, có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia. Người nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài (không đồng
thời mang quốc tịch Việt Nam) và người không quốc tịch;
Thứ hai, khách thể của quan hệ đó ở nước ngoài. Ví dụ: Tài sản là đối tượng của
quan hệ đó nằm ở nước ngoài;
Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở
nước ngoài.8
Từ quy định trên có thể thấy rằng, một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế khi có một trong ba yếu tố sau:
Một là, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ở nước ngoài (kể cả
trường hợp các bên có cùng quốc tịch và hợp đồng được thực hiện ngay tại nước mình);
Hai là, hợp đồng được giao kết ở nước ngoài (nước mà các bên không mang quốc
tịch hoặc không cùng nơi cư trú hay không có trụ sở) và có thể được thực hiện ở nước
mình hay nước thứ ba;
Ba là, hợp đồng được giao kết và thực hiện bởi các bên không cùng quốc tịch hoặc
không cùng nơi cư trú (đối với cá nhân) hoặc không cùng nơi có trụ sở (đối với pháp
nhân).
Luật Thương mại 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà liệt kê các hình thức mua bán hàng hóa quốc tế như
sau: “Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”.9 Sau khi liệt kê như vậy thì
Luật Thương mại 2005 cũng đã quy định rõ thế nào là xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái
xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu tại các điều 28, 29 và 30. Với năm hình thức đã
nêu, có thể thấy Luật Thương mại 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động sản, có
8
9
Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật HàNội, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.9.
Khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại 2005.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
9
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
thể di chuyển được qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng
lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng… để xem xét tính
quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là
bất động sản thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho dù
bất động sản đó được bán cho người nước ngoài. Mua bán bất động sản với người nước
ngoài phải theo một cơ chế pháp lý riêng.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm cá nhân, pháp nhân và
quốc gia – chủ thể đặc biệt của quan hệ thương mại quốc tế.
- Cá nhân
Với tư cách là chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế, cá nhân được xem là
thương nhân khi hội đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Do nhiều nguyên nhân khác
nhau nên pháp luật các nước có thể quy định một cách cụ thể hoặc không cụ thể các điều
kiện đối với cá nhân khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế với tư cách là chủ thể.
Mặc dù có những quy định khác nhau nhưng nhìn chung, khi đề cập đến việc xác định tư
cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thương mại
quốc tế nói riêng, luật pháp của hầu hết các nước đều dựa trên hai tiêu chuẩn pháp lý liên
quan trực tiếp tới cá nhân, đó là các điều kiện về nhân thân và các điều kiện về nghề
nghiệp của cá nhân.
Các điều kiện về nhân thân của cá nhân là điều kiện pháp lý gắn liền với một con
người cụ thể. Theo quy định của pháp luật hầu hết các nước trên thế giới, việc xem xét
điều kiện về nhân thân của một người để trở thành thương nhân không chỉ căn cứ vào
năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người đó mà còn căn cứ vào những yêu cầu
khác. Ví dụ: ngoài việc có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật, người
muốn trở thành chủ thể trong thương mại quốc tế còn phải tuân thủ các quy định khác của
pháp luật như không bị cơ quan có thẩm quyền tước quyền tham gia kinh doanh hoặc
không phải là người đang chấp hành án phạt tù,…
Về các điều kiện nghề nghiệp, theo quy định của pháp luật nhiều nước, đặc biệt là
các nước phương Tây thì những người đang làm một số nghề nhất định sẽ không được
tham gia hoạt động thương mại, trong đó có hoạt động thương mại quốc tế. Ví dụ: theo
Luật Thương mại của Cộng hòa Pháp thì những người làm các nghề như công chức, luật
sư, bác sĩ, công chứng viên, chấp hành viên,… không được tham gia vào các hoạt động
thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng với tư cách chủ thể. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, thương nhân là cá nhân phải là người hoạt động thương mại một
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
10
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
cách độc lập, thường xuyên, có đăng ký kinh doanh và phải hoạt động thương mại trong
các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật
không cấm (điều 6 Luật Thương mại).10
Nhìn chung, các quy định của nhà nước về các điều kiện để xác định tư cách chủ
thể của cá nhân trong quan hệ thương mại quốc tế chỉ được áp dụng cho công dân mang
quốc tịch nước đó. Tùy thuộc vào pháp luật của từng nước và tùy theo từng trường hợp cụ
thể mà công dân nước ngoài có thể hoặc không thể trở thành thương nhân để hoạt động
thương mại quốc tế trên phạm vi lãnh thổ của nước sở tại. Trong quan hệ quốc tế, để giải
quyết vấn đề này, các nước thường ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế, trong đó
thỏa thuận các nguyên tắc pháp lý trong việc xác định địa vị pháp lý của công dân nước
ngoài.
- Pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức được nhà nước thành lập hoặc công nhận khi hội đủ các điều
kiện pháp lý theo quy định của pháp luật. Thông thường, pháp nhân được tồn tại dưới
nhiều hình thức như công ty, hãng kinh doanh,…Tương tự như cá nhân, theo quy định
của pháp luật nhiều nước trên thế giới, pháp nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ
thương mại quốc tế, cũng được xem là thương nhân. Các tiêu chuẩn pháp lý để xác định
tư cách thương nhân của pháp nhân được quy định trong luật thương mại các nước. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp và có quyền hoạt động trong phạm vi ngành nghề tại các địa bàn, dưới các hình thức
và theo các phương thức mà pháp luật không cấm (khoản 1, 2 điều 6 Luật Thương mại
2005).
Dựa trên nguyên tắc tự do kinh doanh trong thương mại quốc tế, pháp luật của hầu
hết các nước cho phép mọi pháp nhân là thương nhân khi có đầy đủ điều kiện tham gia
hoạt động thương mại trong nước thì cũng được phép tham gia hoạt động thương mại
quốc tế. Tuy nhiên, do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế
mà pháp luật của một số nước còn đưa ra các điều kiện bổ sung để xác định tư cách chủ
thể đối với loại thương nhân này.
Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập hoặc đăng ký theo pháp luật
nước ngoài hoạt động tại nước sở tại. Vì vậy, trong quá trình hoạt động, ngoài việc phải
tuân thủ pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập thì pháp nhân này còn phải
tuân theo các quy định của pháp luật quốc gia nơi nó đang hoạt động.11
- Quốc gia
10
11
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.18.
Điều 765 Bộ luật Dân sự 2005.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
11
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trong một số trường hợp nhất định, quốc gia được xem là chủ thể đặc biệt của
quan hệ thương mại quốc tế. Thông thường, quốc gia tham gia vào quan hệ này với tư
cách chủ thể trong hai trường hợp: thứ nhất, ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về
thương mại; thứ hai, tham gia giao dịch thương mại với các chủ thể khác như cá nhân hay
pháp nhân.
Nhằm đảm bảo nguyên tắc dựa trên sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các bên
khi tham gia giao kết hợp đồng thì về mặt pháp lý, các bên có quyền tự do thỏa thuận các
vấn đề liên quan đến hợp đồng mà quan trọng là quyền và nghĩa vụ các bên. Khi tham gia
vào quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế thì quốc gia, chủ thể đặc biệt của quan hệ này,
cũng sẽ có những quyền lợi và nghĩa vụ tương tự như các chủ thể khác của hoạt động
kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, do là chủ thể đặc biệt nên quốc gia cũng được hưởng quy
chế pháp lý đặc biệt – không những không ngang hàng với các cá nhân và pháp nhân mà
còn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối. Nhưng để tạo môi trường pháp lý bình
đẳng và thúc đẩy phát triển kinh tế, một số quốc gia đã từ bỏ quyền này, thực hiện quyền
và nghĩa vụ như các chủ thể khác nhằm thu hút sự hợp tác từ nước ngoài.
