Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.48 KB, 47 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ THẺ
THANH TOÁN
1.1 Tổng quan về thẻ thanh toán
1.1.1 Quá trình hình thành thẻ thanh toán
Theo luật các tổ chức tín dụng thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”
“Tiền tệ là một phạm trù lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với
tiến trình ra đời, phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Tiền tệ có những
chức năng cơ bản như thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện
cất trữ, phương tiện thanh toán…
Cho đến nay tiền tệ đã trải qua các hình thái biểu hiện chủ yếu như tiền
thực, tiền danh nghĩa, tiền ghi sổ và tiền điện tử.
Tiền thực là một loại hàng hoá chung, có giá trị nội tại được thừa nhận,
phục vụ cho quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Tiền thực có thể là kim
loại quý hiếm hoặc là các đồ vật có giá trị khác tuỳ vào sự công nhận trong quá
trình phát triển của lịch sử.
Tiền danh nghĩa là một thứ tiền tệ mà bản thân nó không có hoặc không
đủ giá trị. Nó được sử dụng dựa trên việc thị trường chấp nhận lưu thông tiền
thực không đủ giá trị và sự tín nhiệm của những người sử dụng.
Tiền ghi sổ là một hình thái tiền tệ được sử dụng tại hệ thống ngân hàng
bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán. Khi nền kinh tế và ngân hàng phát
triển thì hình thức này chiếm vị trí quan trọng. Nó góp phần đáng kể giảm bớt
chi phí cũng như thời gian giao dịch.
Tiền điện tử, trong thời đại hiện nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ
ngân hàng phát triển thì một biểu hiện của hình thái tiền tệ ra đời đó là “ tiền
điện tử”, “Tiền nhựa”… và đều là tên gọi của các loại thẻ.
Quá trình vận động của tiền tệ trong nền kinh tế đã phát sinh ra việc
người tạm thời có tiền nhàn rỗi hoặc có ý định đầu tư lấy lãi, trong khi người
khác thiếu vốn để sản xuất kinh doanh và thông qua tổ chức ngân hàng tín
dụng ra đời. Tín dụng ngân hàng có hai đặc điểm cơ bản:


-Ngân hàng sở hữu hoặc quản lý một số vốn bằng tiền, chuyển giao cho
người khác sử dụng trong một thời gian nhất đinh.
-Sau khi sử dụng, người vay phải hoàn trả cho ngân hàng một giá trị lớn
hơn số vốn nhận ban đầu. Phần lớn hơn đó là lãi vay ngân hàng.
Vậy bản chất của tín dụng ngân hàng là quan hệ phân phối trên nguyên
tắc hoàn trả và có lãi.
Bên cạnh chức năng tiền tệ và tín dụng, chức năng thanh toán của ngân
hàng cũng chiếm một vị trí quan trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Với
chức năng này các ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian thực hiện
các yêu cầu của khách hàng nhằm thoả mãn mục đích của họ thông qua các
hình thức thanh toán như: thu hộ, chi hộ, chuyển tiền… bằng cách trích chuyển
trên sổ sách ghi chép, luân chuyển thông tin từ quyền sở hữu của người này
sang người khác mà không sử dụng tiền mặt. Việc thanh toán trên được gọi
chung là thanh toán không dùng tiền mặt.
Trên cơ sở các chức năng tiền tệ, tín dụng ngày một phát triển dựa trên
cơ sở thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng giữa các nước đã trở
thành phổ biến và đặc biệt là dựa trên nền tảng của phát triển công nghệ tin
học, thông tin với tốc độ nhanh, một hình thức thanh toán văn minh, hiện đại
đã hình thành và nhanh chóng được xã hội ở nhiều nước thừa nhận và phát
triển, Đó là hình thức thanh toán thẻ”.[3]
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thẻ thanh toán
1.1.2.1 Khái niệm, bản chất thẻ thanh toán
Có nhiều khái niệm khác nhau về thẻ nhưng chung quy lại thì bản chất
của thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán, chi trả mà người sở hữu
thẻ có thể dùng để thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng của mình, như rút tiền mặt
hoặc sử dụng nó làm công cụ thực hiện các dịch vụ tự động do ngân hàng hoặc
do các tổ chức khác cung cấp. Thẻ không hoàn toàn là tiền tệ, nó là biểu tượng
về sự cam kết của ngân hàng hoặc tổ chức phát hành bảo đảm thanh toán
những khoản tiền do chủ thẻ sử dụng bằng tiền của ngân hàng cho chủ thẻ
vay hoặc tiền của chính chủ thẻ đã gửi tại ngân hàng.

