Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

pháp luật về kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thực trạng và những giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 81 trang )

Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2011-2014
Đề tài:

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Giảng viên hướng dẫn:
Ts. Cao Nhất Linh
Bộ môn: Luật Thương Mại

Sinh viên thực hiện:
Lê Thành Đạt
MSSV: 5115970
Luật Thương Mại 2
Khóa: 37
Cần Thơ
Tháng 9 năm 2014

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

1


SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

MỤC LỤC
Trang

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………………………...1
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………………….2
3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………...……3
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………..3
5. Kết cấu của luận văn………………………………………………………………….3

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG………………………………………………………………………..4
1.1 Tổng quan về hoạt động XKLĐ ···························································4
1.1.1 Khái niệm hoạt động XKLĐ…………………….………………………..4
1.1.2 Lịch sử phát triển của hoạt động XKLĐ………………………………...…6
1.1.2.1 Giai đoạn 1980-1990…..………………………………………………...6
1.1.2.2 Giai đoạn 1991-2000……………………………………………............7
1.1.2.3 Giai đoạn từ 2001 đến nay………………………………………………..8
1.1.3 Các thị trường Việt Nam tiến hành XKLĐ…………………………………..10
1.1.3.1 Thị trường Nhật Bản…………………………………………………………..10
1.1.3.2 Thị trường Đài Loan…………………………………………………………...12
1.1.3.3 Thị trường Hàn Quốc…………………………………………………............12
1.1.3.4 Thị trường Malaysia……………………………………………………………13
1.1.3.5 Thị trường Trung Đông và Bắc Phi………………………………………….14

1.1.3.6 Các thị trường khác…………………………………………………………….14
1.1.4 Chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động XKLĐ……………….......15
1.2 Nguyên nhân, đặc điểm và vai trò của hoạt động XKLĐ………………………..16
1.2.1 Nguyên nhân………………………………………………………………….16
1.2.2 Đặc điểm …………………………………………………………………......18
1.2.3 Vai trò…………………………………………………………………………18
1.3 Nội dung và các hình thức XKLĐ…………………………………………………20
1.3.1 Nội dung của hoạt động XKLĐ………………………………………………20
1.3.2 Các hình thức XKLĐ………………………………………………………….21

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG………………………………………………………..23
2.1 Điều kiện kinh doanh dịch vụ XKLĐ……………………………………………...23
2.1.1 Điều kiện kinh doanh dịch vụ XKLĐ………………………………………...23
2.1.2 Giấy phép hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ…………………………….26
2.1.3 Chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp dịch vụ
XKLĐ…………………………………………………………………………………….29
2.2 Tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài…………………………………...31
2.2.1 Đối tượng tham gia tuyển chọn…………………………………………...31
2.2.2 Khu vực nghành nghề và công việc cấm đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài……………………………………………………………………………………..32
2.2.3 Nguyên tắc tuyển chọn…………………………………………………….33
2.3 Hợp đồng cung ứng lao động và hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước
GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

2

SVTH: Lê Thành Đạt



Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
ngoài……………………………………………………………………………………..34
2.3.1 Hợp đồng cung ứng lao động………………………………………………...35
2.3.2 Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài………………………………36
2.4 Các khoản chi phí liên quan……………………………………………………….37
2.4.1 Tiền môi giới…………………………………………………………………..37
2.4.2 Tiền dịch vụ……………………………………………………………….......39
2.4.3 Tiền ký quỹ của NLĐ…………………………………………………………40
2.5 Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ trong hoạt động XKLĐ…………42
2.5.1 Quyền của doanh nghiệp dịch vụ…………………………………………….42
2.5.2 Nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ………………………………………….43
2.6 Quy định về quản lý đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài……………………………………………………………………………………..45
2.6.1 Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước………………………………..45
2.6.2 Trách nhiệm của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài……………………………………………………………………………48
2.6.3 Trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận lao động………………………………49
2.6.4 Trách nhiệm của doanh nghiệp dịch vụ…………………………………….50
2.7 Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật trog hoạt động
XKLĐ……………………………………………………………………………………52
2.7.1 Giải quyết tranh chấp……………………………………………………......52
2.7.2 Xử lý vi phạm pháp luật………………………………………………………53

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT……………………………………..57
3.1 Tình hình hoạt động XKLĐ…………….…………………………………….…57
3.1.1 Những kết quả đạt được…………………………………………………...57
3.1.2 Một số khó khăn, thách thức trong hoạt động XKLĐ................................59
3.2 Một số hạn chế của pháp luật và hướng hoàn thiện……………………………...62

3.2.1 Một số hạn chế của pháp luật………………………………………………..62
3.2.2 Hướng hoàn thiện pháp luật về XKLĐ………………………………………66
3.2.3 Một số biện pháp khác hoàn thiện khác……………………………………..67

KẾT LUẬN………………………………………………………………...72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

3

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. XKLĐ: Xuất khẩu lao động
2. NLĐ: Người lao động
3. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
4. CHDC: Cộng hòa dân chủ
5. IM JAPAN: Cơ quan phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản.
6. JITCO: Tổ chức hợp tác tu nghiệp quốc tế Nhật Bản.
7. USD: Đơn vị tiền tệ của Mỹ.
8. EPS: Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc.
9. GCNDKKD: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh


4

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước và hội nhập kinh tế thế giới thì nguồn nhân lực lại đóng vai hết sức quan trọng.
Nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động thông minh, cần cù,
chịu khó và dễ thích nghi với công việc. Tuy nhiên hiện nay dân số nước ta tăng nhanh
trong khi đó các công ty, xí nghiệp ở nước ta lại không đáp ứng kịp thời nhu cầu việc làm
trong nước dẫn đến tình trạng nguồn lao động nước ta dư thừa. Hiện tượng dịch chuyển
lao động nông thôn lên các khu công nghiệp, các vùng thành thị ngày càng tăng nhanh
làm cho nạn thất nghiệp gia tăng. Giải quyết nạn thất nghiệp lao động luôn là vấn đề cấp
thiết và cần phải giải quyết kịp thời, đúng hướng. Một trong hướng giải quyết hiệu quả
của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua là tiến hành xuất khẩu lao động (XKLĐ).
Với định hướng XKLĐ rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế
đã được Đảng và Nhà nước xác định như là một trong những lĩnh vực đối ngoại đặc biệt,
một trong những chiến lược để phát triển nền kinh tế đất nước.
Hoạt động XKLĐ trong thời gian qua luôn không ngừng phát triển và góp phần giải
quyết được vấn nạn thất nghiệp lao động ở nước ta. Theo số liệu thống kê của Cục quản lí
lao động ngoài nước thì trong 8 tháng đầu năm 2014, tổng số lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài là 73.727 lao động, đạt 84,74% kế hoạch đầu năm 2014 và bằng
134,53% so với cùng kì năm ngoái. Trong đó thị trường Đài Loan là 44.535 lao động,
Nhật Bản là 12.606 lao động, Hàn Quốc là 4.615 lao động, Malaysia là 3.833 lao động, Ả

rập Xê út với 2.407 lao động và một số thị trường khác. Hoạt động XKLĐ giữ một vai trò
chiến lược quan trọng và lâu dài, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng
thu nhập cũng như nâng cao đời sống cho người dân và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước. Bên cạnh những thuận lợi đó thì hoạt động XKLĐ trong những năm qua cũng đã
phát sinh nhiều rủi ro, tiêu cực và bộc lộ những hạn chế của nó. Xảy ra các vấn đề về các
tổ chức, cá nhân lừa đảo lao động trong nước, lao động Việt Nam ở nước ngoài bị lạm
dụng, phân biệt đối xử… Nhất là việc lao động tự ý bỏ trốn về nước thời hạn, cư trú bất
hợp pháp ở các nước tiếp nhận gia tăng nhanh là vấn đề nhức nhối. Nó tác động đến quan
hệ hợp tác lao động của nước ta với các nước khác cũng như gây khó khăn cho việc quản
lí lao động Việt Nam ở các nước tiếp nhận lao động. Vấn đề này nếu không được giải
quyết một cách kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của các doanh nghiệp dịch vụ
XKLĐ, uy tín của người lao động (NLĐ) cũng như việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao với
GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