Nhìn chung, tính quốc tế của các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
căn cứ vào dấu hiệu quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại trong từng
trường hợp cụ thể. Việc các bên có quốc tịch, có nơi cư trú hoặc có nơi đặt trụ sở thương
mại ở các nước khác nhau được xem là căn cứ để xác định yếu tố nước ngoài của hợp
đồng. Trong trường hợp một trong các bên hoặc các bên có nhiều quốc tịch, nhiều nơi cư
trú hoặc có nhiều nơi đặt trụ sở thương mại thì sẽ ưu tiên căn cứ vào sự lựa chọn của các
bên trước hoặc tại thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu các bên không chọn thì quốc tịch, nơi
cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại của các bên được xác định khi có căn cứ hợp lý để
cho rằng quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại mà phía đối tác đã biết hoặc
có thể biết và đồng ý xác lập trước hoặc tại thời điểm ký kết hợp đồng hoặc đó là quốc
tịch, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại có mối quan hệ gần gũi nhất với hợp đồng
và thực hiện hợp đồng.12
1.2.2. Đối tượng của hợp đồng
Hàng hóa là sản phẩm lao động được trao đổi, mua bán nhằm mục đích phục vụ
nhu cầu của con người, gồm có hai dạng: hàng hóa hữu hình (nguyên vật liệu, hàng tiêu
dùng,…) và hàng hóa vô hình (dịch vụ, sở hữu trí tuệ hay cả sức lao động của con người,
quyền tài sản,…). Theo quy định của pháp luật, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và hàng hóa này có thể được chuyển qua biên giới của một nước.
12
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.210.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
12
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn các
quy định về Quy chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo pháp luật của nước bên
mua và bên bán. Nhìn chung phần lớn các loại hàng hóa đều được phép tự do đem ra trao
đổi, mua bán ngoại trừ một số loại hàng hóa nhất định mà thông thường theo cách quy
định trong pháp luật các nước, đó là nhóm hàng bị cấm xuất khẩu, nhập khẩu, các nhóm
hàng bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu (được quản lý theo hạn ngạch (quota) hoặc phải đáp
ứng các yêu cầu kỹ thuật, điều kiện chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm,…).13
1.2.3. Đồng tiền thanh toán
Loại tiền tệ thường được dùng để thanh toán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên giao kết hợp đồng. Thông thường, mỗi quốc
gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của nước mình (trừ Liên minh Châu Âu (EU) sử
dụng chung đồng Euro) nên trong hợp đồng thương mại quốc tế được ký kết giữa các chủ
thể của những quốc gia khác nhau, các bên thường thỏa thuận sử dụng đồng tiền có thể là
đồng tiền của một trong các bên hoặc không là đồng tiền của bên nào cả để thanh toán
hợp đồng. Có một điều lưu ý là trước khi thỏa thuận, các bên cần nghiên cứu kỹ sự biến
động về giá trị của đồng tiền thanh toán và thanh toán trong hợp đồng để tránh những
thiệt thòi có thể xảy ra.
Trên thực tế cho thấy, các bên thường sử dụng đồng USD và chọn tỷ giá cố định
(tỷ giá chết) để thanh toán hợp đồng. Tỷ giá cố định là tỷ giá quy đổi tại thời điểm giao
kết hợp đồng. Khác với tỷ giá quy đổi dạng mở, là tỷ giá quy đổi tại thời điểm thanh toán
hợp đồng, việc sử dụng tỷ giá cố định sẽ thuận lợi cho các bên vì tại thời điểm ký kết các
bên đã xác định được lợi nhuận mà mình đạt được. Còn tỷ giá mở có thể gây nguy cơ
thiệt hại cho một trong các bên khi tỷ giá thay đổi như tăng hoặc giảm. Tỷ giá tăng thì
người bán được lợi và người mua thiệt hại, còn khi tỷ giá giảm thì người bán thiệt hại và
người mua được lợi.
Ngoài việc sử dụng ngoại tệ để thanh toán hợp đồng thì hiện nay, việc thanh toán
không dùng tiền mặt (qua ngân hàng) đang dần phát triển và ngày càng hoàn thiện với sự
ra đời của đồng tiền ghi sổ (hay còn gọi là bút tệ). Đồng tiền ghi sổ được thể hiện dưới
hình thức “tiền điện tử”, là đồng tiền được ghi nhận và thực hiện bằng kỹ thuật vi tính, từ
tính, điện tính, điện tử. Theo đó, pháp luật cho phép thực hiện các giao dịch trao đổi vốn
mà không cần sự hỗ trợ của giấy tờ vật chất hiện hữu.