Bản chất của thẻ có thể hiểu qua các khái niệm khác nhau về thẻ:
Theo khái niệm tổng quát: Thẻ là một danh từ chung chỉ một vật nhỏ,
gọn, chứa đựng các thông tin nhằm sử dụng vào một hoặc một số mục đích
nào đó. Do đó, thẻ được gắn với những tính chất, đặc điểm, nôi dung riêng biệt
để trở thành một loại cụ thể như: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ…
Xét từ góc độ phát hành: Thẻ là một phương tiện do ngân hàng hoặc các
công ty thẻ phát hành bán cho khách hàng của mình để thanh toán các giao
dịch mua sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tại các điểm đặt thiết bị chấp nhận thẻ
và rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng hay tại điểm máy ATM.
Đứng từ góc độ công nghệ thanh toán: Thẻ là phương thức thanh toán
ghi sổ điện tử số tiền của các giao dịch cần thanh toán thực hiện trên hệ thống
thanh toán được kết nối giữa các chủ thể tham gia dựa trên nền tảng công
nghệ ngân hàng và tin học viễn thông.
Theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Thẻ ngân hàng là
một phương tiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ không dùng tiền mặt hoặc
có thể rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc các ngân hàng đại lý hoặc
thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà chủ thẻ
có thể sử dụng để thanh toán chi phí mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ tại các
điểm chấp nhận thẻ.
1.1.2.2. Mô tả về mặt kỹ thuật
Vì thẻ thanh toán có 2 loại khác nhau là thẻ từ và thẻ thông minh nhưng
phổ biến nhất vẫn là thẻ từ, nên trong phần này ta chủ yếu đề cập đến đặc
điểm của thẻ từ.
Hầu hết các thẻ thanh toán hiện nay đều làm bằng nhựa cứng ASP hoặc
PC cấu tạo với 3 lớp được ép với kĩ thuật cao, hình chữ nhật với kích thước
được chuẩn hóa quốc tế 54mm x 84mm x 0,76mm, có 4 góc tròn. Màu sắc của
thẻ có thể khác nhau tùy ngân hàng phát hành.
Mặt trước của thẻ
Bao gồm:
Các huy hiệu của tổ chức thẻ hay ngân hàng phát hành thẻ, tên thẻ: VISA,

MASTERCARD, Vantage, CONNECT 24…
Biểu tượng của thẻ: ví dụ như Connect 24 là số 24 được lồng trong vòng
tròn
Tên và biểu tượng của thẻ là yếu tố cho biết ngân hàng phát hành. Biểu
tượng này do ngân hàng phát hành thiết kế. Đây là biểu tượng rất khó giả
mạo nên nó được xem như yếu tố an ninh chống giả mạo.
Số thẻ: Đây là số dành riêng cho mỗi chủ thẻ, số được dập nổi trên thẻ, số
này được in lại trên hóa đơn khi chủ thẻ đi mua sắm hàng hoá. Tuỳ theo từng
loại thẻ mà có chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
Ví dụ thẻ VISA thường có hai loại 16 số và 13 số và luôn bắt đầu bằng số 4,
cách phân nhóm được tổ chức như sau:
4xxx xxxx xxxx xxxx
4xxxx xxx xxx xxx
Ngày hiệu lực của thẻ được in nổi: đây là thời hạn của thẻ được lưu
hành có hai cách ghi
+Từ ngày… đến ngày…
+Ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ
*Họ và tên chủ thẻ: In bằng chữ nổi, do thẻ không được chuyển đổi nên
nếu là tên cá nhân: là thẻ cá nhân, nếu là tên công ty và tên người được uỷ
quyền sử dụng thẻ: thẻ công ty.
*Số mật mã đợt phát hành(số này không bắt buộc)
*Trên mặt trước của thẻ còn có một số đặc điểm riêng của từng loại thẻ
Mặt sau của thẻ
* Giải từ tính màu đen (đối với thẻ từ) chạy dọc theo cạnh dài phía trên
mặt sau của thẻ trong đó có chứa thông tin sau:
Số thẻ
Tên chủ thẻ
Thời hạn hiệu lực
Bảng lý lịch ngân hàng
Mã số bí mật

