Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.34 KB, 58 trang )

Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2011 – 2015

Đề tài:

QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

Giảng viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. THẠCH HUÔN

CHAU SÓC SIÊN

Bộ môn: Luật Thương Mại

MSSV: 5115927
Lớp: Luật Thương Mại 2 – K37

Cần Thơ 12/2014

GVHD: ThS. Thạch Huôn


1

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NKT: Người khuyết tật.
OHCHR: Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Quyền con người.
WHO : Tổ chức y tế thế giới.
CĐSP: Cao đẳng sư phạm.
BGD&ĐT: Bộ giáo dục và đào tạo.
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người.
LHQ: Liên hợp quốc.
UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

2

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 6

3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.....................................................................................6
5. Kết cấu đề tài ........................................................................................................6

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT
TẬT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM ................................ 7
1.1. Một số khái niệm về quyền con ngƣời và quyền của ngƣời khuyết tật
trong lĩnh vực giáo dục ............................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm quyền con người ........................................................................7
1.1.2. Khái niệm người khuyết tật.........................................................................8
1.1.3. Khái niệm quyền của người khuyết tật .................................................... 10
1.1.4. Khái niệm giáo dục .................................................................................... 11
1.2. Lịch sử phát triển giáo dục cho ngƣời khuyết tật trên thế giới và Việt Nam
.......................................................................................................................... 12
1.2.1. Lịch sử phát triển của nên giáo dục cho người khuyết tật trên thế giới 13
1.2.2. Lịch sử phát triển Giáo dục người khuyết tật ở Việt Nam ...................... 14
1.3. Những vấn đề đặc trƣng về quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực
giáo dục.................................................................................................................... 15
1.3.1. Tính chất của quyền của người khuyết tật nói chung và quyền được giáo
dục nói riêng ........................................................................................................15
1.3.2. Các chủ thể tham gia vào vấn đề quyền của người khuyết tật trong lĩnh
vực giáo dục .........................................................................................................16
1.3.3. Các quyền của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam .................... 19
1.3.3.1. Quyền được giáo dục ........................................................................................ 19
1.3.3.2. Quyền được chăm sóc sức khỏe thường xuyên ................................................ 21

1.3.4. Tầm quan trọng của quyền được giáo dục ở Việt Nam ........................... 22

CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC – THỰC TIỄN

VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................................... 25
2.1. Quyền của ngƣời khuyết tật trong hệ thống pháp luật quốc tế ..................25
2.1.1. Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 (UDHR)................25
2.1.2. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) ....26
2.1.3. Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục của UNESCO năm
1960
...............................................................................................................27
2.1.4. Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức, phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ năm 1979 .................................................................................................28
2.1.5. Công ước về Quyền trẻ em năm 1989....................................................... 30
2.1.6. Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 ..................31
2.2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của ngƣời khuyết tật
trong lĩnh vực giáo dục .......................................................................................... 33
2.2.1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.........33
2.2.2. Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 ..35
2.2.3. Luật sửa đổi bổ sung Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2009 ............................................................................................. 36
GVHD: ThS. Thạch Huôn

3

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
2.2.4. Luật Người khuyết tật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2010
...............................................................................................................37
2.2.5. Các văn bản pháp luật khác có liên quan ................................................39
2.2.5.1. Nghị quyết 37/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 về Giáo dục ........... 39

2.2.5.2. Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD-ĐT về giáo dục hòa nhập danh cho người
tàn tật, khuyết tật ............................................................................................................ 40
2.2.5.3. Quyết định 1019/Qđ-TTg Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 ............................................................................................................ 40

2.2.6. Các chính sách và chương trình tiêu biểu ...............................................41
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực
giáo dục ở Việt Nam ............................................................................................... 43
2.3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật .....................................................................43
2.3.1.1. Trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận giáo dục ........................................ 43
2.3.1.2. Trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ trong lĩnh vực giáo
dục người khuyết tật ....................................................................................................... 45
2.3.1.3. Trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ giáo viên ở các trường có người khuyết
tật
..................................................................................................................... 46
2.3.1.4. Trong việc tuyên truyền giáo dục đến các gia đình của người khuyết tật ở địa
phương
..................................................................................................................... 47
2.3.1.5. Phương pháp giảng dạy của cán bộ giáo viên đối với học sinh, sinh viên là
người khuyết tật .............................................................................................................. 48

2.3.2. Kiến nghị ....................................................................................................49
2.3.2.1. Trong việc hoàn thiện pháp luật ...................................................................... 50
2.3.2.2. Trong phát triển kinh tế - xã hội ...................................................................... 51

KẾT LUẬN ................................................................................................... 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Thạch Huôn


4

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ đã được các cấp, các ngành và
toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng đã xác định rõ
vai trò, vị trí, trách nhiệm của nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hướng tới
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ những
việc làm trên sẽ tạo cho đời sống của người khuyết tật cũng đã từng bước thay đổi.
Có thể thấy được quyền của NKT hiên nay đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
không chỉ thế mà cả thế giới cũng quan tâm. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NKT là một trong những chức năng rất quan trọng, nhất là bảo đảm quyền được giáo
dục một trong những tiêu chí quan trọng bình đẳng về giáo dục.
Người khuyết tật có quyền bình đẳng trong giáo dục, tuy nhiên, hiện nay vẫn còn
rất nhiều người khuyết tật ở Việt Nam không được hưởng những quyền đó, nguyên
nhân do Người khuyết tật họ không thể đi học. Phần lớn học sinh khuyết tật gặp rất
nhiều khó khăn ở trường như: trong việc đi lại, học tập, giao tiếp với giáo viên và các
bạn cùng lớp; tham gia các hoạt động của trường; cơ sở hạ tầng của trường không
thân thiện với người khuyết tật; giáo viên thiếu kỹ năng dạy người khuyết tật và hành
vi phân biệt đối xử của giáo viên và các bạn cùng lớp.
Trong nhiều thập kỷ qua, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn nhưng Đảng và
Nhà nước vẫn luôn quan tâm ưu tiên nguồn lực và thực hiện nhiều chủ trương, chính
sách trợ giúp xã hội, bảo đảm các quyền của người khuyết tật và thúc đẩy sự tham gia
của người khuyết tật vào đời sống xã hội. Rõ nhất là hệ thống luật pháp, chính sách