13
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.209.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
13
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.4. Luật điều chỉnh hợp đồng
Do có yếu tố nước ngoài nên luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
rất đa dạng và phức tạp hơn so với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Điều này
được thể hiện thông qua việc một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không chỉ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài
(luật của nước người bán, luật của nước người mua hoặc luật của bất kỳ nước thứ ba nào).
Ngoài pháp luật quốc gia, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn chịu sự điều
chỉnh của các Điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và đôi khi cả tiền lệ pháp
(án lệ) cũng được sử dụng để điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật của
quốc gia nào hay áp dụng Điều ước quốc tế hoặc tập quán thương mại quốc tế nào đều
phụ thuộc vào sự thỏa thuận lựa chọn của các bên. Trường hợp các bên áp dụng Điều ước
quốc tế thì cần lưu ý quốc gia của các bên có tham gia vào điều ước đó hay không.
1.3. Các nguyên tắc và hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.3.1. Các nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Với mong muốn thống nhất những quy định chung điều chỉnh trong lĩnh vực hợp
đồng thương mại quốc tế và hạn chế hiện tượng xung đột pháp luật, Viện thống nhất tư
pháp quốc tế (L’Unification des Droits Privé, gọi tắt là UNIDROIT) đã lần lượt cho ra
đời các bộ “Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế”, viết tắt theo tiếng Anh là PICC
(Principles of International Commercial Contracts). Trước những biến đổi không ngừng
của thương mại quốc tế, PICC cũng đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và mới nhất
hiện nay là bản PICC 2004 được các quốc gia trên thế giới quan tâm và áp dụng trong
lĩnh vực hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
nói riêng. Theo Chương I của PICC 2004, việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc tự do hợp đồng
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng
thương mại quốc tế, là nền tảng cho tất cả các quy định pháp lý trong lĩnh vực hợp đồng
dựa trên cơ sở tôn trọng ý chí các bên, đó là được tự do thỏa thuận những điều mà họ
mong muốn. Theo điều 1.1 của PICC thì “các bên trong hợp đồng được tự do giao kết
hợp đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng”. Điều đó có nghĩa là các bên trong hợp
đồng có quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết, tự do thỏa thuận và thống nhất nội
-
dung hợp đồng. Mọi sự tác động làm ảnh hưởng đến sự tự do ý chí của các bên như gian
lận, lừa dối, đe dọa, làm sai lệch thông tin,… đều có thể gây ảnh hưởng tới hiệu lực của
hợp đồng và thậm chí khiến cho hợp đồng bị vô hiệu. Tuy nhiên, nguyên tắc này vẫn bị
giới hạn ở chỗ các bên có quyền tự do trong hợp đồng nhưng sự tự do đó không được
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
14
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
vượt ra khỏi khuôn khổ của pháp luật, mọi điều khoản mà các bên giao kết không được
trái với quy định của luật điều chỉnh cho hơp đồng.
- Nguyên tắc không bắt buộc về hình thức của hợp đồng
Tương tự như CISG, PICC 2004 cũng không đưa ra các yêu cầu về hình thức của
hợp đồng. Tại điều 1.2 của PICC nêu rõ: “không một chi tiết nào của PICC 2004 yêu cầu
một hợp đồng, tuyên bố hay bất kỳ hành vi nào khác phải được giao kết hay chứng minh
bằng một hình thức đặc biệt. Sự tồn tại của chúng có thể được chứng minh bằng bất kỳ
hình thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Ngoài ra, PICC 2004 còn cho phép các bên có
thể thỏa thuận hình thức cụ thể cho việc giao kết, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hợp
đồng, cho bất kỳ tuyên bố hay hành vi đơn phương nào mà các bên đưa ra trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng hoặc trong bất kỳ trường hợp nào khác theo quy định tại
điều 2.1.13, 2.1.17 và 2.1.18. Tuy nhiên, nguyên tắc này có thể bị hạn chế bởi các quy
định riêng của pháp luật quốc gia hoặc các văn bản pháp luật quốc tế có yêu cầu cụ thể về
hình thức của hợp đồng.