Ngày giao dịch cuối cùng
Mức rút tối đa và số dư
Riêng đối với thẻ thông minh có 1 con chíp (vi mạch) lưu giữ thông tin về
người cầm thẻ và tài khoản của chủ thẻ. Chúng cũng lưu giữ chi tiết tối đa là
200 giao dịch dùng thẻ gần nhất. Trên thẻ có dải băng chữ kí, dùng để đối
chiếu khi chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán và các phần khác như điện thoại
khi có thắc mắc.
1.1.2.3. Phân loại thẻ thanh toán
Trên thị trường thanh toán quốc tế và Việt Nam có nhiều loại thẻ thanh
toán khác nhau, do nhiều tổ chức phát hành và cung cấp dịch vụ. Tuỳ theo từng
tiêu chí, thẻ thanh toán được phân loại như sau
Phân loại theo đặc tính kỹ thuật có 3 loại thẻ:
Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): Đây là loại thẻ được làm dựa trên
kỹ thuật khắc chữ nổi. Đó cũng chính là tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo
công nghệ này. Trên bề mặt thẻ được khắc chữ nổi các thông tin cần thiết.
Hiện nay người ta không còn sử dụng nó nữa vì kỹ thuật sản xuất quá thô sơ
dễ bị làm giả.
Thẻ từ, (Magnetic Stripe): được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tín với 1
dải băng từ chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng
phổ biến trong hơn 20 năm nay. Tuy nhiên có một số nhược điểm sau:
Khả năng bị lợi dụng cao do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá
được, người ta có thể đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính.
Thẻ mang tính thông tin cố định, khu vực chứa thông tin hẹp không áp
dụng được các kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin đảm bảo an toàn. Do đó,
trong những năm gần đây đã bị lợi dụng lấy cắp tiền.
Thẻ thông minh (Smart Card): là loại thẻ nhựa có gắn một con chip điện
tử. So với các loại thẻ từ hiện nay, khả năng kết nối với máy tính của loại chip
này cho phép thẻ thông minh thực hiện được nhiều lựa chọn thanh toán và
dịch vụ với độ an toàn cao hơn, thuận tiện và nhiều chọn lựa hơn. Thẻ thông
minh là tương lai của thẻ thanh toán.

Thẻ thông minh có thể lưu trữ các thông tin quan trọng được mã hoá với
độ bảo mật cao hơn các loại thẻ từ khác rất nhiều. Trong thanh toán, thẻ thông
minh có thể kết hợp đa chức năng và ứng dụng từ các ngành khác nhau như
khả năng tính điểm ưu đãi cho khách hàng quen thuộc, nhận dạng, truyền dẫn,
hay thông tin sức khoẻ. Thẻ thông minh cũng có thể cho phép ứng dụng các sản
phẩm, tính năng và ứng dụng hiện tại vào các lĩnh vực mới về khách hàng và
thanh toán. Loại thẻ này còn cho phép lưu giữ và trao đổi thông tin về chủ thẻ
với độ bảo mật cao trong thương mại điện tử và di động.
Tại sao phải cần tới thẻ thông minh?
 Ngăn chặn gian lận :bảo vệ chống gian lận, đặc biệt là làm thẻ giả, là
vấn đề then chốt. Thẻ thông minh có thể giảm đáng kể thất thoát so với hình
thức quét hay sao chép thông tin của thẻ từ. Nếu thẻ này được sử dụng cùng
với mã số nhận dạng cá nhân (PIN) nó cũng có thể ngăn chặn việc tiền bị mất
hay các giao dịch gian lận khác. Việc giảm gian lận đã trở thành tính năng
kinh doanh chính của thẻ thông minh hiện nay.
 Lợi thế cạnh tranh: Sự cạnh tranh gay gắt và nhu cầu có một sản
phẩm tiện ích và phù hợp cũng khiến cho thẻ thông minh ngày càng được chấp
nhận rộng rãi. Các loại thẻ đa ứng dụng cho phép thực hiện các ứng dụng như
truy cập internet an toàn trong thương mại điện tử, thực hiện các chương
trình khách hàng thường xuyên, bảo đảm an toàn tại các điểm truy cập hiện có
ở nhiều nơi trên thế giới.
 Hiệu quả về chi phí - Thẻ thông minh bền hơn thẻ từ rất nhiều vì vậy
không phải phát hành lại nhiều lần. Ngoài ra, với thẻ thông minh, còn có thể
tiết kiệm được chi phí hoạt động như chi phí viễn thông vì nhiều giao dịch
bằng thẻ chip có thể thực hiện an toàn mà không cần kết nối mạng.
 Các thị trường mới – các ngân hàng thành viên có thể tiếp cận những
kênh chấp nhận thanh toán thẻ mới vốn bị coi là mạo hiểm đối với các chương
trình thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ hoặc chưa sẵn sàng chấp nhận thanh toán
bằng các loại thẻ này do mất thời gian kết nối mạng(để thanh toán). Chủ thẻ
tại các điểm đầu cuối, kiốt hay các điểm thanh toán tiền mặt, thương mại điện