đối với người khuyết tật ngày càng được hoàn thiện, trong đó tháng 6/2010, Quốc hội
Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật và có hiệu lực thi hành từ ngà y
1/1/2011. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá đầy đủ và toàn diện
các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật
nhằm tạo môi trường pháp lý, điều kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với
người khuyết tật theo hướng xây dựng các chính sách đối với người khuyết tật trên cơ
sở tiếp cận và bảo đảm quyền của người khuyết tật.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế,
việc áp dụng còn nhiều bất cập nên đã gây ra không ít khó khăn cho người khuyết tật
khi tham gia vào lĩnh vực giáo dục. Đối với người khuyết tật, ngoài những quy định
chung về quyền, nghĩa vụ như mọi công dân khác, cần thiết phải có hành lang pháp lý
bảo vệ quyền, lợi ích và các chính sách dành riêng cho họ.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

5

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Do đó, người viết chọn đề tài nghiên cứu về “Quyền của người khuyết tật trong
lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của
mình nhằm đáp ứng được yêu cầu về thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật của các
vấn đề ở trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài, người viết muốn làm rõ các quy định của pháp luật quốc tế cũng
như quốc gia và thực tiễn áp dụng pháp luật trong vấn đề quyền của người khuyết tật
trong lĩnh vực giáo dục. Qua đó, người viết muốn rút ra những tồn tại, thiếu sót cần
được khắc phục từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường công tác
giáo dục cho người khuyết tật được giáo dục ngay càng tăng và giúp người khuyết tật

có thể hòa nhập trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất về
quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục dựa trên quy định của Luật Giáo
dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009), Luật người khuyết tật 2010, các văn bản dưới
luật và một số văn bản pháp luật quốc tế có liên quan nhằm làm rõ mục tiêu nghiên
cứu của đề tài. Từ đó có thể đưa ra những kiến nghị và hướng hoàn thiện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để luận văn được hoàn thiện người viết đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu như sau: Phương pháp phân tích luật viết; Phương pháp phân tích tổng hợp;
Phương pháp so sánh và Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu thực tế.
5. Kết cấu đề tài
Trong đề tài ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
được bố cục bằng hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở
Việt Nam
Chương 2: Những quy định của pháp luật về quyền của người khuyết tật trong
lĩnh vực giáo dục – thực tiễn và kiến nghị

GVHD: ThS. Thạch Huôn

6

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm về quyền con ngƣời và quyền của ngƣời khuyết tật
trong lĩnh vực giáo dục
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là nên tảng để mỗi người phát triển đầy đủ nhân cách, năng lực
của mình và cũng là nền tảng của sự phát triển và tiến bộ của một xã hội. Thế nhưng,
“Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà không hề biết rằng mình là chủ nhân của
các quyền con người…” (Wolfgang Benedek). Kiến thức về quyền con người quan
trọng như vậy cho nên mục tiêu của giáo dục con người phải nhằm thúc đẩy sự tôn
trọng các quyền cơ bản của con người.
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Quyền con người
(OHCHR) thì: “Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người”. Như
vậy, quyền con người đều có khi con người vừa được sinh ra, bởi họ là con người và
quyền đó được công nhận trên phạm vi toàn cầu.
Định nghĩa này có hai quan điểm nhìn nhận. Quan điểm coi quyền con người là
quyền tự nhiên, xuất hiện quyền một cách bẩm sinh bởi cá thể là con người cho nên
quyền con người không phụ thuộc bất cứ điều kiện truyền thống, văn hóa, cộng đồng,
nhà nước nào. Theo quan điểm này, rõ ràng Nhà nước hay chủ thể nào khác không
ban phát hay tước bỏ những quyền bẩm sinh đó của cá nhân. Các chính phủ chẳng
qua là một khế ước xã hội trong đó các công dân ký vào kỳ vọng và mong muốn bầu
ra chính phủ là phương tiện bảo vệ các “quyền tự nhiên” của họ chứ không phải ban
phát, quy định các quyền của họ. Quan điểm coi quyền con người là quyền pháp lý
thì cho rằng quyền con người phải do các Nhà nước xác định và cụ thể hóa bằng các
quy phạm pháp luật. Như vậy nó mang tính khác biệt tương đối về mặt văn hóa,
chính trị.
Nhân loại đến nay vẫn còn nhiều khác biệt từ hai quan điểm gốc này. Nhưng dù
sao, cộng đồng quốc tế cũng đều thống nhất bằng Tuyên ngôn quyền con người năm

1948 rằng Quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, bình đẳng với tất cả mọi
người. Quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai,
Nhà nước nào, quyền con người không thể phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay
toàn bộ các quyền con người nào.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

7

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Quyền con người là những quyền vốn có của con người, không phân biệt quốc
tịch, nơi cư trú, giới tính, nguồn gốc quốc gia hay dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn
ngữ hay bất kỳ một thân phận nào khác. Mọi người được hưởng các quyền của mình
một cách bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử. Những quyền này có mối quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời.
Ở Việt Nam, có một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ
quan nghiên cứu từng nêu ra không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Trong Hiến pháp 2013 đã danh một điều để nói về quyền con người.
Định nghĩa đó được khẳng định : “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.1
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người. Nhưng định nghĩa mà người
viết đồng tình nhất về quyền con người đó là quyền căn bản mà người ta có chỉ đơn
giản là vì người ta là con người. Mà đã là con người thì bất kể màu da, tôn giáo, giai
cấp, bất kể ai cũng phải có quyền ấy. Đó là những quyền được san sẻ một cách phổ
quát, đồng điều và thiêng liêng. Phổ quát là ở đâu cũng có, đồng điều là ai cũng có.