- Nguyên tắc về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
Nguyên tắc về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng được quy định tại điều 1.3 của
PICC đề cập đến một nguyên tắc cơ bản khác trong tư pháp quốc tế là nguyên tắc pacta
sunt servanda. Theo quy định tại điều 1.3 của PICC 2004, hợp đồng được ký kết có giá trị
ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng. Các bên phải tuân thủ và thực hiện nghiêm
chỉnh các điều khoản đã được thỏa thuận. Hợp đồng chỉ có thể được thay đổi hoặc chấm
dứt trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng hoặc bằng sự thỏa thuận hoặc bằng những
phương thức khác được đề cập trong PICC 2004.14
- Nguyên tắc thiện chí và trung thực
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm bảo trong việc giao kết hợp đồng, các bên
không bị những cản trở trái với ý chí của mình. Theo điều 1.7 của PICC thì “các bên
trong hợp đồng phải hành động phù hợp với tinh thần thiện chí và trung thực trong các
giao dịch thương mại quốc tế”. Đây là nguyên tắc điều chỉnh xuyên suốt quan hệ hợp
đồng thương mại quốc tế và là tư tưởng chủ đạo của PICC 2004. Việc quy định và áp
dụng các điều khoản của PICC đều phải dựa vào nguyên tắc thiện chí và trung thực, tức là
tiến hành xem xét và đánh giá liệu các bên có tham gia quan hệ hợp đồng thương mại
quốc tế với tinh thần thiện chí và trung thực hay không.
14
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 217.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
15
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.3.2. Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hình thức giao kết hợp đồng là yếu tố luôn được các bên chủ thể tham gia vào
quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế quan tâm vì khi hình thức giao kết được xác định cụ
thể sẽ hỗ trợ về mặt căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh trở nên hiệu quả hơn.
Thực tiễn hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế cho thấy hiện nay, hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được ký kết chủ yếu bằng hai hình thức đó là ký kết hợp đồng giữa các
bên có mặt và ký kết hợp đồng giữa các bên vắng mặt.
1.3.2.1. Đàm phán trực tiếp giữa các bên
Cũng như mọi hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể
được ký kết thông qua hình thức đàm phán trực tiếp giữa các bên. Trong nhiều trường
hợp, các bên gặp nhau để tiến hành đàm phán, sự đàm phán này được khởi xướng bằng
việc chào hàng của một trong các bên. Trong quá trình đàm phán, các bên sẽ thỏa thuận,
thống nhất từng điều khoản của hợp đồng và khi điều khoản cuối cùng được thống nhất
thì các bên có thể ký trực tiếp vào hợp đồng. Trong trường hợp này rất khó để xác định
đâu là chào hàng và đâu là chấp nhận chào hàng.
Giao kết hợp đồng thông qua hình thức đàm phán trực tiếp giữa các bên sẽ giúp
cho các bên tham gia ký kết có điều kiện để bàn bạc, thống nhất kỹ lưỡng từng điều khoản
của nội dung hợp đồng, đồng thời tránh được những sai sót có thể xảy ra. Đàm phán trực
tiếp được tiến hành trên cơ sở các bên đưa ra những đề nghị cho nhau. Mỗi bên sẽ đưa ra
những yêu cầu nhất định, đồng thời có sự nhượng bộ phù hợp với các điều kiện của hợp
đồng tương lai mà mình đưa ra. Trong quá trình đàm phán trực tiếp, trước hết, các bên
thường thỏa thuận về đối tượng của hợp đồng. Sau khi thống nhất về đối tượng, các bên
mới bắt đầu thỏa thuận về các điều khoản còn lại như giá cả, phương thức thanh toán, địa
điểm và thời gian thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên nếu không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ, vấn đề giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho hợp
đồng.
Việc tham gia giao kết hợp đồng bằng hình thức đàm phán trực tiếp không bắt
buộc các bên phải ký hợp đồng với các điều kiện là đối tượng của cuộc đàm phán, có
nghĩa là một trong các bên có quyền kết thúc cuộc đàm phán trong trường hợp họ thấy
rằng không thể đạt được mục đích của mình nếu như tiếp tục cuộc đàm phán.