tử hay các chợ có điều kiện viễn thông hạn chế bây giờ có thể thanh toán bằng
thẻ Visa.
 Lợi ích của thẻ thông minh
Với khách
Độ bảo mật và khả năng chống gian lận cao hơn
Dễ sử dụng ở nhiều địa điểm khác nhau và không phải mang theo nhiều
tiền mặt
Làm gọn nhẹ chiếc ví của bạn vì khả năng kết hợp tính năng của nhiều
loại thẻ với nhau
Với các điểm chấp nhận thẻ
Giảm chi phí viễn thông
Tiết kiệm thời gian giao dịch
Tăng hiệu quả bán hàng thông qua việc tăng cường an toàn trong giao
dịch
Với các tổ chức tài chính thành viên
Giảm chi phí và bảo vệ chống gian lận
Cơ hội mở rộng thị trường với các kênh chấp nhận thẻ thanh toán
Tăng cường quan hệ với khách hàng và các điểm chấp nhận thẻ
 Thông minh hơn - ở Châu á Thái Bình Dương, hiện nay có hơn 30
triệu thẻ thông minh EVM (là từ viết tắt của Europay, Mastercard, Visa, tiêu
chuẩn quốc tế cho các giao dịch thẻ chip ghi nợ và tín dụng toàn cầu. Tiêu
chuẩn EMV đảm bảo an toàn và khả năng kết nối toàn cầu để Visa có thể được
chấp nhận ở mọi nơi trên thế giới) và hơn 524.000 điểm bán hàng đạt tiêu
chuẩn EMV. Trên toàn thế giới đã có 140 triệu thẻ thông minh EMV được phát
hành với hơn 3 triệu điểm bán hàng đạt tiêu chuẩn EMV. Thẻ thông minh đang
ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống hàng ngày, tạo điều kiện cho Visa
tiến gần hơn việc hiện thực hoá tầm nhìn thương mại trên toàn cầu. Đó là khả
năng thanh toán mọi lúc, mọi nơi và bằng mọi cách.
 Phân loại theo chủ thể phát hành có 3 loại
Thẻ do ngân hàng phát hành: là loại thẻ giúp cho khách hàng sử dụng

linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân
hàng cấp tín dụng, loại thẻ này hiện nay được sử dụng khá phổ biến, nó không
chỉ lưu hành trong một quốc gia mà còn có thẻ lưu hành trên toàn cầu ( ví dụ
như: thẻ Visa, Mastercard, …)
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí
của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành như Diners Club, Amex… và cũng
lưu hành trên toàn cầu
Thẻ liên kết: Là loại thẻ liên kết giữa 2 hay nhiều tổ chức, thẻ liên kết
không đơn giản chỉ là một phương tiện thanh toán mà còn có những tiện ích
và ưu đãi do các thành viên liên kết mang lại cho chủ thẻ. Sử dụng sản phẩm
thẻ liên kết khách hàng sẽ nhận được ưu đãi từ phía ngân hàng phát hành, cả
từ phía đối tác liên kết. Các ngân hàng có thể đưa ra các ưu đãi về phí, lãi suất,
thời gian ân hạn… Các đối tác có thể đưa ra các ưu đãi về giảm giá, khuyến
mại, chương trình điểm thưởng (Bonus Point)…Nhằm khuyến khích khách
hàng chi tiêu bằng thẻ.
 Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
Thẻ tín dụng (Credit Card): đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất,
theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng quy định
không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn) để
mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, cửa hàng, khách sạn…
chấp nhận loại thẻ này. Và lí do gọi là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước
một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một
kỳ nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ
hoãn hiệu hay trả chậm.
Thẻ ghi nợ (Debit Card): là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với
tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Loại thẻ này khi mua hàng hoá, dịch vụ, giá trị
những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ và
đồng thời ghi có ngay (chuyển ngân ngay) vào tài khoản của cửa hàng, khách
sạn đó. Thẻ ghi nợ có 2 loại cơ bản:
Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay

lập tức vào tài khoản của chủ thẻ.
Thẻ off-line là loại thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu
trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền
tự động hoặc ở ngân hàng, thẻ do ngân hàng phát hành. Với chức năng chuyên
biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký
quỹ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng hoặc được ngân hàng cấp một hạn mức
tín dụng thấu chi, dùng để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động(ATM) hoặc
ở các ngân hàng. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền ký quỹ.
Thẻ thanh toán trả sau (Charge Card): là loại thẻ du lịch và giải trí
( travel and entertainment card) của các công ty như American Express, Dinner
club… các tổ chức phi ngân hàng phát hành; đơn vị phát hành thẻ sẽ tham gia
giải quyết trực tiếp mọi giao dịch giữa chủ thẻ và cơ sở chấp nhận thẻ; là loại
thẻ không quy định trước hạn mức chi tiêu, cuối tháng khách hàng sẽ phải
thanh toán theo bảng kê thông báo tài khoản.
 Phân loại theo mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng
Thẻ kinh doanh(Business card): Là loại thẻ được phát hành cho nhân
viên các công ty sử dụng, nhằm giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của
các nhân viên vì mục đích chung của công ty trong kinh doanh.
Thẻ du lịch và giải trí (Travel and Entertainment card): là loại thẻ
thường do các công ty tư nhân phát hành để phục vụ cho ngành du lịch và giải
trí
Thẻ vàng (Golden Card): là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng
có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại thẻ này có
thể có những điểm khác nhau tuỳ thuộc vào tập quán, trình độ phát triển của
mỗi vùng, nhưng chung nhất vẫn là thẻ tín dụng có hạn mức tín dụng cao hơn
thẻ thường.( Tại Việt Nam, thẻ vàng có hạn mức từ 50 triệu VND đến 100 triệu
VND).
Thẻ thường (Standard Card ): Đây là loại thẻ căn bản nhất, là loại thẻ
mang tính chất phổ biến, đại chúng. Hạn mức tối thiểu tuỳ theo ngân hàng