Thiêng liêng ở chỗ không ai được chiếm đoạt của người khác.
Mặc dù có nhiều gốc độ và cấp độ để nhìn nhận về Quyền con người nhưng có
một điều rõ ràng là Quyền con người chính là những giá trị cao cả được tôn trọng và
bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn của lịch sử.
Quyền con người còn là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ, là kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ dụng cho con
người, cho tất cả mọi người. Nhờ vào Quyền con người, mọi người mới được bảo vệ
nhân phẩm và có điều kiện đầy đủ để phát triển bản thân với tư cách là một con
người.
1.1.2. Khái niệm người khuyết tật
Theo quan niệm của tổ chức y tế thế giới (WHO) thì có ba thuật ngữ có liên quan
đến thuật ngữ tàn tật, khuyết tật đó là Khiếm khuyết, Giảm khả năng và Tàn tật.
Khiếm khuyết: Thuật ngữ này chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường
một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý.

1

Khoản 1, điều 14 Hiến pháp 2013.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

8

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Khiếm khuyết có thể là hậu quả của bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường hoặc
bẩm sinh. 2
Giảm khả năng: Thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ cá nhân là tình trạng giảm

hoặc mất khả năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất chức năng
(vận động, nói, nghe, nhìn hoặc giao tiếp).
Tàn tật: Thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ xã hội là những thiệt thòi mà một
người phải chịu do bị khuyết tật. Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị khiếm
khuyết hoặc giảm khả năng với những rào cản trong môi trường xã hội, văn hoá hoặc
vật chất, làm cho cá nhân này không thể tham gia một cách bình đẳng vào cuộc sống
cộng đồng chung hoặc hoàn thành một vai trò bình thường. Như vậy, trên thế giới
quan niệm về người khuyết tật cơ bản là giống nhau về bản chất vấn đề, nhưng cách
diễn đạt cũng không hoàn toàn giống nhau.
Theo Công ước về quyền của người khuyết tật ngày 06 tháng 12 năm 2006, của
Đại hội đồng Liên hợp quốc thì Người khuyết tật bao gồm: “những người bị suy giảm
về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng
qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả
của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.3
Khuyết tật còn được hiểu theo nghĩa là chỉ sự không thuận lợi của một cá nhân do
khuyết tật gây nên và hạn chế hay ngăn cản các chức năng hay hoạt động được coi là
bình thường theo giới tính và độ tuổi của mỗi cá nhân. Trên thực tế hiện nay ở nước
ta đã tồn tại nhiều quan niệm về người khuyết tật hoặc người tàn tật, vì mỗi một quan
niệm đều đứng trên một góc nhìn khác nhau và có mục đích riêng.
Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998, định nghĩa về người tàn tật như sau:
“Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một
hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tàn tật khác
nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
nhiều khó khăn”.
Quy định của Pháp lệnh về người tàn tật tiếp cận người khuyết tật theo quan điểm
y tế. Hiện nay, quốc tế đã chuyển sang mô hình tiếp cận xã hội để nhìn nhận sự
khuyết tật và người khuyết tật. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật,có hiệu lực từ 01/01/2011, chính
thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái niệm “tàn tật” hiện hành,
phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Theo

2

Trần Thị Ngọc Lan, Tổ chức Y tế thế giới xuất bản hướng dẫn về phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho
người khuyết tật, website:
http://203.162.20.210/homebyt/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=222&cat=1908&ID=8691 [ngày truy cập:
12/8/2014].
3
Công ước về quyền người khuyết tật của Liên hiệp quốc năm 2006.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

9

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
quy định của Luật Người khuyết tật thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện
dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.4
Theo cách hiểu này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết tật
bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do tai nạn, thương binh, bệnh binh... Như vậy, Luật
Người khuyết tật đã đưa ra khái niệm người khuyết tật dựa vào mô hình xã hội và phù
hợp với Công ước về quyền của người khuyết tật. Từ cách tiếp cận này, Luật Người
khuyết tật cũng phân loại dạng tật và mức độ khuyết tật.5 Đây là một điểm mới của
Luật so với Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998.
Sự phân loại này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các chính sách của
nhà nước đối với người khuyết tật. Thực tế cho thấy, người khuyết tật khó có cơ hội
tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội do những khiếm khuyết về cơ thể hay
chức năng, song khó khăn đó sẽ tăng thêm do ảnh hưởng bởi những rào cản khác

trong xã hội. Do đó, chính sách đối với người khuyết tật không chỉ dừng lại ở việc
chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng mà còn phải tiến tới xoá bỏ các rào cản đối
với người khuyết tật nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của Nhà nước, xã hội,
gia đình, cộng đồng và của mọi cá nhân đối với người khuyết tật, giảm thiểu hoặc xoá
bỏ những rào cản, giúp người khuyết tật chủ động hòa nhập, có cơ hội tham gia một
cách bình đẳng vào các hoạt động của xã hội.
1.1.3. Khái niệm quyền của người khuyết tật
Quyền của người khuyết tật là mối quan tâm không chỉ riêng một quốc gia nào.
Tôn trọng và bảo đảm quyền của người khuyết tật là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo,
từ thiện, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội, kinh tế, pháp lý. Theo tuyên ngôn nhân
quyền thế giới năm 1948, có ghi nhận về việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền
bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở
cho tự do, công bằng và hoà bình trên thế giới.
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi
người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng
tình anh em5. Từ đó quyền của người khuyết tật đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận
là một quyền vốn có của họ, cũng giống như Quyền con người. Đại hội đồng Liên
hiệp quốc tại kỳ họp 61 ngày 06/12/2006 đã thông qua Công ước về quyền của người
khuyết tật, tại khoản 1 Điều 4 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo

4

Khoản 1, Điều 2, Luật người khuyết tật 2010.
Điều 3 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định các dạng tật: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói;
khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mức độ khuyết tật gồm:
khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng và khuyết tật nhẹ.
5