1.3.2.2. Ký kết giữa các bên vắng mặt
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động mua bán
hàng hóa trên toàn thế giới. Nhờ có các phương tiện thông tin liên lạc như fax, internet,
telex,… mà trong rất nhiều trường hợp, các bên không cần gặp nhau nhưng vẫn có thể ký
kết được hợp đồng một cách nhanh chóng. Đó được gọi là ký kết hợp đồng giữa các bên
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
16
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
vắng mặt. Ở hình thức giao kết này, các bên không nhất thiết phải gặp mặt nhau ở một
thời điểm và địa điểm nhất định mà có thể bày tỏ quan điểm của mình thông qua các
phương tiện thông tin liên lạc nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ các bên. Trình tự ký kết
hợp đồng giữa các bên vắng mặt được tiến hành thông qua chào hàng và chấp nhận chào
hàng. Đây là hai giai đoạn không bao giờ đan xen nhau.
Chào hàng là đề nghị rõ ràng về việc ký hợp đồng của một người gửi cho một hay
nhiều người xác định. Trong đó, người đề nghị bày tỏ ý chí sẽ bị ràng buộc bởi lời đề nghị
của mình nếu có sự chấp nhận đề nghị đó.15 Một chào hàng chỉ có thể được coi là hợp
pháp làm phát sinh quan hệ hợp đồng khi nội dung của nó đảm bảo được tính rõ ràng, tức
là đã xác định rõ hàng hóa, số lượng và giá cả của hàng hóa, đồng thời đề nghị này phải
được gửi cho một hoặc nhiều người được xác định. 16 Như vậy, nếu một đề nghị được gửi
cho một hoặc nhiều người không xác định thì chỉ được coi là một lời mời làm chào
hàng.17
Chấp nhận chào hàng là sự thể hiện ý chí đồng ý của người được chào hàng với
những đề nghị của người chào hàng. Về mặt pháp lý, một sự chấp nhận chỉ có giá trị làm
phát sinh quan hệ hợp đồng khi người chào hàng nhận biết được sự chấp nhận của người
được chào hàng. Theo quy định của Công ước Viên 1980 thì sự chấp nhận chào hàng của
người được chào hàng chỉ có giá trị pháp lý khi nó được thể hiện bằng lời tuyên bố hoặc
bằng hành vi, biểu thị sự đồng ý của mình đối với nội dung của chào hàng. Như vậy, theo
quy định của Công ước thì sự im lặng hoặc không hành động của người được chào hàng
sẽ không mặc nhiên được hiểu là chấp nhận.18
1.4. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo nguyên tắc chung về tư pháp quốc tế trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế thì các bên trong hợp đồng có quyền được tự do thỏa thuận về việc chọn luật áp dụng
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Nguồn luật điều chỉnh này có thể là điều ước quốc tế,
pháp luật quốc gia hay tập quán thương mại quốc tế.
1.4.1. Điều ước quốc tế
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, hợp tác phát triển kinh tế, các
quốc gia trên thế giới đã hướng đến xây dựng một hệ thống pháp luật chung về lĩnh vực
thương mại quốc tế. Nhiều quốc gia đã cùng nhau tiến hành thỏa thuận và ký kết nhiều
điều ước quốc tế quy định những nội dung điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
15
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 244.
Khoản 1 điều 14 Công ước Viên 1980.
17
Khoản 2 điều 14 Công ước Viên 1980.
18
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 249.
16
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
17
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
vực thương mại quốc tế nói chung và quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Vì
vậy, các điều ước quốc tế được xem là nguồn của luật thương mại quốc tế.
Có nhiều cách để phân loại điều ước quốc tế nhưng chủ yếu là căn cứ vào tính chất
điều chỉnh của điều ước quốc tế hay căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia trong điều ước
quốc tế.