phát hành quy định ( Tại Việt Nam thẻ thường có hạn mức từ 10 triệu đến 50
triệu VND).
 Phân loại theo phạm vi sử dụng thẻ
Thẻ nội địa (Local Card) có 2 loại:
+ (Local use only card ) là loại thẻ do Tổ chức tài chính hoặc Ngân hàng
trong nước phát hành, chỉ được dùng trong nội bộ hệ thống Tổ chức đó mà
thôi.
+ (Domestic use only card ) là thẻ thanh toán mang thương hiệu của Tổ
chức thẻ quốc tế được phát hành để sử dụng trong nước.
Thẻ quốc tế ( International Card ): là loại thẻ không chỉ dùng tại quốc gia
nó được phát hành mà còn được sử dụng trên phạm vi quốc tế. Sử dụng các
ngoại tệ mạnh để thanh toán, thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý trong một hệ
thống thống nhất, đồng bộ trên toàn thế giới bởi những tổ chức tài chính, công
ty điều hành lớn như Master Card, Visa Card, Amex, JCB, …
 Phân loại theo đối tượng chịu chấp nhận thanh toán
Thẻ do công ty phát hành: phục vụ cho việc chi tiêu công tác của nhân
viên, mọi khoản thanh toán của chủ thẻ do công ty chi trả
Thẻ cá nhân: phục vụ cho việc chi tiêu, mọi khoản thanh toán của chủ
thẻ do chủ thẻ thanh toán với ngân hàng phát hành
Tóm lại:
Mặc dù được phân thành những loại khác nhau nhưng các loại thẻ trên
đều có một đặc điểm chung là dùng để thanh toán, chi trả tiền hàng hoá dịch
vụ; do vậy một cách tổng quát người ta gọi chúng là thẻ thanh toán.
1.1.3. Vai trò và lợi ích của thẻ thanh toán
1.1.3.1.Vai trò của thẻ thanh toán
- Phát hành và thanh toán thẻ tạo điều kiện cho ngân hàng huy động vốn,
bổ sung nguồn vốn cho ngân hàng, ngân hàng có thể xử lý nguồn vốn thanh
toán này để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là nguồn vốn rất lớn
rất cần được khai thác.
- Tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng ngân hàng tăng lên nhiều, vốn tín

dụng này rất lớn, việc cho vay này rủi ro ít.
- Tiết kiệm thời gian giao dịch, nhanh chóng tiện lợi và tiết kiệm chi phí
cho ngân hàng, ĐVCNT, chủ thẻ.
- Việc thanh toán bằng thẻ thanh toán rất an toàn, chính xác và tiết kiệm
nhiều thời gian, qua đó tạo lập lại niềm tin của người dân vào hoạt động của
hệ thống ngân hàng. Nhà nước kiểm soát được các giao dịch thanh toán của
dân cư, của nền kinh tế, là tiền đề cho việc tính toán lượng cung ứng tiền tệ và
điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn.
- Hạn chế được các hoạt kinh tế ngầm, giảm thiểu các tiêu cực, tăng
cường tính chủ đạo của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế.
- Việc áp dụng công nghệ hiện đại của việc phát hành và thanh toán thẻ
tạo điều kiện cho việc hội nhập nền kinh tế thế giới.
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào tăng trưởng GDP.
- Thúc đẩy nền kinh tế theo xu hướng nền kinh tế tri thức vì dịch vụ thẻ
sử dụng nhiều thành tựu của công nghệ thông tin
- Tạo điều kiện cho các dịch vụ khác phát triển
1.1.3.2. Lợi ích của thẻ thanh toán
Lợi ích của thẻ được thể hiện với tất cả các chủ thể tham gia phát hành,
sử dụng và thanh toán thẻ.
Đối với người sử dụng thẻ:
Thẻ thanh toán là một phương tiện chi trả hiện đại, có thể sử dụng để
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt tại các quầy thanh toán của
ngân hàng hay tại các máy ATM. Sử dụng thẻ thanh toán an toàn hơn nhiều so
với các hình thức thanh toán khác. Khi thẻ bị mất, người cầm thẻ cũng khó sử
dụng được. Mặt khác, thẻ thanh toán quốc tế có khả năng sử dụng trên toàn
cầu; do đó rất tiện cho người sử dụng khi đi công tác xa, đi du lịch, du học…
Đồng thời thanh toán bằng thẻ còn giúp cho chủ thẻ có thể sử dụng được
nguồn tín dụng do NHPH cung cấp, cũng như tạo thói quen văn minh, lịch sự,
sang trọng cho khách hàng trong thanh toán.
Đối với ĐVCNT

