Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Khái quát chung về pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.26 KB, 32 trang )

A-MỞ BÀI
Khi bước vào nên kinh tế thị trường,trong bối cảnh toàn cấu
hóa dần mở rộng nhiều quan hệ mua bán hàng hóa,việc mua bán
hàng hóa không chỉ diễn ra trong lãnh thổ một nước với nhau mà
còn thực hiện các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa quốc tế. Nhất
là trong quan hệ mua bán hàng hóa hiện nay, thì việc mua bán cung
ứng dịch vụ vơi nhau thường được thể hiện dưới nhiều cách thức
và nội dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong thương
mậinỳ được thể hiện bằng một hình thức nhất định đó là đó là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Khi xuất hiện một hình thức giao kết bằng
hình thức hợp đồng dã giúp cho việc trao đổi hàng hóa qiữa các
thương nhân hay các chủ thể với nhau được tiến hành dễ dàng và
có cơ sở pháp lí hơn theo luật thương mại năm 2005 đã đưa ra
những quy định nhất định để điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng
hóa.Những quy định của pháp luật được thể hiện trong hợp đồng đã
xác định rõ ràng các quyền, nghĩa vụ và các điều khoản cơ bản để
các bên có thể giao kết với nhau.Sau đây,em xin trình bày một số
vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
B- NỘI DUNG
I ) Khái quát chung về pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa:

1)Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
1
Quan hệ mua bán hàng hóa đươc xác lập và thực hiện trên cơ sở
thuận mua,vừa bán, tức là trên cơ sở thống nhất ý chí của các
bên.Sự thống nhất ý chí ( hay còn gọi là sự thỏa thuận ) đó được
gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa.Hợp đồng mua bán hành hóa có
bản chất của hợp đồng mua bán nói chung. Đó là sự thỏa thuận của
các bên nhằm xác lập,thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ trong quan hệ mua bán. Dù là mua bán tài sản trong dân sự hay


mua bán hàng hóa trong thương mại thì bản chất của nó cũng
không có gì đổi khác mà vẫn có nội dung là: người bán phải giao
đối tượng được bán và quyền sở hữu đối tượng đó cho người mua
và nhận tiền,còn người mua thì nhận đối tượng được mua và trả
tiền.Luật thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp
đồng mua bán hàng hóa,nhưng chúng ta có thể xác định hợp đồng
mua bán hàng hóa trong thương mại dựa vào quy định của Bộ luật
dân sự về hợp đồng mua bán tài sản.Từ đó cho thấy hợp đồng mua
bán tài sản trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua
bán tài sản.Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa thuận về việc mua
bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một thời
điểm nào đó trong tương lai.Bất cứ khi nào một người mua hàng
hóa bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở
hữu hàng hóa thì khi đó hình thành nên quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa.

2) Các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa:
2

Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng trong thương
mại nên trươc hết hợp đồng mua bán hàng hóa chịu sự điều chỉnh
của Luật thương mại năm 2005.Song luật thương mại không đưa ra
định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, vậy việc xác định bản
chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại dựa
trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự về hờp đồng mua bán tài sản
nên hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật
dân sự năm 2005.Đặc biệt trong hợp đồng mua bán hàng hóa gồm
có hoạt động mua bán hàng hóa trong nước và có hợp đồng mua
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài ( hợp đồng mua bná hàng hóa

quốc tế ),trong đó hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được sự
điều chỉnh của công ước Viên năm 1980.
II)Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về chủ thể,hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các
chủ thể chủ yếu là thương nhân hoặc một trong hai bên phải là
thương nhân.Theo quy định của luật thương mại năm 2005,thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên và có đăng
kí kinh doanh.Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục
đích hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên và có
3
đăng kí kinh doanh sẽ được coi là thương nhân.Thương nhân là
chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt
Nam hoặc thương nhân nước ngoài .Ngoài chủ thể là thương
nhân ,các tổ chức,cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể
trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.Khác với bên là
thương nhân,bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể
có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật.Hoạt động của bên
chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích sinh
lợi trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo lụât thương mại
khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương mại.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa.Hàng hóa
là những sản phẩm lao động của con người,được tạo ra nhằm mục
diách trao đổi để thỏa mãn nhu cầu của con người.Hàng hóa có thể
là vật,là sức lao động của con người,là các quyền tài sản.Dưới góc
độ kinh tế,hnàg hóa được phân thành tài sản hữu hình và tài sản vô
hình;dưới góc độ pháp luật,hàng hóa được phân thành động sản và