5

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
các nước trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm
2007 và sau đó hàng loạt các Nghị định và Thông tư hướng dẫn các quy định của Luật
này đã được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài.
Từ khi Luật đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài có hiệu lực đến nay, hoạt động
XKLĐ diễn ra khá sôi nổi và thu hút được số lượng lớn lao động trong nước đi làm việc
ở nước ngoài. Tuy nhiên trong suốt quá trình tồn tại thì Luật đưa NLĐ đi làm việc ở nước

ngoài vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập trong các quy định gây khó khăn cho hoạt động
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng như lợi ích của các bên trong hoạt
động này. Chính vì vậy, để người đọc có thể có một cách nhìn nhận tổng quan hơn về tình
hình hoạt động XKLĐ trong thời gian qua, cho người đọc thấy được những bất cập, khó
khăn trong hoạt động dịch vụ XKLĐ. Bên cạnh đó nêu lên những quy định của pháp luật
về vấn đề này và những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện quy định của pháp luật
trong thời gian qua. Để từ đó người viết nêu lên quan điểm của mình và đề xuất những
giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật về dịch vụ XKLĐ trong thời gian tới là vấn
đề cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Đó chính là lý do người viết chọn đề tài “ Pháp luật
về dịch vụ Xuất khẩu lao động-Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật”
để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung cũng
như các quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng của hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài. Từ đó nêu lên những kết quả đã đạt được cũng như những mặt khó
khăn, thách thức cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, người viết cũng nêu lên những hạn
chế cũng như thiếu sót của pháp luật về dịch vụ XKLĐ. Trên cơ sở những bất cập đó và
cuối cùng đề xuất những hướng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ XKLĐ trong những năm
tới. Góp phần tạo tiền đề thúc đẩy dịch vụ XKLĐ phát triển lên một tầm cao mới và trở
thành một trong những thế mạnh trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước.
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, người viết đi sâu, tìm hiểu về các vấn
đề sau: Tìm hiểu và phân tích để làm rõ các vấn đề lý luận cũng như những chính sách
của nhà nước khuyến khích, đẩy mạnh dịch vụ XKLĐ; Phân tích các quy định của pháp
luật Việt Nam về dịch vụ XKLĐ; Nêu lên tình hình hoạt động dịch vụ XKLĐ trong thời
gian qua ở nước ta; Nêu ra một số hạn chế của pháp luật về dịch vụ XKLĐ và đề xuất
GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

6

SVTH: Lê Thành Đạt



Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
một số phương hướng hoàn thiện pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “ Pháp luật về dịch vụ Xuất khẩu lao động-Thực trạng và những giải pháp
hoàn thiện pháp luật” là một đề tài có nội dung rộng và phức tạp vì liên quan đến rất
nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội và những quy định cụ thể của pháp luật. Vì vậy, người viết
không thể tập trung vào phân tích tất cả các lĩnh vực do thời gian và kiến thức có giới hạn.
Do đó, với đề tài này người viết chỉ tập trung đi sâu vào phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ, nguyên tắc tuyển chọn
lao động và các khoản chi phí liên quan đến dịch vụ XKLĐ. Đồng thời, nêu lên những
hạn chế trong các quy định của pháp luật về dịch vụ XKLĐ, để từ đó người viết đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ XKLĐ để góp phần thúc đẩy hoạt động
này ngày càng phát triển hơn, phát huy hiệu quả thế mạnh của nước ta đưa hoạt động này
ngày càng phát triển, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất cho nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích luật viết –
phương pháp đặc thù của ngành luật. Ngoài ra người viết còn sử dụng một số phương
pháp khác như: Phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, liệt kê, so
sánh, nhằm đi sâu tìm hiểu nội dung, những thuận lợi cũng như những mặt khó khăn, hạn
chế để từ đó đề ra hướng giải quyết phù hợp yêu cầu và sự phát triển trong thời kì hội
nhập cho những vấn đề đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời Mục lục, lời cảm ơn, lời nói đầu, nhận xét của hội đồng chấm luận văn, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn gồm:
Chương 1: Lý luận chung về dịch vụ xuất khẩu lao động.
Chương 2: Quy định của pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động.
Chương 3: Thực trạng của dịch vụ xuất khẩu lao động ở nước ta hiện nay và hướng

hoàn thiện pháp luật.

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

7

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

Hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao động- XKLĐ đã và đang đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là
đối với các nước đông dân, thu nhập thấp như Việt Nam. Trong thời gian qua, Đảng và
Nhà nước ta luôn có những chính sách, chủ trương thích hợp đưa NLĐ đi làm việc ở
nhiều thị trường nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau phù hợp với xu thế tất yếu
của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới. Hoạt động này góp phần giải quyết
việc làm, tạo thu nhập cho NLĐ, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và là một bộ
phận của hoạt động hợp tác quốc tế của Việt Nam.

1.1 Tổng quan về hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1 Khái niệm xuất khẩu lao động
Ở nước ta, hoạt động XKLĐ đã được tiến hành từ lâu và nó chỉ thật sự trở thành một
hệ thống với sự tham gia quản lý của Nhà nước, chủ trương của Đảng từ những năm 80
cuả thế kỉ 20. Theo đó xuất hiện các tên gọi khác nhau gắn liền với các chính sách điều
hành, quản lý khác nhau của Nhà nước về việc tổ chức cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài như: hợp tác quốc tế về sử dụng lao động, đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, XKLĐ, đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài…
Hợp tác quốc tế về lao động là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua các
hiệp định được thỏa thuận và kí kết giữa các quốc gia đó, là sự di chuyển có thời hạn lao
động giữa các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức.1 Khái niệm này có nội dung
rộng lớn, bao hàm nhiều lĩnh vực quan trọng trong quan hệ quốc tế về lao động chứ
không đơn thuần là nhằm mục đích kinh tế mà còn các mục đích khác.
Đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hình thức di chuyển lao động
ra nước ngoài để làm việc có thời hạn một cách hợp pháp. Đây là một giải pháp tạo việc
làm từ nước ngoài nhằm tạo ra một phần thu nhập quốc dân, tiếp thu khoa học công nghệ,
kỹ thuật, nâng cao trình độ lao động của NLĐ.2

Phạm Kiên Cường, Tổ chức sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội của Việt Nam trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 8.
2 Lưu Văn Hưng, Xuất khẩu lao động Việt Nam thời đổi mới và hội nhập, Nxb Từ điển bách khoa, năm 2011, Trang 19.
1

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

8

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Bích gọi hoạt động XKLĐ theo thuật ngữ quốc tế để
chỉ sự di cư lao động. Theo đó XKLĐ là hiện tượng NLĐ làm thuê di chuyển ra nước
ngoài nhằm mục đích kiếm việc làm để kiếm sống hay nói khái quát hơn là di cư ra nước
ngoài vì lý do kinh tế.3

XKLĐ chỉ hoạt động dịch chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác, nó
bao gồm cả XKLĐ tại chỗ.4 XKLĐ là hoạt động mua bán hàng hoá sức lao động nội địa
cho người sử dụng lao động nước ngoài. Người sử dụng lao động nước ngoài ở đây là
chính phủ nước ngoài hay cơ quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao
động trong nước. Hàng hoá sức lao động nội địa: muốn nói tới lực lượng lao động trong
nước sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao động nước ngoài.
XKLĐ được hiểu bao gồm XKLĐ nội biên và đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài. XKLĐ nội biên tức là người lao động trong nước làm việc cho các doanh nghiệp
nước ngoài, các tổ chức quốc tế qua Internet, nhận làm gia công sản phẩm cho nước
ngoài….
XKLĐ là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong văn bản pháp lý của nước ta
cũng như các nghiên cứu của nước ngoài và trong thực tế đời sống để nói về sự di chuyển
lao động quốc tế hiện nay. XKLĐ là việc Đảng, Nhà nước ta chủ trương tổ chức cho
những NLĐ, có độ tuổi, sức khỏe, trình độ khác nhau đi làm việc ở nước ngoài theo các
hình thức do pháp luật quy định nhằm mục đích giải quyết một số mục tiêu kinh tế- xã
hội nhất định. Các chủ thể trong nước tham gia vào hoạt động này gồm có: Nhà nước, các
tổ chức môi giới, doanh nghiệp dịch vụ và NLĐ, trong đó NLĐ di chuyển ra nước ngoài
để trực tiếp đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của nước tiếp nhận.
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài cũng giống hoạt động xuất khẩu hàng
hóa- hàng hóa đặc biệt là sức lao động nên người ta thường dùng thuật ngữ XKLĐ để chỉ
sự di chuyển sức lao động từ quốc gia này đến quốc gia khác nhằm mục đích kinh tế. Vì
vậy, theo người viết thuật ngữ “ xuất khẩu lao động” mới phản ánh tổng quát nhất mục
đích, hình thức, cách thức tổ chức cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài,
thời gian, các dạng lao động và tính chất công việc mà NLĐ tham gia ở nước ngoài. Vì
vậy, người viết sử dụng thuật ngữ “xuất khẩu lao động” thay vì việc sử dụng các thuật
ngữ như đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, đưa người lao động đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài hay thuật ngữ hợp tác quốc tế về lao động…

Nguyễn Thị Hồng Bích, XKLĐ của một số nước Đông Nam Á-Kinh nghiệm và bài học, Nxb Khoa học kỹ thuật, năm 2007,
trang 11.