GVHD: ThS. Thạch Huôn


10

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
đảm và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả
người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết tật”.
Hiện nay, khái niệm quyền của người khuyết tật được chia sẻ ở cấp độ toàn cầu và
nhờ đó nó dần là một phương tiện mà người khuyết tật có thể sử dụng như một công
cụ để biến đổi nhận thức xã hội. Bởi vì, cũng như quyền con người, quyền của người
khuyết tật xét ở phương diện giá trị trưu tượng lẫn ở phương diện giá trị hiện thực, ở
phương diện tự nhiên lẫn ở phương diện pháp lý là một trong những hiện tượng xã
hội gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, của một quốc gia nói
riêng. Nói cách khác, quyền của người khuyết tật dần mang tính phổ quát có nghĩa là
chúng được thừa nhận và áp dụng ở khắp nơi.
Ở Việt Nam, tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định sự cam kết của nhà
nước và xã hội về những đảm bảo cho người khuyết tật. Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam
đã thông qua luật Người khuyết tật (ngày 17 tháng 06 năm 2010 và có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2011) trong đó tư tưởng pháp lý chủ đạo là tiếp cận quyền của
người khuyết tật trong mối quan hệ với quyền con người theo tinh thần của Công ước
về Quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết.
Nhìn chung, người khuyết tật có quyền được tôn trọng, bất kể nguồn gốc, bản
chất, mức độ nghiêm trọng của những người khuyết tật đều phải được hưởng những
quyền cơ bản của công dân như công dân khác cùng độ tuổi mà trước hết là quyền
được hưởng một cuộc sống đầy đủ và họ cần được hưởng những chính sách hỗ trợ để
tiếp cận những quyền đó.
Tóm lại, Quyền của người khuyết tật là những gì bẩm sinh, vốn có của họ và được
áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự
phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì.

1.1.4. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một ngành khoa học không thể tách rời những truyền thống giáo dục
từng tồn tại trước đó. Trong xã hội, người lớn giáo dục người trẻ những kiến thức và
kỹ năng cần phải thông thạo và cần trao truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Sự phát triển
văn hóa, và sự tiến hóa của loài người, phụ thuộc và lề lối trao truyền tri thức này. Ở
xã hội tồn tại trước khi có chữ viết, giáo dục được thực hiện bằng lời nói và thông
qua bắt chước. Những câu chuyện kể được tiếp thu từ đời này sang đời khác. Rồi
ngôn ngữ nói phát triển thành những chữ và ký hiệu. Chiều sâu và độ rộng của kiến
thức có thể được bảo tồn và trao truyền gia tăng vượt bậc. Khi các nền văn hóa bắt
đầu mở rộng kiến thức vượt quá những kỹ năng cơ bản về giao tiếp, đổi chác, kiếm
ăn, thực hành tôn giáo, giáo dục chính quy và việc đi học cuối cùng diễn ra.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

11

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Giáo dục còn là quá trình khơi gợi các tiềm năng sẳn có trong mỗi con người, góp
phần nâng cao các năng lực và phẩm chất cá nhân của cả thầy và trò theo hướng hoàn
thiện hơn, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người đương đại.
Giáo dục (tiếng Anh: Education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó
kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được trao quyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục
thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự
học.6 Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ,
cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường
được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học, và giáo dục đại học.

Về mặt từ nguyên, “education” trong tiếng Anh có gốc La-tinh Education (“nuôi
dưỡng, nuôi dạy”) gồm aduco (“tôi giáo dục, tôi đào tạo”), liên quan đến từ đồng âm
educo (“tôi tiến tới, tôi lấy ra, tôi đứng dậy”). Trong tiếng Việt, “giáo” có nghĩa là
dạy, “dục” có nghĩa là nuôi (không dùng một mình); “giáo dục” là “dạy dỗ gây nuôi
đủ cả trí-dục, đức-dục, thể-dục.7
Giáo dục được định nghĩa như sau: Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội
nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Giáo dục được hiểu như là quá trình tác động
tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi,…nhằm hình thành niềm tin, lý
tưởng, động cơ, thái độ và những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.
Quyền giáo dục được nhiều chính phủ thừa nhận. Ở cấp độ toàn cầu, Điều 13 của
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1966) của Liên Hợp
Quốc công nhận quyền giáo dục của tất cả mọi người.8
Mặc dù ở hầu hết các nước giáo dục có tính chất bắt buộc cho đến một độ tuổi
nhất định, việc đến trường thường không bắt buộc; một số ít các bậc cha mẹ chọn con
cái học ở nhà, học trực tuyến, hay những hình thức tương tự.
1.2. Lịch sử phát triển giáo dục cho ngƣời khuyết tật trên thế giới và Việt
Nam
Giáo dục đóng vai trò quyết định đối với người khuyết tật. Giáo dục là con đường
giúp họ phát triển tối đa khả năng cũng như tiềm năng cá nhân, để từ đó họ được sống
với chân giá trị của mình và có ích cho xã hội. Vì vậy, lịch sử giáo dục cho NKT ở

6

Dewey, John (1916/1944). Democracy and Education. The Free Press. tr. 1–4. ISBN 0-684-83631-9.
Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt-Nam Tự-Điển, Trung-Bắc Tân-Văn, 1931.
8
Giáo dục – wikipedia tiếng việt, [truy cập
25/8/2014].
7


GVHD: ThS. Thạch Huôn

12

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
thế giới và Việt Nam đã sớm hình thành, để giúp NKT phát triển nhận thức và hòa
nhập cộng đồng.
1.2.1. Lịch sử phát triển của nên giáo dục cho người khuyết tật trên thế
giới
 Giai đoạn thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Đây là thời kỳ mở đầu cho giai đoạn bắt đầu có sự quan tâm chăm sóc giáo dục
cho người khuyết tật, song cũng chỉ có các ghi chép về việc chăm sóc giáo dục người
khiếm thính và người khiếm thị.
Giáo dục người khiếm thính: Hệ thống chữ cái ngón tay và kết hợp với chữ viết được
sử dụng để dạy trẻ điếc.
Giáo dục người khiếm thị: Một số nhà hoạt động xã hội đã có tư tưởng xây dựng
ngành học người mù. Họ sáng lập ra phương pháp đọc và viết chữ nhờ cảm giác xúc
giác, và đưa ra hai cách viết:
- Viết chữ giống hệt như chữ của người sáng mắt trên giấy nến để tạo thành chữ
nổi.
- Chữ viết là những chấm nổi. Cách viết này là do Lama đề xướng năm 1670.
Mỗi ô viết có 12 chấm nổi. Sau này, Braille cải tiến cách viết, mỗi ô chỉ còn 6 chấm
nổi. Cho đến nay, chữ nổi do Braille sáng lập được cả thế giới thừa nhận và sử dụng.
 Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX
- Giáo dục người khiếm thính: Những người theo trường phái sử dụng ngôn ngữ
nói để dạy trẻ điếc: Fiedrich Moritz Hill (1805-1874), người Đức. Đại hội Milano