bất động sản.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều
điều ước quốc tế(như hiệp định thành lập khối thị trường chung
Châu Âu,công ước viên năm 1980 về mua bán hàng hóa…),hàng
hóa là đối tượng có thể mua bán trong thương mại bao gồm những
4
loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản là:có thể đưa vào lưu thông và
có tính trao đổi,mua bán.Công ước viên năm 1980 về mua bán
hàng hóa quốc tế chỉ loại trừ đối với việc mua bán chứng
khoán,giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông,điện năng,phương
tiện vận tải đường thủy,đường hàng không…
Khoản 2 điều 3 luật thương mại năm 2005 đã mở rộng quy định
hàng hóa đơn.Theo đó,hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả
động sản hình thành trong tương lai; và các vật gắn liền với đất
đai.Tuy nhiên,khái niệm về hàng hóa vẫn còn có sự hạn chế,chúng
ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa chỉ bao gồm các loại tài sản hữu
hình.Như vậy,các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng
đất,quyền sở hữu trí tuệ…chưa được thừa nhận là hàng hóa.Trong
khi các văn bản khác như bộ luật dân sự,luật đất đai năm 2003 quy
định người có quyền sử dụng đất đươc quyền chuyển nhượng,cho
thuê,thế chấp…thậm chí thừa nhận trên thực tế sàn giao dịch về
quyền sử dụng đất.Như vậy,chúng ta có thể hiểu hàng hóa trong
hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả
động sản hình thành trong tương lai;và các vật gắn liền với đất.Tuy
nhiên,khi các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa cần phải
xem hàng hóa mà mình định mua hoặc bán là cái gì,nó có thuộc
danh mục hàng cấm kinh doanh,hạn chế kinh doanh hoặc hàng
kinh doanh có điều kiện hay không.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
5

Về hình thức,hợp đồng mua bán hàng hóa có thể đươc thiết lập theo
cách thức nào mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán
hàng hóa giữa các bên.Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện
dưới hình thức lời nói,bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của
các bên giao kết.Trong những trường hợp nhất định,pháp luật bắt
buộc các bên phả thiết lập hợp đồng mua bán hàng hóa bằng hình
thức văn bản.Điều 24 luật thương mại năm 2005 cũng quy định:
1. Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy
định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định
đó.”
Các hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa đó đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp cho các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa có
thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất đảm bảo quyền lợi của mình.

4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc
xác lập quyền và ngiã vụ của họ trong việc mua bán.Do đó,nội
dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trước hết là những điều
khoản do các bên thỏa thuận.Các bên có quyền quyết định nôi dung
của hợp đồng.Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
hợp đồng phát sinh chủ yếu từ những điều khoản mà các bên thỏa
6
thuận đó.Vì vậy mà các bên thỏa thuận các điều khoản trong hợp
đồng càng rõ ràng bao nhiêu thì càng thuận lợi trong việc thực hiện
hợp đồng bấy nhiêu.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới
hạn các điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ
quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng hoặc các điều khoản

mang tính khuyến nghị để định hướng cho các bên trong việc thỏa
thuận.
Nội dung của hợp đồng trước hết là những điều khoản mà các bên
phải thỏa thuận được với nhau. Điều 402 Bộ luật dân sự cũng chỉ
quy định các bên “có thể thỏa thuận”mà không đòi hỏi phải thỏa
thuận những nội dung chủ yếu nào.Mặc dù nội dung chủ yếu của
hợp đồng mua bán hàng hóa có thể xác định được dựa trên những
quy định mang tinh” khuyến nghị”, ”định hướng” của pháp luật,
thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức
của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn những
nguy cơ pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa.
Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của bộ luật dân sự và luật thương mại, xuất phát từ
tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, có thể
thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao
gồm : đối tượng,chất lương,giá cả,phương thức thanh toán,thời hạn và địa
điểm giao nhận hàng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận,nhưng trong mọi
quan hệ hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng,
7
các bên không chỉ chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa
thuận mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp luật.Ví dụ,
các bên không thỏa thuận trong hợp đồng về điều khoản bồi thường thiệt
hại cho nhau khi một bên vi phạm hợp đồng,nhưng bên vi phạm hợp đồng
vẫn phải có nghĩa vụ bồi thường nếu việc vi phạm đó gây thiệt hại cho bên
đối tác. Như vậy,nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là các
điều khoản do các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều
khỏan do các bên không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các
bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
5.Giao kết hợp đồng của mua bán hàng hóa

Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lậo thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy,muốn có hợp đồng các bên phải
thỏa thuận với nhau về 1 số vấn đề đủ để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
cho các bên. Sự tồn tại của một thỏa thuận là yếu tố cơ bản để xác định sự
tồn tại hay không tồn tại của một hợp đồng.Vậy làm thế nào để đạt được sự
thỏa thuận? để đạt được sự thỏa thuận, các bên phải bày rõ ý chí bằng các
trao đổi ý kiến với nhau để đi đến sự thống nhất ý chí. Trong quá trình xác
lập hợp đồng mua bán hàng hóa, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ
là : (i)đề nghị giao kết hợp đồng; (ii)chấp nhận đề nghị hợp đồng; (iii) thời
điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng. Trong luật thương mại 2005 điều
này không được quy định cụ thể, vì vậy các quy định của bộ luật dân sự sẽ
được áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
5.1 Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào
hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế
8
về mua bán hàng hóa.Theo điều 390 bộ luật dân sự “đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chị sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã xác định được cụ thể.
Đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý đơn phương của người đề
nghị. Đó là một tuyên bố chỉ ra rằng : Người đưa ra đề nghị đó sẵn sàng
giao kết hợp đồng với chủ thể xác định trên cơ sở điều khoản đã đưa ra,nếu
đề nghị này được chấo nhận. Điểm mấu chốt của một đề nghị hợp đồng là
người đưa ra đề nghị hợp đồng phải dự định bị ràng buộc bởi các điều
khoản mà họ đã đưa ra mà không có sự đàm phán nào khác.
Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bến bán hoặc bên mua dưa ra.Bộ luật
dân sự cũng như luật thương mại năm 2005 không quy định về hình thức
của đề nghị hợp đồng mua bán hàng hóa,song có thể dựa vào quy định về
hình thức của hợp đòng mua bán theo điều 24 bộ luật thương mại để xác
định hình thức của đề nghị hợp đồng theo đó đề nghị hợp đòng có thể dược

thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các
hình thức này.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Đề
nghị đó phải được gửi đích danh và nội dung của đề nghị đó phải rõ ràng,có
ý định đặt quan hệ mua bán hàng hóa thực sự. Đề nghị được coi là rõ ràng
nếu trong đó xác định mặt hàng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, số lượng
hàng,giá cả,thủ tục…Vì trong mua bán hàng hóa đề nghị giao kết hợp đồng
gắn liền với trách nhiệm của người đề nghị, nên yếu tố đề nghị giao kết hợp
đồng phải đuợc chuyển cho một hoặc nhiều người xác định là rất quan
trọng.Nó là cơ sở để phân biệt giưua đề nghị giao kết hợp đồng với các
hành vi khác gần giống với nó như quảng cáo mua bán hàng hóa. Hiệu lực
của đề nghị giao kết hợp đồng mua bán thông thường được bên đề nghị ấn
định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề
nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được
9
đề nghị nhận được đề nghị đó. Khoản 2 điều 391 bộ luật dân sư quy định (i)
đề nghị được chuyển đến nơi cu trú (bên được đề nghị là cá nhân)hoạc trụ
sở của bên được đề nghị (nếu là pháp nhân) (ii) đề nghị được đưa vào hệ
thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii)bên được đề nghị biết
được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác. Trong
thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực,nếu bên được đề nghị thông báo chấp
nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hóa được
hình thành và có giá trị ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các
nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng trong các trường hợp (i) bên được đề nghị nhận đựoc thoong báo
về việc thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng thời
điểm nhận được đề nghị; (ii) điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát
sinh trong trường hợp bên dề nghị có nêu rõ về viẹc được thay đôi hoạc rút

lại đè nghị khi điều kiện đó phát sinh. Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung
của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (điều 392 BLDS).
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau (i)
bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) hết thời hạn trả lời cháp
nhận; (iii)thông báo về việc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv)thông báo về
việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v)theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên
nhận được đề nghị trơngthi hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
5.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
chuyênr cho bên đề nghị chuyển cho bên đề nghị việc chấp thuận toàn bộ
nội dung đã nêu trong đè nghị giao kết hợp đồng. Về vấn đề này điều 18
Công ước viên 1980 cũng quy định rõ:”tuyên bố,hành động nào đó cảu
người được chào hàng được thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được gọi
10
là việc chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải là
việc chấp nhận nhận dơn đặt hàng”. Như vậy chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng chỉ có giá trị khi đó là hành vi hành động mang tính tích cực của
đối tác trong giao dịch mua bán hàng hóa. Không thể coi là bên được đề
nghị giao kết hợp đồng đã đồng ý với lời đề nghị trong khi họ không có
biểu hiện nào ra bên ngoài để cho người đề nghị biết là mình đồng ý toàn bộ
đề nghị giao kết hợp đồng.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định tùy từng trường
hợp cụ thể :
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận thì chỉ
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp
đồng nhận được sự chấp nhận đề nghị khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp
nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kêt hợp đồng vẫn có hiệu lực ,trừ trường hợp bên đề nghị trả lời

ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị
- Khi các bên trực tiếp tiếp với nhau,kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua các phương tiện khác thì bên đề nghị phải trả lời ngay có chấp
nhận hoặc không chấp nhận,trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết
hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề
nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
5.3 Thời điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định thời điển giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có ý nghĩ quan
trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của hợp đồng,là cơ sở để xác định
11
phát sinh quyền và nghĩ vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Về nguyên tắc chung, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các
bên đạt được sự thỏa thuận. Theo điều 404 Bộ luật dân sự tì việc xác định
thời điểm giao kết hợp đồng mua bán theo các trường hợp sau:
- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản thì hợp đồng mua bán
hàng hóa có hiêu lực khi đủ 2 điều kiện sau đây: Bên đề nghi nhận
được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện ghi trong đề nghi giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị đó phải được nhận trong thời hạn
trả lời do người đề nghị đưa ra.
- Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có
thể sử dụng những biện pháp chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc
các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa bằng lời
nói.bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Hợp đồng cũng được xem như giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên
được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng là ngày hết thời
hạn trả lời.

- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản : thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đựoc giao kết hợp pháp được hình thành từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác(điều 405 BLDS).
6. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
12

×