4 Trần Thị Thu, Nâng cao hiệu quả quản lý XKLĐ của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay, Nxb Lao động xã hội, năm
2006, trang 12.
3

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

9

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
1.1.2 Lịch sử phát triển của dịch vụ xuất khẩu lao lao động
1.1.2.1 Giai đoạn 1980-1990: giai đoạn đặt dấu mốc đầu tiên cho hoạt động xuất
khẩu lao động
Trong giai đoạn này nước ta chủ yếu tiến hành hoạt động XKLĐ theo các hiệp định
hợp tác quốc tế về lao động của Chính phủ với các nước trong khối Xã hội chủ
nghĩa( XHCN). Đây là giai đoạn đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của hoat động
XKLĐ. Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ trong giai đoạn này không được phát triển rộng rãi
mà nó chỉ được thực hiện theo các kế hoạch, chỉ tiêu của Nhà nước đề ra chứ không theo
nhu cầu phát triển của thị trường. Nhà nước trực tiếp kí kết các nghị định thư với các
nước, tuyển chọn và tiến hành đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Mục đích bồi dưỡng
nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kĩ thuật, nghiệp vụ, quản lý là chủ yếu. Đồng thời,
làm việc có thời hạn trong các cơ sở kinh tế của các nước XHCN nhằm đáp ứng tốt nhu
cầu đào tạo lao động của nước ta và giúp các nước anh em khắc phục khó khăn về lao
động, trên tinh thần hợp tác XHCN giữa các nước thành viên trong hội đồng tương trợ
kinh tế.5
Kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng đề ra phương hướng phát triển
mới cho hoạt động XKLĐ. Mở rộng XKLĐ và đưa chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài

bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động
nói chung của toàn xã hội, của từng nghành từng địa phương.6 Số lượng lao động và
chuyên gia Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn này là gần
300.000 người, trong đó: đi lao động ở 4 nước XHCN (Liên xô cũ, Cộng hòa dân chủ
(CHDC) Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari) là 244.186 người; đi làm chuyên gia ở các
nước Châu Phi (Libi, Angêria, Angola, Môdămbích, Công gô, Madagaxca) là 7.200
người, đi làm xây dựng ở Trung Đông (Irắc) khoảng 18.000 người, ngoài ra còn có
23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao
động trong thời kỳ những năm 80.7 Trong những năm 1980-1990, đi đôi với việc thực
hiện các hình thức hợp tác đã kí kết với các nước, thì Nhà nước ta dần chuyển sang các
hình thức hợp tác khác có hiệu quả hơn như nhận thầu khoán việc, nhận thầu toàn bộ
công trình xây dựng, hợp tác sản xuất chia sản phẩm…coi đây là những hình thức chủ
yếu. Đặc biệt là các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ được mở rộng hơn cho các tổ
chức dịch vụ hợp tác lao động và chuyên gia do các công ty hoặc tổ chức kinh tế thích
hợp của các nghành có tư cách pháp nhân, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh
Quyết định số 46/QĐ-CP ngày 11/2/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao
trình độ và làm việc có thời hạn tại các nước xã hội chủ nghĩa.
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 của Đảng cộng sản Việt Nam.
7 Hữu Tuấn, Hiệu quả từ xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và xã hội số 395, kỳ 2, năm 2010 trang (15,16).
5

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

10

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật

doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính được phép thực hiện.8 Như vậy, giai đoạn khai sơ
của hoạt động XKLĐ trong thời kỳ này đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, tạo
nên một nền tảng vững chắc cho hoạt động XKLĐ phát triển.
1.1.2.2 Giai đoạn 1991-2000: giai đoạn đổi mới hoạt động xuất khẩu lao động
Từ cuối năm 1990, Đảng và Nhà nước ta chủ trương “đẩy mạnh xuất khẩu lao động”,
mở rộng XKLĐ trên những thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần
kinh tế tham gia XKLĐ và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật, dưới sự quản
lí chặt chẽ của Nhà nước.9 Đây là những thay đổi quan trọng, tạo cơ sở cho việc chuyển
đổi cơ chế hợp tác quốc tế về lao động sang hoạt động XKLĐ theo cơ chế thị trường có
sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài trong thời kì này được mở rộng hơn, bao gồm cả
những người có nghề hoặc chưa có nghề, học sinh mới tốt nghiệp các trường chuyên
nghiệp, những lao động có trình độ cao như những người làm công tác khoa học kĩ thuật,
nghiệp vụ quản lý, kể cả các chuyên gia.10 Người đi lao động ở nước ngoài phải nộp các
khoản chi phí vào ngân sách Nhà nước như: phí đi làm việc ở nước ngoài, quỹ bảo hiểm
xã hội. Các tổ chức kinh tế hoạt động dịch vụ này phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế,
chấp hành các quy định của pháp luật, các chính sách về chế độ sử dụng ngoại tệ của Nhà
nước…
Hoạt động XKLĐ trong thời kì này phát triển theo hướng mới, đa dạng theo nhiều
hình thức mới, theo xu thế của nền kinh tế thị trường mang định hướng XHCN. Nước ta
đã thực hiện XKLĐ sang một số thị trường mới, lao động và chuyên gia ta hiện nay có
mặt ở nhiều thị trường mới như Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi, một
số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực trên biển.11 NLĐ với nhiều trình độ tay nghề
khác nhau đều được đi làm việc ở nước ngoài theo nhiều hình thức. Đặc biệt là NLĐ
được tự do ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động nước ngoài mà không
phải thông qua bất kì tổ chức trung gian nào. Đây là một bước đột phá mới trong các quy
định về XKLĐ trong thời kỳ này.
Số lượng người tham gia đi lao động làm việc ở 4 nước Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp
Khắc, Bungari từ năm 1991 đến năm 2000 liên tục tăng qua các năm từ 1.022 người


Chỉ thị 108-HĐBT ngày 30-6-1988 của Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường hợp tác lao động và chuyên gia với nước
ngoài.
9 Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 8 năm 1998 của Đảng cộng sản Việt Nam.
10 Khoản 1, điều 4, Nghị định số 370-HĐBT, ngày 9/11/1991 ban hành quy chế về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
11 Cục quản lý lao động với nước ngoài, Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam,
[ngày truy cập
3-9-2014].
8

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

11

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
(1991) lên 37.000 người(2000) và tổng số lao động đi làm việc ở các 4 nước trên trong
giai đoạn này là 158.752 người.12 Nhất là từ khi Nghị định số 152 của Chính phủ quy
định về việc đưa NLĐ và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài ra đời là một
sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với quyền tự do tìm kiếm việc làm ở nước ngoài của
NLĐ. Các thành phần kinh tế cũng đều được tham gia XKLĐ và bình đẳng trước pháp
luật.13
Tuy nhiên, do hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động này chưa điều chỉnh
đầy đủ, kịp thời và đồng bộ, chất lượng lao động còn thấp, cũng như công tác tuyên
truyền và đào tạo nguồn nhân lực này chưa được coi trọng, công tác quản lý còn nhiều
thiếu sót…. Nên trong giai đoạn này, chất lượng XKLĐ chưa được phát huy hết tiềm
năng và thế mạnh của nó.
1.1.2.3 Giai đọan từ năm 2001 nay: giai đoạn kế thừa và phát triển hoạt động