năm 1880 (Ý) đã quyết định lựa chọn ngôn ngữ nói đơn thuần là phương pháp dạy trẻ
điếc. 9
- Giáo dục người mù: Hệ thống giáo dục trẻ mù gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp
giáo dục của nhà giáo dục Pháp: Gaiu. Ông đã đề xướng hệ thống phương pháp dạy
học, viết và dạy nhạc cho thanh niên mù và được ghi vào lịch sử giáo dục người mù
như là sự mở đầu sự nghiệp phát triển khoa học về mô hình trường và phương pháp
giáo dục người mù.
 Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến nay
Đây là thời kỳ phát triển và hưng thịnh của mô hình giáo dục chuyên biệt người
khuyết tật. Với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học, đặc biệt là y học,
sinh lý học, giáo dục học, tâm lý học…thì quan niệm của xã hội về người khuyết tật
nói chung đã có sự thay đổi. Người ta cho rằng, người khuyết tật nói chung cũng như
trẻ khuyết tật có khả năng phục hồi các chức năng bị khiếm khuyết nếu được chữa trị,
9

Xem Tr 15, Giáo dục học trẻ khuyết tật, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

13

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
họ cũng có nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại, có những khả năng nhất định để tham gia
vào đời sống xã hội.
Như vậy, giai đoạn này cùng tồn tại hai mô hình giáo dục chủ yếu người khuyết
tật là mô hình giáo dục chuyên biệt và mô hình giáo dục hòa nhập. Cùng với sự tiến
bộ của nhân loại, mô hình giáo dục hòa nhập ngày càng tỏ rõ tính ưu việt và dần thay

thế mô hình giáo dục chuyên bịêt.
Các tổ chức quốc tế như UNESCO, UNICEF…đã có những văn bản hướng dẫn
các quốc gia cách thức tổ chức, thực hiện mô hình giáo dục hòa nhập. Rất nhiều các
quốc gia trên thế giới đã có những văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện một cách
hiệu quả, đảm bảo Quyền của người khuyết tật.
1.2.2. Lịch sử phát triển Giáo dục người khuyết tật ở Việt Nam
Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với giáo dục trẻ
khuyết tật trên thế giới. Hơn nữa cũng không có nhiều tài liệu khẳng định một cách
tương đối đầy đủ và chi tiết về vấn đề này. Tuy nhiên, tương tự như lịch sử giáo dục
trẻ khuyết tật trên thế giới, các trường hợp, cơ sở giáo dục trẻ khiếm thính và khiếm
thị được ra đời sớm hơn so với các cơ sở giáo dục trẻ chậm phát triển trí tuệ, trẻ
khuyết tật vận động, trẻ khuyết tật ngôn ngữ…
 Giai đoạn từ năm 1945 -1975
- Giáo dục người khiếm thính
Trường dạy trẻ điếc Lái Thiêu phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Nội
dung học tập là kiến thức văn hóa bậc tiểu học, kiến thức nghề nghiệp phù hợp: may,
đan, thêu, dệt, đóng sách vở, đánh máy chữ, trồng trọt, chăn nuôi, mộc, nề. Phương
pháp giảng dạy: Phục hồi chức năng nghe nói bằng cách dạy phát âm cho trẻ khiếm
thính nhẹ (nghễnh ngãng), tận dụng phần thính lực còn lại, thị giác, xúc giác, quan sát
môi, răng, lưỡi, rung động của dây thanh, sức bật của hơi…
- Giáo dục người khiếm thị
Đầu năm 1952, trường dạy trẻ mù ở Sài Gòn được mở lại và đặt trong trường Cao
Thắng, mang tên là trường thiếu niên mù. Năm 1954 trường chuyển về địa điểm cũ
182 đường Nguyễn Chí Thanh dành cho nam sinh mù. Năm 1936, ở miền Bắc có một
cơ sở dạy người mù đặt tại số 55 phố Quang Trung, Hà Nội, sau đó bị đóng cửa. Năm
1955, ngành thương binh xã hội có mở trường dành cho những thương binh hỏng mắt
đặt tại số 139 Nguyễn Thái Học, Hà Nội với mục đích thanh toán nạn mù chữ nổi
Braille.
 Giai đoạn từ năm 1975-1990
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của các trường, lớp chuyên biệt. Đến năm

1980, có khoảng 30 trường, cơ sở chuyên biệt và tới năm 1990, tổng số trường (trung
GVHD: ThS. Thạch Huôn

14

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
tâm/cơ sở) chuyên biệt của cả nước khoảng trên 50, trong đó: Trường (trung tâm/cơ
sở) dạy người khiếm thính: 36, Trường (trung tâm/cơ sở) dạy trẻ chậm phát triển tinh
thần: 11, Trường (trung tâm/cơ sở) dạy trẻ Khiếm thị: 5. 10
 Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Đây là giai đoạn bắt đầu triển khai mô hình giáo dục hòa nhập. Giáo dục hòa nhập
trên thế giới bắt đầu xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX.
Hàng loạt các văn bản hướng dẫn thực hiện giáo dục hòa nhập trước khi một
chính sách quốc tế được ra đời. Một trong những văn kiện quan trọng nhẩt là Văn
kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TW khóa IX, trong đó ghi rõ: “ Đạt tỷ lệ
50% vào năm 2006 và 70% vào năm 2010 trẻ khuyết tật được học ở một trong các
lọai hình lớp hòa nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt”.
Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ ban hành chính thức bộ chương trình và
giáo trình đào tạo giáo viên trình độ CĐSP về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật và tiến
hành đào tạo trong tất cả các trường CĐSP trong cả nước, đáp ứng thực hiện nhu cầu
chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật.
Năm 2004, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã triển khai thực hiện mô
hình giáo dục trẻ khuyết tật. Tổng số trẻ khuyết tật được đi học khoảng 70.000 em.
Trong đó, khoảng 7000 trẻ khuyết tật đi học tại 94 trường, cơ sở chuyên biệt ( so với
năm 1995, khoảng 3700 trẻ khuyết tật đi học tại 66 trường, cơ sở chuyên biệt).
Khoảng 63.000 trẻ khuyết tật được đi học hòa nhập tại các trường phổ thông ngay tại
nơi trẻ sinh sống. 11