- Căn cứ vào tính chất điều chỉnh của điều ước quốc tế, chúng ta có thể chia làm hai
loại như sau:
+ Loại điều ước quy định những nguyên tắc chung, là loại điều ước chỉ đưa ra
những nguyên tắc mà các bên phải tuân thủ trong suốt quá trình từ khi bắt đầu thỏa thuận
đến khi kết thúc hợp đồng. Các điều ước quốc tế loại này thường là các hiệp định thương
mại và các hiệp định này chỉ đưa ra những nguyên tắc chung như nguyên tắc đối xử tối
huệ quốc, nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc thương mại công bằng,…
+ Loại điều ước chứa đựng những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ các bên, là
loại điều ước chứa đựng các quy phạm điều chỉnh một cách rõ ràng, cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng như nghĩa vụ của người bán, nghĩa vụ của người
mua, vấn đề chuyển dịch rủi ro đối với hàng hóa,…
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia trong điều ước quốc tế, có thể chia thành hai
loại sau:
+ Điều ước quốc tế song phương (hay còn gọi là điều ước quốc tế tay đôi), là loại
điều ước quốc tế do hai bên chủ thể trong quan hệ quốc tế ký kết với nhau nhằm mục đích
xác lập mối quan hệ pháp lý giữa các bên. Vì vậy, các quy định trong điều ước quốc tế
-
song phương chỉ điều chỉnh các quan hệ pháp lý giữa hai bên ký kết. Thông thường, nội
dung của loại điều ước quốc tế này đề cập đến từng lĩnh vực nhất định trong thương mại
quốc tế;
+ Điều ước quốc tế đa phương (hay còn gọi là điều ước quốc tế nhiều bên), là loại
điều ước quốc tế có ít nhất ba chủ thể tham gia trong việc xác lập mối quan hệ pháp lý.
Tương tự như điều ước quốc tế song phương, điều ước quốc tế đa phương cũng đề cập
đến từng lĩnh vực nhất định trong thương mại quốc tế. Các quy định của loại điều ước
quốc tế này sẽ có giá trị bắt buộc đối với tất cả các thành viên tham gia điều ước.
Khi nói đến điều ước quốc tế, một trong những vấn đề vô cùng quan trọng được
đặt ra đó là trong trường hợp nào thì điều ước quốc tế sẽ được áp dụng. Theo nguyên tắc
chung, điều ước quốc tế được áp dụng trong hai trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất, các chủ thể trong hợp đồng có quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở
các quốc gia là các nước thành viên của điều ước quốc tế thì sẽ ưu tiên áp dụng quy định
của điều ước quốc tế đó, kể cả trong trường hợp pháp luật quốc gia của chủ thể trong hợp
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
18
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
đồng có những quy định khác với quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành
viên;
- Trường hợp thứ hai, các chủ thể trong hợp đồng không mang quốc tịch hoặc không
có nơi cư trú ở các nước là thành viên của điều ước quốc tế thì các quy định trong điều
ước này vẫn có thể điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ các bên, nếu các bên có thỏa thuận áp
dụng các điều khoản của điều ước quốc tế đó.
Ngoài ra, theo Công ước Viên 1980, điều ước quốc tế cũng có thể được áp dụng
trong trường hợp nếu chỉ có quốc gia của một trong các bên của hợp đồng là thành viên
của điều ước quốc tế và các bên có thỏa thuận áp dụng luật của quốc gia này.19
Trên thế giới hiện nay, trong các điều ước quốc tế về mua bán hàng hóa thì Công
ước Viên 1980 được xem là điều ước quốc tế quan trọng nhất quy định về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, đến nay, CISG đã trở thành một
trong các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất với
74 quốc gia thành viên, ước tính điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tư thương
mại hàng hóa thế giới. Tại các quốc gia chưa phải là thành viên, trong đó có Việt Nam,
Công ước vẫn được áp dụng do các bên trong hợp đồng lựa chọn như là luật áp dụng cho
hợp đồng hay do các tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết các tranh chấp phát
sinh. Nhiều doanh nghiệp tại các quốc gia này đã tự nguyện áp dụng CISG cho các giao
dịch thương mại quốc tế của mình bởi họ thấy được những ưu việt mà CISG mang lại so
với luật quốc gia.