xuất khẩu lao động
Trong giai đoạn này, các quan điểm cũng như những chính sách đường lối và hệ
thống pháp luật về hoạt động XKLĐ dần được củng cố và phát triển. Để khắc phục
những hạn chế, bổ sung những thiếu sót đồng thời phát huy những thế mạnh trong thời
gian qua, nhiều văn bản pháp lý cũng như chính sách liên quan đến hoạt động này được
ban hành như Bộ luật Lao động năm 1994 đã được sửa đổi bổ sung năm 2002 nhằm giúp
cho hoạt động XKLĐ phát triển ổn định và trở thành thế mạnh của kinh tế Việt Nam
trong thời kì đổi mới. Công tác quản lý không ngừng được chú trọng và phát triển nhằm
giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, hạn chế những vấn đề tiêu cực trong hoạt động
này. Bảo vệ quyền lợi của NLĐ nước ta và các quan hệ chính trị, kinh tế và đối ngoại với
các nước tiếp nhận lao động. Đồng thời xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý và hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ.
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có hiệu lực từ ngày
1/7/2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đánh dấu sự hoàn thiện cơ bản hệ thống
pháp luật và công cụ quản lý của Nhà nước về hoạt động XKLĐ. Khẳng định vị trí cũng
như tầm quan trọng của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài trong nền kinh tế
nước nhà, đồng thời khuyến khích mở rộng và phát triển hoạt động này hơn nữa. Theo số
liệu thống kê Cục quản lý lao động ngoài nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội cho biết: Năm 2005 có khoảng 70.000 lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc các
Cục quản lý lao động với nước ngoài, Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam,
[ngày truy cập
3-9-2014].
13 Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 20-9-1999 quy định về việc đưa NLĐ và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
12

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

12

SVTH: Lê Thành Đạt



Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
thị trường như Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia và Hàn Quốc, nhiều thị trường XKLĐ mới,
trong đó là các thị trường có nhiều tiềm năng như Libi, Ả rập Xê Út, Pháp, Canađa, Anh
và Hy Lạp. Năm 2006, cả nước đưa được hơn 78 nghìn lao động đi làm việc ở nước
ngoài, vượt chỉ tiêu đề ra, trong đó lớn nhất là Malaysia với 37.950 lao động, tiếp theo là
Đài Bắc Trung Quốc với 14.120 lao động. Năm 2007, Việt Nam dự định sẽ đưa khoảng
80.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam ngày
23-10-07: 9 tháng đầu năm 2007 Việt Nam đưa 62.760 lao động được đưa đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài, đạt 78,5% kế hoạch cả năm. Trong đó, đông nhất là lao động đi
Malaysia với 21.313 người; thứ 2 là thị trường Đài Loan - 16.554; Tiếp đó là các thị
trường: Hàn Quốc - 8.536; Qatar - 4.350; Nhật Bản - 3.047; Macau - 1.631; các thị
trường khác - 7.032 người. Năm 2010, dự kiến số lao động xuất khẩu sẽ tăng lên 100.000
người.14
Bộ Luật lao động số 10/2012/QH13 được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 và có hiệu lực từ
ngày 1-5-2013. Bộ luật lao động 2012 được xem như một văn bản pháp lý quan trọng, tạo
nền tảng cơ bản cho hoạt động XKLĐ. Bộ luật này có nhiều quy định khá chi tiết về tiêu
chuẩn lao động, độ tuổi NLĐ, các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng lao động cũng như việc giải quyết tranh chấp trong lao động. Bên cạnh
đó. Bộ luật lao động 2012 còn có những chính sách khuyến khích và tạo nhiều điều kiện
thuận lợi thúc đẩy cho hoạt động XKLĐ phát triển bền vững, chính sách hỗ trợ người sử
dụng lao động, NLĐ tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ở nước ngoài.15
Để đáp ứng đầy đủ và kịp thời về cả số lượng và chất lượng lao động cho các thị
trường nước ngoài, các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực được quan tâm và đẩy mạnh
phát triển. Ngoài ra nhà nước còn thành lập Qũy hỗ trợ việc làm ngoài nước nhằm hỗ trợ
rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp XKLĐ, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh
tranh của lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bước sang năm 2014, nhiều thị

trường lao động như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức… đang rộng của chào đón lao
động Việt Nam sang làm việc. Lực lượng lao động Việt Nam sẽ là một đội ngũ lao động
chất lượng, đáng tin cậy trong mắt của thị trường các nước hay không điều đó còn phụ
thuộc vào công tác đào tạo cũng như chính sách phát triển của Nhà nước ta trong giai
đoạn mới.

Trung tâm giới thiệu việc làm thanh niên tỉnh Quảng Ninh, Tình hình xuất khẩu lao động những năm trở lại đây,
,[ngày truy cập 3-9-2014].
15 Khoản 1, điều 168, Bộ Luật lao động năm 2012.
14

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

13

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
1.1.3 Các thị trường Việt Nam tiến hành xuất khẩu lao động
1.1.3.1 Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là nước có nền kinh tế phát triển cao ở Châu Á và đứng thứ ba trên thế giới.
Tuy nhiên, do hứng chịu nhiều trận động đất, sóng thần nên dân số Nhật Bản đang ngày
càng già đi và việc thiếu nguồn nhân lực đang là vấn đề cấp bách tại đất nước mặt trời
mọc này. Vì vậy Nhật Bản đang hướng tới tìm nguồn nhân lực mới ở các nước láng giềng
có nguồn nhân lực dồi dào như Việt Nam.
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21 tháng 9 năm
1973. Cho đến nay hai nước đã xây dựng và không ngừng phát triển mối quan hệ hữu
nghị và hợp tác toàn diện và đã đạt đến một đỉnh cao mới, trở thành đối tác chiến lược

của nhau. Việt Nam đã tiến hành đưa nhiều lao động, thực tập sinh, tu nghiệp sinh sang
lao động và làm việc tai Nhật Bản. Mỗi năm nước này tiếp nhận hơn 100.000 thực tập
sinh nước ngoài, trong đó có khoảng 6.000 thực tập sinh Việt Nam. Theo thống kê của
cục quản lý lao động ngoài nước thì Nhật Bản là thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam
cao thứ hai sau Đài Loan với 12.606 người trong 8 tháng đầu năm 2014.16 Đây là thị
trường tiềm năng lớn cho lao động Việt Nam, nhất là đối với các thực tập sinh và tu
nghiệp sinh.
Chương trình hợp tác với Cơ quan phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản (IM JAPAN):
Từ năm 2006, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổ chức IM JAPAN
để thực hiện Chương trình thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản. Đây là chương trình phi lợi
nhuận do Tổ chức dịch vụ công của Việt Nam thực hiện, chi phí thấp nhưng thu nhập cao,
được rất nhiều người lao động quan tâm. Theo thỏa thuận, thanh niên trong độ tuổi từ 18
đến 25, thuộc hộ gia đình nghèo, hoặc thuộc đối tượng hưởng chính sách xã hội theo quy
định của Chính phủ Việt Nam đã tốt nghiệp trung học phổ thông, sẽ được lựa chọn để
tham gia chương trình đào tạo và được đài thọ tiền học phí, học phẩm, tiền ăn và ở nội trú
trong thời gian học. Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo và vượt qua kỳ thi cuối kỳ,
học viên sẽ được cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình, được hai bên công nhận
đủ điều kiện và được lựa chọn tham gia chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật Việt
Nam tại Nhật. Sau khi thực tập sinh hoàn thành chương trình thực tập 3 năm và về nước
đúng hạn, thực tập sinh sẽ được tổ chức IM JAPAN hỗ trợ 600.000 yên/người khoảng
hơn 120 triệu đồng để tái hòa nhập cộng đồng và phát triển sự nghiệp. Nếu có nguyện
vọng làm việc trong các công ty Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam, thực tập sinh sẽ được Bộ

Cục Quản lý lao động ngoài nước, 73.727 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong 8 tháng đầu năm 2014,
, ngày truy cập[ 3-9-2014].
16