Khi ĐVCNT sẽ tăng thêm sự sang trọng và uy tín cho cửa hàng, nhà
hàng, khách sạn… Các ĐVCNT tránh được hiện tượng khách hàng dùng tiền
giả hay vấn đề mất cắp tiền mặt của khách hàng xẩy ra trong nhà hàng của
mình. Nếu họ chấp nhận thanh toán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng thẻ thì
chắc chắn doanh thu sẽ cao hơn bởi càng ngày càng có nhiều người sử dụng
thẻ.
Đối với NHPH
Việc áp dụng thẻ cho phép các NHPH đưa ra các dịch vụ mới cho
khách hàng, là phương tiện để hấp dẫn khách hàng mới và tăng thêm thu nhập
cho ngân hàng từ các khoản phí phát hành thẻ. Thẻ tín dụng còn là loại tín
dụng tiêu dùng hiện đại góp phần đa dạng hoá hình thức kinh doanh của ngân
hàng, mở rộng khả năng hoạt động của ngân hàng trên toàn cầu.
Đối với NHTT
Được hưởng hoa hồng phí khi làm đại lý thanh toán cho NHPH. Một mặt
nhờ làm chung gian thanh toán thẻ nên NHTT giữ được khách hàng là những
nhà buôn bán lẻ. Nếu họ không làm điều này thì những người buôn bán lẻ sẽ
chuyển tài khoản của họ sang NHPH hay ngân hàng khác.
Đối với xã hội
Việc thanh toán bằng thẻ làm giảm nhu cầu giữ tiền mặt, giảm lượng
tiền lưu thông; giảm chi phí vận chuyển và phát hành tiền. Sử dụng thẻ giải
quyết được tình trạng bất tiện nếu dùng tiền mặt như mất vệ sinh, không an
toàn, không thuận tiện… Thẻ thanh toán góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
doanh phát triển với nhịp độ nhanh nhờ việc khuyến khích tiêu dùng cá nhân
của các tầng lớp dân cư có thu nhập ổn định.
1.2. đặc điểm Hoạt động kinh doanh và phát triển dịch vụ thẻ
thanh toán của Ngân hàng thương mại
1.2.1.Hoạt động kinh doanh thẻ
1.2.1.1. Các chủ thể tham gia vào quá trình phát hành và thanh toán thẻ
Tổ chức thanh toán thẻ quốc tế: là tổ chức đứng ra liên kết với các thành
viên, đặt ra các quy định bắt buộc các thành viên phải áp dụng và tuân theo

thống nhất thành một hệ thống toàn cầu. Bất cứ ngân hàng nào hiện nay hoạt
động trong lĩnh vực thẻ thanh toán quốc tế đều phải gia nhập vào một tổ chức
thẻ quốc tế.
Ngân hàng phát hành thẻ: là ngân hàng được NHTW hoặc cơ quan có
thẩm quyền của Nhà nước sở tại cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ,
cấp phép cho các chủ thẻ là cá nhân sử dụng, chịu trách nhiệm thanh toán và
cung cấp các dịch vụ liên quan đến thẻ đó. Đối với việc phát hành thẻ quốc tế,
Ngân hàng phát hành thẻ là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế,
Ngân hàng phát hành thẻ có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và
phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời chịu trách nhiệm việc
thanh toán thẻ đó.
Ngân hàng đại lý phát hành thẻ: Trên cơ sở hợp đồng đại lý phát hành,
ngân hàng này có thể thay mặt ngân hàng phát hành, phát hành thẻ cho chủ
thẻ với tên ngân hàng phát hành. Hợp đồng đại lý phải quy định đầy đủ, chi tiết
quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm có cơ sở phân định trách nhiệm nếu xẩy
ra tranh chấp
Ngân hàng thanh toán thẻ ( Acquier): Là ngân hàng được ngân hàng
phát hành thẻ uỷ quyền thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ hoặc là thành viên
của tổ chức thẻ quốc tế thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ theo hợp đồng. NHTT
thẻ là Ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các ĐVCNT để tiếp nhận và xử lý
các giao dịch về thẻ tại ĐVCNT, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho ĐVCNT.
Chủ thẻ ( Cardholder ): Là người có tên trên thẻ do NHPH thẻ cấp thẻ và
được quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ có thể là một cá nhân riêng lẻ, hoặc cá nhân
đại diện cho công ty hay tổ chức nào đó có nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán. Chỉ
có chủ thẻ mới có thẻ sử dụng thẻ của mình mà thôi, chủ thẻ có thể yêu cầu cấp
thêm cho người thân một thẻ phụ và một chủ thẻ có thể sở hữu một hoặc nhiều
thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ(ĐVCNT): Là đơn vị bán hàng hoá - dịch vụ có ký
hợp đồng với NHTT về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: Cửa hàng, khách
sạn, Nhà hàng… Các đơn vị này được NHTT trang bị máy móc kỹ thuật để tiếp