Hiện nay, Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành một số văn bản quy định về can thiệp
sớm, giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật. Hằng năm, trong hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ các năm học đều có nội dung về giáo dục người khuyết tật, hướng dẫn ưu
tiên tuyển sinh cao đẳng, đại học đối với học sinh khuyết tật.
1.3. Những vấn đề đặc trƣng về quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực
giáo dục
1.3.1. Tính chất của quyền của người khuyết tật nói chung và quyền được
giáo dục nói riêng
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền của người khuyết tật có các
tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân
chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau:

10
11

Giáo dục học trẻ khuyết tật, tr 20, NXB. Giáo dục Việt Nam, năm 2009.
Giáo dục học trẻ khuyết tật, tr 22, NXB. Giáo dục Việt Nam, năm 2009.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

15

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
- Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền của người khuyết tật là những
gì bẩm sinh, vốn có của họ và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên
trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì.
- Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền của

người khuyết tật không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ
thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt,
chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do.
- Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền của người
khuyết tật đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được
coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền của người
khuyết tật nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của họ.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở
chỗ việc bảo đảm các quyền của người khuyết tật, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong
mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến
bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến
việc bảo đảm các quyền khác.
Thực tế cho thấy, trong hầu hết các trường hợp rất khó, thậm chí là không thể thực
sự thành công trong việc bảo đảm riêng một quyền của người khuyết tật nào đó mà
bỏ qua các quyền khác. Đơn cử, để thực hiện tốt các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền
chính trị cơ bản), cần bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên
quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích
đáng...vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói
khổ, bệnh tật hay mù chữ. Điều đó cần bảo đảm các quyền của người khuyết tật để
các quyền đó có thể giúp cho NKT được phát triển bản thân và tham gia bình đẳng
trong cuộc sống.
1.3.2. Các chủ thể tham gia vào vấn đề quyền của người khuyết tật trong
lĩnh vực giáo dục
 Chủ thể quyền
Quyền được giáo dục của người khuyết tật thì chủ thể quyền ở đây không ai khác
hơn là các cá nhân có khuyết tật. Người khuyết tật họ thuộc nhóm dễ bị tổn thương và
họ có những khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn nên việc bảo đảm quyền cơ bản là rất quan trọng trong việc vươn lên trong cuộc

sống và tham gia đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

16

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Quyền được giáo dục là quyền cơ bản của mọi người đều được bình đẳng với
nhau và NKT cũng có quyền được giáo dục như mọi người bình thường khác, giáo
dục rất cần thiết đối với người khuyết có thể nâng cao nhận thức, phục hồi chức năng
và có thể hòa nhập với cộng đồng, thông qua giáo dục giúp NKT có thể mở rộng tầm
nhìn và thấy được cuộc sống tốt đẹp hơn, giúp họ có thể học thêm những ngành nghề
để sau này làm việc tự nuôi bản thân và gia đình họ thoát nghèo, vươn lên trong cuộc
sống, góp phần tham gia xây dựng đất nước phát triển.
Vì vậy quyền của người khuyết tật là một trong những quyền đặc thù riêng nên
chủ thể quyền ở đây chỉ có thể giới hạn là người khuyết tật không cá nhân nào khác
có được quyền này và không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất
cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp đặc
biệt, cho nên việc đảm bảo quyền đó giúp người khuyết tật họ có thể hòa nhập tốt hơn
và họ có thể phát huy và cố gắng trong cuộc sống hơn, vượt qua những rào cản trong
xã hội để có thể từ vươn lên trong cuộc sống và mở ra một tương lai tươi sáng hơn
cho người khuyết tật.
 Chủ thể trách nhiệm
- Nhà nước
Nhà nước là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ rào cản đối với
người khuyết tật bởi Nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật, Nhà
nước là chủ thể tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật
và cũng là chủ thể có khả năng xử lý vi phạm bằng các hình thức chế tài cụ thể đối

với các tổ chức, cá nhân không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với người khuyết tật.
Vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hóa các quy định về quyền lợi của người
khuyết tật, cũng như quy định trách nhiệm của các chủ thể khác trong xã hội chính là
điều kiện tiên quyết để giúp cho người khuyết tật có khả năng hòa nhập cộng đồng.
Sự hòa nhập với cộng đồng của người khuyết tật không phải là một cái gì trừu tượng,
không phải sự thể hiện nhất thời, mà là sự hòa hợp cụ thể, thể hiện trong từng chi tiết
của cuộc sống, thể hiện trong công việc, giao tiếp hàng ngày của người khuyết tật với
mọi người trong cuộc sống.
Đây là một chủ thể có vai trò quan trọng nhất trong việc đưa vấn đề quyền của
người khuyết tật vào thực tiễn thông qua các hoạt động của bộ máy Nhà nước. Bằng
việc ban hành các văn bản pháp luật hay đưa ra các quy định nhằm bảo vệ các quyền
của người khuyết tật để các chủ thể khác thừa nhận và tôn trọng các quyền của người
khuyết tật.
Song song đó, Nhà nước ban hành những chính sách, các biện pháp hỗ trợ người
khuyết tật, xây dựng những chương trình hành động để phát triển quyền người khuyết
GVHD: ThS. Thạch Huôn