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

14


SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với Văn phòng đại diện IM JAPAN tại Việt
Nam giới thiệu để các công ty tuyển chọn.17
Chương trình hợp tác với Tổ chức Hợp tác tu nghiệp quốc tế Nhật Bản (JITCO):
Chương trình đưa tu nghiệp sinh Việt Nam đi tu nghiệp tại Nhật Bản được thực hiện từ
năm 2006 theo Thỏa thuận giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với Hiệp hội Phát
triển nhân lực quốc tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản . Thông qua Chương trình
này, JITCO sẽ hỗ trợ đào tạo nghề nhằm giúp thanh niên Việt Nam nâng cao tay nghề,
tiếp cận với các kỹ thuật tiên tiến và công nghệ hiện đại để khi trở về nước góp phần tích
cực vào công cuộc phát triển đất nước. Đến nay, trên 20.000 tu nghiệp sinh Việt Nam
sang Nhật tu nghiệp, chiếm 5,2% tổng số tu nghiệp sinh của các nước đang tu nghiệp tại
Nhật.18
Chương trình đưa hộ lý và điều dưỡng sang làm việc và học tập tại Nhật: Trên cơ sở
văn kiện xác nhận về cơ chế tiếp nhận điều dưỡng viên và hộ lý đủ tiêu chuẩn của Việt
Nam sang Nhật Bản được ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ Nhật Bản, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội là đơn vị đầu mối thực hiện chương trình phái cử ứng viên điều dưỡng, hộ lý Việt
Nam sang làm việc tại Nhật Bản. Đây là chương trình giúp cho những người tốt nghiệp
chuyên ngành điều dưỡng có nguyện vọng được sang làm việc tại Nhật Bản với tư cách
là ứng viên điều dưỡng và hộ lý có cơ hội tham dự kỳ thi cấp Chứng chỉ quốc gia tại Nhật
Bản. Những người được lựa chọn sẽ được sang Nhật Bản vừa học vừa làm với thời gian
tối đa 3 năm đối với ứng viên điều dưỡng (mỗi năm gia hạn một lần) và tối đa 4 năm đối
với ứng viên hộ lý (mỗi năm gia hạn một lần). Trong thời gian vừa học vừa làm tại Nhật
Bản, các ứng viên được phép dự kỳ thi cấp Chứng chỉ quốc gia Nhật Bản về điều dưỡng
viên và hộ lý. Ứng viên điều dưỡng được dự thi mỗi năm một lần, ứng viên hộ lý được

dự thi một lần vào năm thứ tư. Nếu đỗ, các ứng viên sẽ được cấp Chứng chỉ quốc gia đối
với điều dưỡng viên, hộ lý Nhật Bản và được phép ở lại làm việc dài hạn. Đây là cơ hội
cho các điều dưỡng viên hộ lý có cơ hội vừa học tập vừa làm việc tại Nhật Bản.19
Các chương trình khác: Bên cạnh việc hợp tác đưa thực tập sinh, tu nghiệp sinh và
điều dưỡng viên hộ lý sang làm vừa học vừa làm tại Nhật, Việt Nam cũng đã cung cấp
lao động kỹ thuật có tay nghề cao, kỹ sư công nghệ thông tin, những người có trình độ
Trung tâm lao động ngoài nước, Giới thiệu chương trình tu nghiệp sinh Nhật Bản,
, ngày truy cập [25-9-2014].
18 Tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật. Việt Báo,
, ngày truy
cập[ 26-10-2014].
19 Cục quản lý lao động ngoài nước, Tuyển chọn ứng viên điều dưỡng hộ lý làm việc tại Nhật Bản,
, ngày truy cập [26-10-2014].
17

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

15

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
đại học và trên đại học trong các lĩnh vực cho Nhật Bản. Hiện nay, thời gian làm việc của
kỹ sư, chuyên gia Việt Nam tại Nhật Bản là ba năm và có thể gia hạn thêm hai năm, đucợ
hưởng mức thu nhập cao, được cung cấp nhà ở, điện nước và các tiện nghi sinh hoạt như
bếp gas, tủ lạnh, lò sưởi…
1.1.3.2 Thị trường Đài Loan
Nước ta đã bắt đầu tiến hành XKLĐ sang thị trường này từ cuối năm 1999, đến nay

đã đưa được trên 200 nghìn lượt lao động sang làm việc. Trước đây, lao động ta cũng bỏ
hợp đồng ra ngoài với tỷ lệ lớn, dẫn đến từ đầu năm 2005 Đài Loan buộc phải tạm dừng
việc nhận lao động chăm sóc người bệnh và phục vụ trong các gia đình. Trước tình hình
đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường khai
thác hợp đồng đưa lao động sang làm việc trong các ngành sản xuất công nghiệp, thu
nhập khoảng 700 đô la Mỹ (USD)/tháng.20
Trong những năm gần đây, thị trường này đang tiếp nhận lượng lao động của nước ta
sang làm việc cao nhất với 44.535 người trong 8 tháng đầu năm 2014.21 Đây là thị
trường dễ tính, không đòi hỏi lao động có trình độ cao và đang có nhu cầu cao lao động
Việt Nam. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho nghành XKLĐ của nước ta. Vì vậy cần
tiếp tục phát huy hợp tác đưa NLĐ sang làm việc ở thị trường tiềm năng cao này.
1.1.3.3 Thị trường Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những thị trường XKLĐ truyền thống của nước ta trong
những năm qua. Trước đây, nước ta đưa lao động sang Hàn Quốc theo hình thức tu
nghiệp sinh thông qua một số doanh nghiệp dịch vụ. Từ năm 2004, theo Luật Cấp phép
việc làm cho người lao động nước ngoài của Hàn Quốc, hai bên đã ký thỏa thuận về đưa
lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo hình thức phi lợi nhuận, NLĐ chỉ
phải chịu chi phí 700 USD trước khi đi.
Tính đến nay, đã có khoảng 43.000 lao động Việt Nam được đưa đi làm việc theo
chương trình này. Hiện đang có khoảng 50.000 lao động Việt Nam làm việc tại đây, hàng
năm gửi về nước trên 700 triệu USD. Lao động ta làm việc tại đây chủ yếu trong các nhà
máy công nghiệp (khoảng 87%), số còn lại làm việc trong các ngành nông nghiệp, xây
dựng và thủy sản. Người lao động có điều kiện bảo đảm, việc làm ổn định và thu nhập
cao, bình quân khoảng hơn 1.000 USD/tháng.22

Đào Công Hải, Đặc thù của một số thị trường xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và Xã hội số 395, năm 2010, trang 29.
Cục Quản lý lao động ngoài nước, 73.727 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong 8 tháng đầu năm 2014,
, ngày truy cập[ 3-9-2014].
22 Đào Công Hải, Đặc thù của một số thị trường xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và Xã hội số 395, năm 2010, trang 28.
20

21

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

16

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
Năm 2013, Chính phủ thực hiện thí điểm chương trình ký quỹ đối với NLĐ đi làm
việc tại Hàn Quốc theo chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn
Quốc ( EPS). NLĐ đi làm việc ở Hàn Quốc theo hợp đồng EPS sẽ được hưởng chế độ lao
động vừa làm việc vừa học nghề. NLĐ sẽ phải ký quỹ 100 triệu đồng, Chính phủ có quy
định các đối tượng được vay tiền tại Ngân hàng chính sách xã hội để đi làm việc ở Hàn
Quốc lên đến 100 triệu đồng và không phải thuế chấp tài sản.23 Đối với chương trình
EPS lao động được Nhà nước hỗ trợ cho vay tiền ký quỹ tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ
nhất là những NLĐ nghèo có điều kiện kinh tế khó khăn có thể tham gia làm việc tại Hàn
Quốc.
Theo thống kê của cục quản lý lao động ngoài nước, hiện nay Hàn Quốc là quốc gia
tiếp nhận lao động Việt Nam đứng thứ 3 sau Đài Loan và Nhật Bản với 4.615 lao động
trong những tháng đầu năm 2014 và con số này sẽ tiếp tục tăng nữa. Bên cạnh đó một số
chuyên gia cũng như lao động có trình độ cao cũng tham gia làm việc tại Hàn Quốc đem
về cho nước ta nguồn thu ngoại tệ lớn.24
1.1.3.4 Thị trường Malaysia
Có thể nói Malaysia là một trong những thị trường tiên phong trong hoạt động XKLĐ
của nước ta với số lượng lao động mà nước này tiếp nhận khá cao trong những năm qua.
Thị trường này là một thị trường lớn nhiều tiềm năng và thuận lợi để phát triển so với các
thị trường khác. Để được đi làm việc tại Malaysia, người lao động không phải đóng nhiều