nhận thẻ thanh toán thay tiền mặt và thông thường ĐVCNT phải trả một
khoản phí về việc sử dụng tiện ích này.
Ngoài ra còn có các cơ quan khác tham gia vào quá trình phát hành và
thanh toán thẻ
Ngân hàng Nhà nước: là cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực tài chính
ngân hàng. Nhiệm vụ chủ yếu là đưa ra các văn bản pháp quy có liên quan, tiếp
nhận hồ sơ, xem xét cấp phép cho các Ngân hàng thương mại phát hành thẻ,
kiểm tra và giám sát hoạt động ngân hàng đảm bảo không trái pháp luật, tạo
sự cạnh tranh lành mạnh cho thị trường thẻ.
Hiệp hội các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ: Lập ra để có thể
trao đổi thông tin, những vướng mắc trong hoạt động phát hành và thanh
toán thẻ, nhằm cùng phối hợp tìm ra giải pháp thông qua hiệp hội các ngân
hàng cùng nhau thoả mãn các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh thẻ,
nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các ngân hàng.
Bên cạnh đó không thể không kể đến một số thiết bị sử dụng cho thanh
toán thẻ. Thanh toán thẻ là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và
nó đòi hỏi phải có thiết bị kỹ thuật hỗ trợ cho việc thanh toán được đơn giản,
nhanh gọn và an toàn.
* Một số thiết bị sử dụng trong thanh toán thẻ
Máy chà hoá đơn (Máy cà thẻ): Máy này được đặt tại ĐVCNT dùng để ghi
lại những thông tin được in nổi ở mặt trước của thẻ( số thẻ, tên chủ thẻ, ngày
hiệu lực của thẻ…) cùng với chữ ký của chủ thẻ… từ đó hoá đơn này được xem
là bằng chứng xác nhận việc chủ thẻ đã thực hiện giao dịch này, đồng thời là
cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp giữa các đối tượng có liên quan
(nếu xảy ra). Máy chà hoá đơn được cấu tạo gọn nhẹ, dễ sử dụng với kích
thước 30cm×20cm×4cm, khi sử dụng chỉ cần đặt thẻ vào khung đã được thiết
kế sẵn (mặt in nổi hướng lên) và đặt hóa đơn vào khung còn lại, sau đó kéo cần
chà qua là 1 lần thì tất cả các thông tin ở mặt trước thẻ được in lên hoá đơn.
Đây là thiết bị được sử dụng tại đa số các điểm chấp nhận thẻ ở Việt Nam
trước đây.

Điện thoại, Telex: Dùng để điện thoại hay Telex các thông tin như mã số
thẻ, thời gian thực hiện, tổng số tiền xin cấp phép đến ngân hàng để xin cấp
phép hoặc những nghi ngờ, sau vài phút ngân hàng sẽ trả lời từ chối hay chấp
nhận bằng việc cho một mã số chấp thuận (Approved code) và cơ sở bán hàng
phải ghi mã số này vào hoá đơn.
Máy xin cấp phép EDC (Electronic Data Capture): Máy cấp phép tự động
là thiết bị điện tử được trang bị tiếp nhận thẻ dùng để xin cấp phép trực tuyến
(On-line) với Ngân hàng phát hành, các trung tâm cấp phép của các loại thẻ
khác nhau trên thế giới thông qua ngân hàng thanh toán. Máy này rất tiện lợi,
nó giúp cho các thương vụ được thực hiện trong suốt 24/24h và chỉ mất trong
khoảng 30giây là nhận được việc trả lời của ngân hàng phát hành. Máy được
cấu tạo đặc biệt, có bộ phận đọc giải mã băng từ trên thẻ, máy này còn kiểm
tra được tính thật, giả của thẻ, thẻ bị mất cắp hoặc hết mức tín dụng, khi sử
dụng chỉ cần đưa thẻ vào khe đọc và nhập vào máy tổng số tiền xin cấp phép.
Sau khi thông tin được gửi đi máy sẽ nhận được trả lời trực tiếp từ trung tâm
xử lý cấp phép trong vòng 30 giây.
Máy rút tiền tự động ATM (Automated Teller Machine): Máy này được
ứng dụng vào cuối thập niên 60 và nhanh chóng trở nên phổ biến vì sự tiện lợi
và linh hoạt. Khách hàng có thể rút tiền tại máy rút tiền tự động với thời gian
24/24h. Ngày nay rất nhiều Ngân hàng phát triển hệ thống ATM. Máy ATM
được đặt ở nhiều nơi công cộng. Máy rút tiền tự động bên trong có chứa tiền
mặt, khi sử dụng đút thẻ vào khe, sau đó trên mặt sẽ xuất hiện những yêu cầu
như nhập mã số cá nhân (PIN)… số tiền cần rút. Thông tin về giao dịch này sẽ
được truyền về Ngân hàng phát hành, nếu Ngân hàng phát hành cho phép,
máy sẽ đưa tiền ra cho khách hàng. Chú ý nếu khách hàng nhập mã số cá nhân
(PIN) sai đến 3 lần thì máy sẽ tự động giữ lại thẻ luôn để đề phòng việc sử
dụng thẻ bị mất cắp.
Ngoài ra còn có thêm máy tính các nhân nối mạng Internet để chủ thẻ
thực hiện giao dịch Internet Banking, …
* Thuật ngữ cần biết liên quan đến thẻ thanh toán