17

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
tật và giúp đảm bảo các quyền của người khuyết tật được thực hiện, đặc biệt về quyền
giáo dục đối với NKT là quyền được Nhà nước chú trọng để tạo điều kiện để người
khuyết tật được tiếp cận giáo dục và hỗ trợ cho NKT được tiếp cận giáo dục bình
đẳng với mọi người không có sự phân biệt nào và giúp họ có thể tham gia vào cuộc
sống ngày một tốt hơn, để người khuyết tật có thể phát triển nhận thức và phát huy tài
năng của mình để góp phần xây dựng đất nước và thay đổi cách nhìn của mọi người
trong xã hội đối với NKT để giúp họ vượt qua mặc cảm của bản thân để tham gia vào

cuộc sống.
- Các tổ chức Liên chính phủ, Phi chính phủ có liên quan
Đây là chủ thể đóng góp to lớn cho sự phát triển về quyền của người khuyết tật.
Những tổ chức này từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới, qua những quá trình tồn
tại và phát triển đã khẳng định tầm ảnh hưởng lớn của mình với nhân dân trên khắp
thế giới, có tác động tích cực vào chính sách pháp luật của quốc gia và có những hỗ
trợ cho các quốc gia để thực hiện những quyền của người khuyết tật.
Với tầm ảnh hưởng của mình, các tổ chức này góp phần rất quan trọng trong việc
bảo vệ và phát triển các quyền của người khuyết tật khắp nơi trên thế giới. Những tổ
chức Liên chính phủ thường có hoạt động liên quan đến chính trị của một quốc gia,
có tác động tích cực vào pháp luật của các quốc gia nói chung và những quy định về
quyền của người khuyết tật nói riêng.
Tuy nhiên, các tổ chức Phi chính phủ lại hoạt động vì mục tiêu chính trị, được
thành lập vì mục tiêu nhất định, thường mang tính chất hỗ trợ vì sự phát triển của
cộng đồng, bảo vệ con người nên được chào đón nồng nhiệt ở hầu hết các quốc gia, vì
lẽ đó nên đây cũng là chủ thể rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển quyền của
người khuyết tật, góp phần thúc đẩy các hoạt động về quyền của người khuyết tật
được các quốc gia bảo vệ và có chính sách giúp người khuyết tật tiếp cận được những
quyền của mình.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quốc gia là thành viên của các công ước về
quyền của người khuyết tật. Đây chính là những chủ thể có liên quan trực tiếp đến
vấn đề bảo vệ và phát triển quyền của người khuyết tật. Các chủ thể này đóng vai trò
là người thực hiện việc bảo vệ các quyền của người khuyết tật và phát triển quyền,
thúc đẩy các quyền ở các nước trên thế giới nhằm bảo đảm và hỗ trợ các quyền, đặc
biệt là quyền được giáo dục, tổ chức này luôn có nhiều chính sách hỗ trợ và giúp đỡ
để NKT được tiếp cận và đảm bảo bình đẳng trong giáo dục.
Đó có thể là những cơ quan có quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện những
chính sách, công tác có liên quan đến người khuyết tật; các cá nhân, là những chủ thể
hàng ngày, hàng giờ và luôn là nhân tố quyết định trong việc bảo vệ, phát triển các
GVHD: ThS. Thạch Huôn


18

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
quyền của người khuyết tật. Các cơ quan, tổ chức, quốc gia đều thực hiện các quyền
của mình thông qua các cá nhân. Cá nhân ở đây có thể là bất kỳ ai, cũng có thể là
giữa những người khuyết tật với nhau. Cá nhân – nghĩa là tất cả mọi người đang tồn
tại, đều là những chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền này.
1.3.3. Các quyền của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật Việt Nam đều có qui định về quyền cơ bản của người khuyết tật
cũng giống như mọi người bình thường khác như: quyền về chính trị, dân sự, quyền
về kinh tế - xã hội và quyền tham gia vui chơi, giải trí, văn hóa, thể thao.
1.3.3.1. Quyền được giáo dục
Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo. Ngay từ
những ngày đầu chính quyền mới được thành lập, tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra một trong ba nhiệm vụ then chốt trong đó có “diệt giặc dốt”. Trong
tình hình hiện nay đất nước đang phát triển và từng bước trở thành một nước công
nghiệp, cho nên sự nghiệp giáo dục thường xuyên được quan tâm và phát triển.
Cho nên Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển giáo dục và bảo đảm mọi người
tiếp cận quyền được giáo dục của mình, để mọi gười có thể được bình đẳng với nha u
và giáo dục có tầm quan trọng đối với đất nước và mọi người. Quyền được giáo dục
là quyền bình đẳng của tất cả mọi người cho nền ai cũng có thể được tiếp cận giáo
dục và giáo dục phù hợp với khả năng của mình. Vì vậy, người khuyết tật cũng có
quyền được giáo dục những do có khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phần cơ thể hoặc
bị suy giảm chức năng nên việc học tập gặp nhiều khó khăn, do đó cơ hội học tập đối
với người khuyết tật thường ít hơn so với những người bình thường khác, nên việc
giúp NKT bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục là rất quan trọng.

Trong những năm qua vấn đề giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước đặc biết
quan tâm cụ thể bằng quy định trong Hiến pháp 2013: “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo
giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là b t buộc, Nhà nước không thu học
phí; t ng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. Nhà nước ưu tiên phát
triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều
kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề”.12 Từ đó,
cho thấy sự nghiệp giáo dục là rất quan trọng đối với một đất nước và mọi người vì
vậy nhà nước luôn quan tâm và đầu tư phát triển giáo dục để mọi người đều được học
12

Điều 61, Hiến pháp năm 2013.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