tiền như các thị trường khác. Chính vì kinh phí ít nên Malaysia là thị trường được nhiều
lao động là những người có điều kiện kinh tế khó khăn chọn lựa hơn. Malaysia cũng là
thị trường dễ tính, phía đối tác không yêu cầu quá khắt khe về trình độ của lao động, có
khi lao động vừa học vừa làm. Làm tốt thì lương cao, làm kém thì lương thấp. Vì thế, khi
sang Malaysia, hầu hết lao động Việt Nam được các công ty môi giới bố trí làm việc tại
các xí nghiệp, nhà máy nhỏ theo hình thức lao động thủ công, dễ làm, dễ thích nghi.
Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã ồ ạt tuyển dụng lao động đi làm việc tại thị
trường Malaysia. Đến thời điểm này, Việt Nam đang có khoảng 72.000 lao động làm việc
tại Malaysia. Số lao động xây dựng không có việc phải về nước chỉ vẻn vẹn 700 người,
có nghĩa là tỉ lệ rủi ro là rất thấp (chưa đến 1%). Tỷ lệ này không thể gây ảnh hưởng đến
tình hình XKLĐ của Việt Nam ở Malaysia. Hơn nữa, sự cố này đều được cả hai bên ghi
nhận là do nguyên nhân khách quan (giá thép thế giới tăng). Sau khi bình ổn giá thép,
mọi công việc lại trở về như cũ. Cả hai bên đều xác định sự cố này chỉ là rủi ro trong kinh
Quyết định số 1465/QĐ-TTg ngày 21-8-2013 về việc thực hiện thí điểm ký quỹ đối với NLĐ đi lao động tại Hàn Quốc theo
chương trình EPS.
24 Cục quản lý lao động ngoài nước, 73.727 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong 8 tháng đầu năm 2014,
, [ngày truy cập 5-9-2014].
23

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

17

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
tế thị trường.25 Đây là thị trường thu hút số lượng lớn lao động nước ta trong những năm
qua, Nhà nước cần có những chính sách kịp thời để đẩy mạnh hơn nữa việc đưa NLĐ

sang làm việc ở thị trường có nhiều tiềm năng này.
1.1.3.5 Thị trường Trung Đông và Bắc Phi
Trung đông là thị trường thu hút nhiều lao động Việt Nam trong thời gian qua, đặc
biệt là Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Arập Xê út, Ca-ta, Bahrain, Oman. Hiện
nay, có 22.000 lao động Việt Nam đang làm việc và thu nhập tương đối đảm bảo và ổn
định ( lao động phổ thông thu nhập khoảng 300USD/tháng, lao động có tay nghề khoảng
500-800USD/tháng).26
Bắt đầu từ năm 2008, thị trường Lybia đã phát triển mạnh mẽ và ta đã đưa được
khoảng 3.500 lao động, hiện có khoảng 7.000 lao động đang làm việc tại thì trường này.
Cũng như Malaysia và Đài Loan đây là thị trường dễ tính, không yêu cầu cao nhưng
mang lại thu nhập cao cho lao động nước ta. Tuy nhiên, gần đây tình hình chính trị bất ổn
tại nước này đã khiến cho nhiều lao động nước ta mất việc buộc phải về nước. Tính đến
hết ngày 13-8-2014, có 907 lao động nước ta đã về nước an toàn.27 Việc tạo việc làm cho
số lao động phải về nước trước thời hạn do khủng hoảng kinh tế cũng như chiến sự và
bảo hộ cho lao động nước ta ở nước ngoài đang là vấn đề cấp thiết cần giải quyết đối với
những thị trường có nền chính trị bất ổn như Lybia.
1.1.3.6 Các thị trường khác
Ngoài các thị trường chủ lực và truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Malaysia hiện nay nước ta đang xúc tiến và mở rộng sang một số thị trường mới như khu
vực Trung Đông, Khu vực Đông Nam Á với các nước như Lào, Camphuchia, Thái Lan.
Theo cục quản lý lao động ngoài nước cho biết khả năng thu hút lao động ở các thị
trường như Lào và Campuchia cũng khá cao. Đặc biệt, thị trường Campuchia, Lào hiện
có nhu cầu khá lớn trong lĩnh vực lao động kỹ thuật và quản lý các ngành xây dựng, kỹ
sư công trình hay nhân viên ngành tài chính ngân hàng.
Bên cạnh thị trường lao động tại các nước khu vực Đông Nam Á, trong năm 2012,
ngành xuất khẩu lao động cũng đang tiếp tục mở thêm một số thị trường mới ở châu Âu
như Slovakia, Cộng hòa Czech, Ba Lan... Đây đều là những thị trường cần lao động có
chuyên môn, tay nghề. Bên cạnh đó, theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước,
Thế Lê Vinh, Malaysia vần là thị trường XKLĐ nhiều thuận lợi, Việt Báo,
,[ ngày truy cập 5-9-2014].

26 Đào Công Hải, Đặc thù của một số thị trường xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và Xã hội số 395, năm 2010, trang 29.
27 Nguyễn Long, Chiến sự Lybia- hàng trăm lao động Việt Nam về nước và nỗi lo chồng chất nợ nần, An ninh thủ đô,
/>ntd , [ngày truy cập 11-9-2014].
25

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

18

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
hiện một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng đã tìm hiểu và ký kết hợp đồng để
đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại Hoa Kỳ và Canada. Tuy nhiên, do một số khó
khăn như yêu cầu chất lượng lao động về ngoại ngữ, tay nghề và khâu thủ tục xin visa,
nên chỉ có một số ít doanh nghiệp đưa được lao động sang các thị trường này.28
Ngoài ra, một số thị trường khác cũng đang có nhu cầu lớn về đội ngũ chuyên gia
như: Angola cần 80 chuyên gia giáo dục làm việc tại các cơ sở đào tạo, 200 chuyên gia y
tế làm việc tại Algeria, Mozambique và Angola, 65 chuyên gia nông nghiệp làm việc tại
một số quốc gia châu Phi trong khuôn khổ hợp tác 3 bên giữa Việt Nam - FAO và các
nước này… Đây được xem là hướng tiếp cận mới, làm đa dạng thị trường XKLĐ, thay vì
chỉ tập trung vào các thị trường truyền thống như trước. Vấn đề khó khăn nhất hiện nay
chỉ là chất lượng lao động xuất khẩu của nước ta vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu cao của nhiều thị trường khó tính.29
1.1.4 Chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động XKLĐ
Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của hoạt động XKLĐ đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách tạo điều
kiện thuận lợi để công dân Việt Nam có đủ điều kiện đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện

thí điểm đưa 50 nghìn lao động thuộc các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài trong
giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2016-2020 tăng thêm 15% số lượng lao động
đi làm việc ở nước ngoài.30 Bên cạnh đó, Nhà nước còn có các chính sách hỗ trợ để nâng
cao trình độ văn hóa cho NLĐ, hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí, tiền tàu xe trong thời gian
học như học sinh trong các trường phổ thông dân tộc nội trú.31
Nhà nước có cơ chế bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp của NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài và của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài cũng
như việc hỗ trợ đầu tư mở rộng thị trường lao động mới, thị trường có thu nhập cao, thị
trường tiếp nhận nhiều lao động, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, dạy nghề, ngoại ngữ cho
NLĐ. Có nhiều chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách đi làm việc ở
nước ngoài. Khuyến khích đưa nhiều NLĐ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc
ở thị trường có thu nhập cao, khuyến khích đưa NLĐ đi làm việc tại công trình, dự án, cơ
sở kinh doanh do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trúng thầu, nhận thầu, đầu tư thành lập
Đào Công Hải, Đặc thù của một số thị trường xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và Xã hội số 395, năm 2010, trang 28.
Duy Tiến, Xu hướng chuyển dịch thị trường XKLĐ, An ninh thủ đô, năm 2010,
/>%B0%E1%BB%9Bng%20chuy%E1%BB%83n%20d%E1%BB%8Bch%20th%E1%BB%8B%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%
20xu%E1%BA%A5t%20kh%E1%BA%A9u%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng , [ngày truy cập 5-92014]
30 Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29-4-2014 về phê duyệt đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020.
31 Thông tư số 31/2009/TTLT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn đề án hỗ trợ huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo.
28
29