Hạn mức tín dụng (Credit line): là giá trị tối đa mà chủ thẻ được ngân
hàng phát hành cho phép sử dụng trong thời gian hiệu lực của thẻ.
Mức trần hay trị số tối đa thanh toán (Floor limit ): Để hạn chế rủi ro
trong hoạt động thanh toán và nếu có xẩy ra thì tổn thất cũng sẽ nhỏ. Hiệp hội
thẻ quy định mức giới hạn cho mỗi giao dịch được thực hiện mà không cần sự
cấp phép của NHPH, khi vượt hạn mức quy định thì ĐVCNT phải xin cấp phép
giao dịch đó, mức trần này áp dụng cho các ĐVCNT thẻ dùng máy chà hoá đơn.
Mức trần này ở những ĐVCNT có trang bị máy xin cấp phép tự động (EDC) là
bằng không.
Quá trình cấp phép (Authorization): hay quá trình chuyển chi là quá
trình ĐVCNT xin ý kiến NHPH cho việc thực hiện giao dịch có giá trị lớn hơn
mức trần và được NHPH trả lời 1 trong 4 cách sau:
- Đồng ý cấp phép (Approve) và kèm theo 5, 6 mã số xác nhận đồng ý cấp
phép, ĐVCNT tiến hành thanh toán.
- Không đồng ý cấp phép (Deline): ĐVCNT báo cho khách hàng giao dịch
bằng thẻ bị từ chối thanh toán và khách hàng có thể liên hệ với NHPH thẻ để
biết chi tiết. Trong thực tế không một NHPH nào muốn từ chối giao dịch của
chủ thẻ trừ trường hợp có vấn đề trong quan hệ tín dụng thanh toán.
- Yêu cầu tịch thu thẻ (Pic-up) nhân viên của ĐVCNT khi nhận được
thông tin này thì biết rằng việc lưu hành thẻ này là không được sự đồng ý của
NHPH . Theo quy định thì nhân viên giao dịch phải khéo léo, tế nhị, dùng biện
pháp ôn hoà để giữ lại thẻ. Lưu ý chỉ được giữ thẻ, không được giữ người và
nếu có yêu cầu của chủ thẻ thì phải làm biên bản.
- Liên hệ thêm ( Referral): NHPH cần xác định lại một số thông tin của
chủ thẻ trước khi ra quyết định, trong một số trường hợp đặc biệt hoặc nghi
ngờ.
Quá trình thanh toán và bù trừ (Clearing and settlement): là quá trình
ngân hàng thanh toán trả tiền cho ĐVCNT, NHPH thẻ đòi tiền chủ thẻ và thanh
toán giữa NHPH thẻ và NHTT thẻ về hoạt động kinh doanh thẻ thông qua tổ
chức thẻ quốc tế( nếu có).

Clearing ( bù trừ ) là quá trình trao đổi các chi tiết các thương vụ đã
được thực hiện bằng thẻ giữa NHTT và NHPH để có cơ sở trong việc ghi nợ tài
khoản chủ thẻ và báo có tài khoản thích hợp.
Settlement (thanh toán) là quá trình qua đó tiền được chuyển giữa các
thành viên phần giá trị chênh lệch của các thương vụ đã thực hiện bằng thẻ.
Trong qua trình thanh toán, Tổ chức thẻ thanh toán quốc tế sẽ chỉ định một
NHTT để điều chuyển tiền đến các thành viên được báo có và ghi nợ cho các
thành viên được báo nợ( nếu là thẻ quốc tế).
Danh sách đen (Warring Bulletin or Restricted card list ): là danh sách
liệt kê số thẻ không được phép lưu hành bao gồm: thẻ bị mất cắp, thẻ giả và
các thẻ đã hết mức tín dụng. Danh sách này được lập ra nhằm mục đích thông
báo cho các ĐVCNT không được chấp nhận thanh toán cho các chủ thẻ đen có
trong danh sách này. Danh sách này được tập hợp từ những dữ liệu thông tin
của các thành viên phát hành và cập nhập liên tục để thông báo kịp thời cho
các ĐVCNT, nếu kiểm tra phát hiện thấy số thẻ trùng khớp với số thẻ trong

×