1.4.2. Pháp luật quốc gia
Luật quốc gia trong thương mại quốc tế được xem là nguồn của luật thương mại
quốc tế bởi đây là tổng hợp các quy định điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể trong
hoạt động thương mại quốc tế. Tùy thuộc vào từng hệ thống pháp luật nhất định mà pháp
luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc không được thể hiện dưới
hình thức văn bản. Đối với các giao dịch về mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật quốc gia
có thể được áp dụng theo những điều kiện nhất định. Thông thường, pháp luật quốc gia
được áp dụng trong hai trường hợp sau:
- Các bên trong hợp đồng có thỏa thuận chọn áp dụng;
- Có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên hoàn toàn có
quyền tự do thỏa thuận mọi điều khoản liên quan đến quyền và nghĩa vụ, trong đó bao
gồm cả tự do thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng. Theo đó, các bên có thể chọn luật
19
Điểm b khoản 1 điều 1 Công ước Viên 1980.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
19
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong nước của mỗi bên. Tuy nhiên, đây là một vấn đề không hề đơn giản. Mỗi quốc gia
đều có hệ thống pháp luật riêng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của đất nước
mình và hơn ai hết, mỗi bên đều hiểu rõ pháp luật của nước mình. Vì vậy, nếu chọn áp
dụng luật của nước người bán thì sẽ khó bảo vệ được quyền lợi của người mua và ngược
lại. Trên thực tế, do xuất phát từ tâm lý chung là muốn tự bảo vệ quyền lợi của chính
mình nên việc thỏa thuận chọn luật trong nước của mỗi bên thường gặp nhiều khó khăn
và để đi đến thống nhất, trong quá trình đàm phán, các bên phải nhân nhượng và thuyết
phục lẫn nhau. Tuy nhiên, việc đàm phán để thống nhất chọn luật áp dụng là luật trong
nước của một trong các bên thường không thành công. Để đảm bảo bình đẳng, có thể các
bên sẽ chọn áp dụng pháp luật của nước thứ ba, tức là pháp luật của nước có liên quan
đến việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các bên như luật nơi ký kết hợp
đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng, luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng,… Nhưng
giải pháp này có nhược điểm là nếu không tìm hiểu kỹ nội dung pháp luật của nước thứ
ba thì hậu quả có thể không phù hợp với mong muốn của một trong các bên hoặc cả hai
bên.
Nói chung, các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều có quyền tự do
thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng là luật của một trong các bên hoặc luật của nước thứ ba.
Tuy nhiên, các bên cần lưu ý đến phạm vi không gian của việc thể hiện tự do ý chí của
các bên. Mặc dù luật của đa số các nước và điều ước quốc tế không hạn chế nhưng vẫn có
một số nước quy định các bên chỉ có thể lựa chọn luật của các quốc gia mà hợp đồng có
mối liên hệ thực tế.20 Mặt khác, các bên cũng cần lưu ý đến việc pháp luật của nước thứ
ba mà các bên đã lựa chọn có bảo lưu trật tự công cộng và việc áp dụng pháp luật đó có
trái với quy định pháp luật quốc gia của các bên hay không.
Bên cạnh trường hợp được các bên trong hợp đồng thỏa thuận lựa chọn, pháp luật
quốc gia còn được áp dụng khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến. Xung đột pháp luật
nảy sinh và đặt ra yêu cầu phải được giải quyết trong trường hợp có hai hay nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Ví dụ: Doanh nghiệp A (quốc tịch Việt Nam) ký kết một hợp
đồng mua bán linh kiện điện tử với doanh nghiệp B (quốc tịch Hoa Kỳ). Các bên thỏa
thuận thực hiện hợp đồng tại Việt Nam. Một thời gian sau, hợp đồng phát sinh tranh chấp.
Giả sử vụ việc này được gửi đến Tòa án Việt Nam thì Tòa án Việt Nam sẽ giải quyết căn
cứ vào khoản 1 điều 769 Bộ luật Dân sự. Theo đó, quyền và nghĩa vụ các bên theo hợp
đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng. Như vậy, pháp luật
20
Điều 1-105 Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ quy định rằng các bên có thể áp dụng luật của quốc gia mà
hợp đồng có mối liên hệ mật thiết, hợp lý để điều chỉnh hợp đồng.
GVHD: ThS. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
20
SVTH: Nguyễn Thị Thảo Nguyên