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

19

SVTH: Lê Thành Đạt



Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
ở nước ngoài.32
Trên cơ sở các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước đã từng bước thể chế hóa
thành các quy định pháp luật về lĩnh vực XKLĐ để hoạt động này có điều kiện thuận lợi
phát huy hết tiềm năng vốn có của nó. Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước luôn chỉ đạo kịp
thời và có sự phối hợp tích cực với các cấp, các ngành ở trung ương, địa phương tạo cơ
sở cho để hoạt động XKLĐ cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng tăng cường và
mở rộng hơn nữa.
1.2 Nguyên nhân, đặc điểm và vai trò dịch vụ xuất khẩu lao động
1.2.1 Nguyên nhân
Yêu cầu giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế. Dân số Việt Nam hiện nay là khoảng 89 triệu người và sẽ tăng lên khoảng
111,7 triệu người vào năm 2050. Việt Nam hiện đứng thứ 14 trong số những nước đông
dân nhất trên thế giới. Mục tiêu đề ra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, phấn đấu
từ năm 2010, mỗi năm Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 80.000 đến 90.000 lao động.33
Trước tình hình trên, vấn đề tạo việc làm cho NLĐ luôn là yêu cầu cấp thiết, nhất là khi
sức ép cạnh tranh từ bên ngoài đối với nền kinh tế nước ta do Việt Nam đã và đang hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
Việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và mở cửa thị trường một mặt góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nghành nghề mới, khuyến khích doanh nghiệp phát
triển, mặt khác lại làm gia tăng tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp do lao động ta
không đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động… Từ năm
1996-2005 số lượng người thiếu việc làm luôn trên mức 3 triệu người( năm 2000: 3,3
triệu người, năm 2005:3,5 triệu người); Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị luôn ở mức cao trên
5%.34 Vấn đề tạo việc làm cho NLĐ ở nông thôn cũng trở nên cấp thiết khi hoạt động đô
thị hóa diễn ra rất mạnh mẽ khiến tình trạng người thất nghiệp ngày càng gia tăng do quỹ
đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.
Trong điều kiện hiện nay, những nổ lực tạo việc làm mới trong nước cũng như chính
sách hỗ trợ việc làm vẫn chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu việc làm trong nước,

thì hoạt động XKLĐ là một trong những phương hướng giải quyết vấn đề việc làm hiệu
quả.

Điều 5, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006.
Nguyễn Thị Hoàng Lan, Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam, Tạp chí Lao động và Xã hội số 414,
năm 2011, trang 28.
34 Tổng cục thống kê, Thực trạng việc làm và thất nghiệp năm 1996-2005, Nxb Thống kê, Hà Nội, năm 2005, trang 62-63.
32
33

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

20

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
Yêu cầu phát triển nâng cao trình độ tay nghề cũng như năng lực cạnh tranh của
lực lượng lao động. Việt Nam đã tiến hành XKLĐ dưới hình thức hợp tác quốc tế nhằm
nâng cao tay nghề từ những năm 1980 và đem lại nhiều nhiều thành công và đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế nước ta trong giai đoạn đó. Tuy nhiên, trong công cuộc
công nghiệp hóa-hiện đại hóa hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công
nghệ, nhiều kỹ thuật tiên tiến ra đời hơn phục vụ cho một nền kinh tế hiện đại. Trong khi
đó, đại bộ phận đội ngũ lao động của nước ta lại không bắt kịp với những kỹ thuật cũng
như công nghệ mới này để ứng dụng vào phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó tác phong
công nghiệp cũng như trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa được đánh giá cao
trong mắt của các doanh nghiệp nước ngoài. Để khắc phục tình trạng trên và góp nâng
cao trình độ cho NLĐ nước ta, Nhà nước tiến hành các chính sách đào tạo nghề và phối

hợp với Chính phủ các nước để đưa lao động đi thực tập tay nghề, kỹ năng như làm việc
ở những nước bạn.
Khi tham gia, NLĐ được đào tạo và rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, kiến
thức ngoại ngữ cũng như tác phong công nghiệp trong môi trường làm việc ở các nước
phát triển. Bên cạnh đó, NLĐ có điều kiện học hỏi tiếp thu các kiến thức mới, kỹ thuật
sản xuất hiện đại cũng như nâng cao trình độ tay nghề của mình. Lực lượng này sau khi
về nước sẽ là một đội ngũ lao động lành nghề, ứng dụng tốt các kiến thức mà họ đã học
tập được trong suốt quá trình làm việc ở nước bạn sẽ là nguồn nhân lực mạnh mẽ để nâng
cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời kì hội nhập.
Thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống NLĐ và tăng nguồn
thu nhập cho quốc gia. Bên cạnh mục tiêu giải quyết vấn đề việc làm và nâng cao năng
lực cho NLĐ thì việc đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài còn đem lại hiệu quả rất lớn đối
với nền kinh tế nước nhà nói chung và đối với NLĐ nói riêng. Đây là hướng đi hiệu quả
phù hợp và đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của NLĐ. Hoạt động này trong những
năm qua đã góp phần giúp Nhà nước thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo, đem
lại thu nhập cao, tăng mức sống cho NLĐ và tạo nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia.
Từ những năm 2005 trở lại đây, nguồn tiền gửi về nước của người lao động ở nước ngoài
luôn trên 1,5 tỷ USD/năm, tương ứng với giá trị xuất khẩu của một số nghành hàng chủ
lực của nước ta; số tiền mà NLĐ nước ta ở nước ngoài gửi về cho gia đình trong năm
2006 gần bằng hoặc cao hơn thu ngân sách ở một số tỉnh thành phố.35 Đây là một trong
những nguồn thu ngoại tệ lớn của nước ta nếu được định hướng phát triển phù hợp sẽ
đem lại hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội rất cao.

35

Lưu Văn Hưng, Xuất khẩu lao động Việt Nam thời đổi mới và hội nhập,Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, năm 2011,trang 102.

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

21


SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
1.2.2 Đặc điểm
XKLĐ là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Việc đưa NLĐ đi nước ngoài
được coi là một biện pháp quan trọng giải quyết vấn đề về lao động- việc làm, đồng thời
tạo khả năng điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội khác.
XKLĐ là một hoạt động kinh tế. Bởi vì hoạt động này nhằm thực hiện chức năng kinh
doanh và hướng tới đạt mục tiêu lợi nhuận cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này.
Đồng thời đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm việc làm, tạo nguồn thu nhập cho bản thân và
gia đình của NLĐ động đi làm việc ở nước ngoài.
XKLĐ là sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ Nhà nước với các tổ chức thực hiện hoạt động
này. Trong giai đoạn đầu (1980-1990) Nhà nước vừa thực hiện việc kí kết hợp tác về lao
động với thị trường nước ngoài, vừa quản lý và tổ chức hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài. Trong xu thế hội nhập quốc tế hầu như Nhà nước chỉ đóng vai trò chỉ đạo
quản lý, ký kết các hiệp định song phương, còn các tổ chức thì tiến hành hoạt động và
chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.36
XKLĐ phải trên cơ sở tự nguyện, tự do thỏa thuận và bình đẳng với nhau về quyền lợi.
NLĐ có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài có quyền tự chọn một trong các hình thức,
công việc để đi làm việc ở nước ngoài trong khuôn khổ pháp luật quy định. Nhà nước
luôn có các chính sách phù hợp đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên, nhất là NLĐ .
XKLĐ là hoạt động có sự cạnh tranh gay gắt và nhiều biến động. Hoạt động này phụ
thuộc chủ yếu vào nhu cầu lao động, yêu cầu trình độ chuyên môn kĩ thuật của các thị
trường nước ngoài. Để cạnh tranh tốt hơn và có thể ứng phó kịp thời với những biến động
của thị trường lao động, Đảng và Nhà nước ta cần phải có những tầm nhìn chính sách
rộng hơn, thực hiện các chương trình đào tạo nâng cao chất lượng và tay nghề của NLĐ.
1.2.3 Vai trò

 Đối với nước xuất khẩu lao động
XKLĐ góp phần giải quyết vấn đề việc làm, thực hiện tốt các chính sách phát triển
kinh tế- xã hội. Nước ta là một nước đông dân, tỉ lệ người thiếu việc làm, người có thu
nhập thấp và thất nghiệp tương đối cao trong khi đó dân số lại tăng nhanh thì việc đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng này trong
bối cảnh nước ta.
Hoạt động XKLĐ giúp nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của NLĐ cũng như
36

Diệp Thành Nguyên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật lao động, Đại học Cần Thơ.

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

22

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
tăng nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế đất nước. Mức lương của lao động nước ta tại nước
ngoài cao hơn rất nhiều so với lao động cùng ngành nghề trong nước. Hằng năm lao động
nước ta ở nước ngoài gửi về nước một số lượng lớn ngoại tệ. Nửa triệu lao động nước ta
ở nước ngoài hằng năm gửi về nước hơn 3,5 tỷ USD.37
XKLĐ còn tạo điều kiện nâng cao tay nghề cũng như trình độ chuyên môn của lao
động nước ta. Với số lượng lớn lao động, đặc biệt là các thực tập sinh kỹ thuật, tu nghiệp
sinh sang nước ngoài vừa học tập vừa làm việc đã đem lại lượng kiến thức và kinh
nghiệm vô cùng quý báo cho lực lượng này. Sau khi kết thúc hợp đồng trở về nước họ có
thể vận dụng những kĩ năng đã đúc kết học tập được trong thời gian học tập và làm việc ở
nước ngoài vào phát triển đất nước.

XKLĐ là công cụ tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước
tiếp nhận lao động. Hoạt động đưa NLĐ sang làm việc nước ngoài còn là dịp để công dân
giữa các nước tiến hành trao đổi, giao lưu nền văn hóa, phong tục tập quán của các dân
tộc làm tăng sự hiểu biết giữa các quốc gia hơn nữa, tạo tiền đề cho quan hệ hợp tác hữu
nghị ngày càng phát triển bền vững.


Đối với nước tiếp nhận lao động nước ngoài

Bù đắp được sự thiếu hụt nhân lực trầm trọng trong nước. Ở các quốc gia phát triển
có dân số già hóa và cạn kiệt nguồn lao động trẻ như Nhật Bản,Hàn Quốc… thì việc tiếp
nhận lao động ngoài nước sẽ giảm áp lực về việc thiếu lao động ở nhiều ngành, đảm bảo
cho sự phát triển của nền kinh tế.
Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Việc tận dụng nguồn nhân lực trẻ, dồi dào và có kinh nghiệm đối với
nước tiếp nhận giúp họ tiết kiệm được nhiều chi phí như tuyển dụng, đào tạo lao động, trả
lương thấp hơn so với người bản địa…Với chi phí tạo ra sản phẩm thấp thì các doanh
nghiệp có thể hạ giá thành để đạt được khả năng cạnh tranh cao nhất.
Góp phần giảm gánh nặng về các vấn đề chính sách- xã hội cho nước tiếp nhận. Các
lao động ngoài nước hưởng lương thấp hơn so với lao động trong nước và đại đa số các
lao động này làm việc theo hợp đồng ngắn hạn, do đó nước tiếp nhận sẽ giảm bớt một
khoản tài chính để trả lương, các vấn đề bảo hiểm xã hội cũng như là lương hưu cho họ
so với việc sử dụng lao động trong nước.

Báo mới, Nữa triệu lao động Việt Nam ở nước ngoài mỗi năm gửi về nước hơn 3,5 tỷ USD,
/>[ Ngày truy cập 7-9-2014].
37

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh


23

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
1.4 Nội dung và các hình thức xuất khẩu lao động
1.4.1 Nội dung của hoạt động XKLĐ
Nội dung của hoạt động XKLĐ là một chuỗi quá trình từ việc tuyển chọn, đào tạo, ký
kết hợp đồng, cho đến việc thanh lý hợp đồng khi hợp đồng lao động chấm dứt. Theo quy
định tại Điều 4 Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006
thì hoạt động đưa NLĐ đi làm việc nước ngoài bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: NLĐ phải thực hiện việc ký kết hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài với doanh nghiệp dịch vụ. Sau khi đáp ứng các điều kiện đi làm việc ở nước
ngoài thì một trong những hoạt động kế tiếp mà NLĐ phải thực hiện đó là ký kết hợp
đồng với doanh nghiệp dịch vụ, đây là hình thức ghi nhận sự thỏa thuận từ khâu đưa ra
lời đề nghị giao kết hợp đồng cho đến việc tiến hành ký kết giữa một bên là người lao
động với một bên là doanh nghiệp dịch vụ. Thông thường hình thức của hợp đồng sẽ
được thể hiện dưới dạng văn bản, đồng thời nội dung của hợp đồng sẽ là sự thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
Thứ hai: quy trình tuyển chọn lao động từ sơ tuyển, kiểm tra sức khỏe, đến đào tạo và
cuối cùng là thi tuyển- phỏng vấn để chủ sử dụng lao động kiểm tra tay nghề, trình độ và
tiến hành tuyển dụng lao động.
Thứ ba: dạy nghề, ngoại ngữ cho NLĐ; tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho
NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Những lao động trúng tuyển sẽ được đào tạo
nâng cao cả về kiến thức lẫn tay nghề để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. NLĐ phải tham
gia các khóa học giáo dục định hướng và tìm hiểu về pháp luật và văn hóa, tập quán của
các nước tiếp nhận trước khi xuất cảnh.
Thứ tư: khi hợp đồng lao động được thực hiện nếu đáp ứng được các yêu cầu mà bên

sử dụng lao động đề ra thì bên cạnh các quyền lợi về lương, chế độ phụ cấp, tiền thưởng,
thì NLĐ sẽ được gia hạn hợp đồng hoặc được ký kết hợp đồng mới phù hợp với quy định
của pháp luật nước tiếp nhận người lao động.
Thứ năm: trong trường hợp doanh nghiệp dịch vụ vi phạm hợp đồng đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài thì phải bồi thường thiệt hại cho NLĐ, việc bồi thường tùy thuộc vào
mức độ thiệt hại và sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, tuy nhiên trong trường hợp
Hợp đồng không có thỏa thuận thì việc bồi thường được thực hiện theo quy định của
pháp luật. Ngược lại, nếu hợp đồng đảm bảo được thực hiện thì NLĐ sẽ phải trả tiền dịch
vụ và hoàn trả tiền môi giới cho doanh nghiệp dịch vụ (nếu có thỏa thuận).
Bên cạnh đó để đảm bảo thực hiện hợp đồng NLĐ còn phải thực hiện việc việc ký
GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

24

SVTH: Lê Thành Đạt


Pháp luật về dịch vụ xuất khẩu lao động -Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật
quỹ hoặc giới thiệu người bảo lãnh theo thỏa thuận với doanh nghiệp dịch vụ. Nếu vi
phạm hợp đồng gây thiệt hại cho chủ sử dụng lao động và doanh nghiệp dịch vụ thì các
khoản tiền trên sẽ bị khấu trừ các khoản tiền đặt cọc, ký quỹ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, NLĐ sẽ phải bồi thường các thiệt hại do hành vi vi phạm của mình và chịu các
biện pháp xử phạt theo quy định của pháp luật.
1.4.2 Các hình thức XKLĐ
Theo quy định tại điều 6, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thì có các
hình thức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài như sau:
Thứ nhất: Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động
dịch vụ XKLĐ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài. Đây là hình thức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài phổ biến nhất hiện nay. Ở

hình thức này có sự tham gia của các doanh nghiệp dịch vụ làm trung gian giữa NLĐ
Việt Nam với bên tiếp nhận lao động của nước ngoài.
Thứ hai: Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu,
nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài. Chủ thể tham gia trong quan hệ này gồm doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc
tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài và NLĐ Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân này.
Thứ ba: Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng
cao tay nghề với doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay
nghề. Doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao
tay nghề phải ký kết hợp đồng nhận lao động thực tập với cơ sở tiếp nhận thực tập ở nước
ngoài và ký kết hợp đồng đưa NLĐ đi thực tập ở nước ngoài với NLĐ.
Thứ tư: Hợp đồng cá nhân. Đây là hình thức NLĐ trực tiếp ký kết hợp đồng lao động
với người sử dụng lao động nước ngoài không thông qua các tổ chức trung gian làm dịch
vụ. Hợp đồng này được gọi là hợp đồng cá nhân. Để có ký kết được hợp đồng cá nhân,
NLĐ phải tự tìm hiểu về người sử dụng lao động, tự trang bị cho mình để đáp ứng được
những yêu cầu của người sử dụng lao động nước ngoài về trình độ nghề nghiệp, ngoại
ngữ và các kiến thức, kỹ năng cần thiết khác. Việc ký kết hợp đồng cá nhân do hai bên tự
thỏa thuận trực tiếp với nhau nên không mất khoản chi phí môi giới, tiền dịch vụ và
những khoản tiền khác như chi phí đào tạo, tiền đặt cọc. Sau khi ký kết, NLĐ phải tiến
hành đăng ký hợp đồng cá nhân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

GVHD: Ts. Cao Nhất Linh

25

SVTH: Lê Thành Đạt



×