19

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
và nhằm nâng cao chất lượng nên giáo dục và phát triển nhân tài, từ đó thúc đẩy sự
phát triển của đất nước và có thể xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh.
Trong nhiều văn bản cũng đã khẳng định về tầm quan trọng của giáo dục đất nước
và mọi người, trong đó về quyền giáo dục cho người khuyết tật luôn được Nhà nước
quan tâm và được qui định trong các văn bản pháp luật; Trong hiến pháp qui định là
“Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”.13 Học tập là quyền của công dân song đối

với người khuyết tật cơ hội học tập của họ hạn chế hơn so với người bình thường
khác, vì vậy cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện để NKT có thể tham gia học tập và thực
hiện quyền học tập của mình.
Do đó người khuyết tật cũng được quyền tiếp cận với cơ hội học tập nhưng vì
người khuyết tật là những người khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phần cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng nên việc học tập gặp nhiều khó khăn, do đó cơ hội học tập đối
với người khuyết tật thường ít hơn so với những người bình thường khác, nên việc
bảo đảm cho NKT được tiếp cận giáo dục là rất quan trọng và cần có nhiều chính
sách hỗ trợ để họ được giáo dục giống mọi người bình thường khác.
Điều 10 Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Mọi công dân không phân biệt dân
tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh
tế đều bình đẳng về cơ hội học tập”. Nhà nước luôn tạo điều kiện để ai cũng được học
hành, Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để
những người có năng khiếu phát triển tài năng và tạo điều kiện cho con em dân tộc
thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối
tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được
hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.
Ngoài ra, quyền được giáo dục còn được qui định trong Luật người khuyết tật đó
là văn bản qui định rõ về quyền và nghĩa vụ người khuyết tật, trách nhiệm của cơ
quan tổ chức trong lĩnh vực giáo dục và đây là cơ sở pháp lí toàn diện để thực hiện
quyền được giáo dục đối với người khuyết tật.
Người khuyết tật được nhà nước chú trọng đến công tác giáo dục và có nhiều
chính sách giúp người khuyết tật tiếp cận giáo dục được thể hiện thông qua Luật
người khuyết tật đã qui định về vấn đề giáo dục ở chương IV 14: qui định : “Nhà nước
tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của
người khuyết tật. Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi
quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm
một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân
không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp
13

14

Điều 39, Hiến pháp năm 2013.
Gồm điều 27,28,29,30,31 Luật người khuyết tật năm 2010.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

20

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. Người khuyết tật
được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần
thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật
nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia”.
Các dạng tật của NKT hết sức đa dạng bào gồm: khuyết tật vận động, khuyết tật
nghe nói, khuyết tật thần kinh, tâm thân, khuyết tật trí tuệ và các khuyết tật khác.
Chính vì vậy, Để giúp người khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ của NKT lựa
chọn phương thức giáo phù hợp với sự phát triển của NKT và khả năng của mình
trong Luật cũng đã chia thành 3 phương thức giáo dục: giáo dục hòa nhập, giáo dục
bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt. Gia đình có trách nhiệm để tạo điều kiện và cơ
hội thuận lợi để NKT được học tập và phát triển theo khả năng của bản thân phù hợp
với khả năng của NKT.
Qua đó, người khuyết tật luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm để họ có thể
được học tập và tiếp cận giáo dục phù hợp bằng những chương trình, chính sách hỗ
trợ giúp NKT vượt qua những rào cản về khiếm khuyết của bản thân để được giáo
dục phù hợp với khả năng của mình và thực hiện quyền được giáo dục cũng giống
mọi người bình thường khác, giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với người khuyết

tật vì có thể giúp họ phát triển tối đa khả năng của bản thân và nâng cao hiếu biết về
thế giới xung quanh để từ đó họ được sống với chân giá trị của mình và có ích cho xã
hội, giúp người khuyết tật nhanh chống hòa nhập vào cuộc sống và giáo dục giúp
người khuyết tật được vui chơi, giải trí với bạn bè điều đó tạo cho người khuyết tật
cảm thấy cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc hơn và ngày càng gần gủi với mọi người trong
cuộc sống.
Vì vậy, việc bảo đảm cho NKT tiếp cận giáo dục là rất quan trọng để họ có thể
được học tập, vui chơi, nâng cao nhận thức của mình và thông qua giáo dục giúp
người khuyết tật sau này có thể học các nghề phù hợp với năng lực của mình để sau
này có thể làm việc để có thu nhập nuôi bản thân, gia đình và họ có thể đóng góp một
phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh.
1.3.3.2. Quyền được chăm sóc sức khỏe thường xuyên
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ bản để con
người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy việc chăm sóc sức khỏe là rất quan
trọng đối với mọi người. Người khuyết tật có quyền hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ đạt tiêu chuẩn cao nhất mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Việc
hưởng các dịch vụ y tế đối với người khuyết tật là thiết yếu nhằm phục hồi chức
năng, sức khoẻ và khả năng lao động.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

21

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Khoản 1,Điều 38 Hiến pháp 2013 Quy định: “Mọi người có quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực
hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”. Nhà nước hàng năm luôn

dành một khoản ngân sách không nhỏ để đầu tư cho lĩnh vực y tế, luôn tạo điều kiện
tốt nhất để nhân dân được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Nhà nước đã quan tâm cho người khuyết tật về chăm sóc sức khỏe thường xuyên
thông qua Luật người khuyết tật qui định tại Chương III: chăm sóc sức khỏe, cho thấy
người khuyết tật luôn được Nhà nước tạo điều kiện được chăm sóc sức khỏe tốt nhất
và Người khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp
luật về bảo hiểm y tế.
Như vậy, người khuyết tật luôn được quan tâm giúp đỡ và được Nhà nước hỗ trợ
để họ được tiếp cận các dịch vụ y tế phù hợp, ngoài ra họ được ưu tiên khám bệnh so
với người bình thường khác và hưởng các chính sách về ưu đãi về bảo hiểm y tế để
được chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Có sức khỏe tốt giúp người khuyết tật tiếp cận các
quyền của mình, nhất là giúp cho NKT được thuận lợi tiếp cận quyền giáo dục để
nâng cao nhận thức và tham gia vào các hoạt động trong cuộc sống được thuận lợi
hơn, tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí được thuận lợi để NKT cảm nhận được
sự vui vẻ trong cuộc sống quên những điểm khuyết tật của bản thân.
1.3.4. Tầm quan trọng của quyền được giáo dục ở Việt Nam
Một đất nước muốn phát triển vững mạnh vấn đề đầu tiên là phải phát triển nền
giáo dục. Vì giáo dục luôn là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia và là cơ
sở tạo ra những con người có tài năng, có trí tuệ, nguồn nhân lực quyết định đến sự
thịnh suy, sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một đất nước. Đặc biệt
hơn là trong thời đại của khoa học, công nghệ hiện nay đòi hỏi phải đào tạo nhiều
nhân tài, nhất là đối với Việt Nam ta muốn đất nước phát triển trên đà công nghiệp
hóa - hiện đại hóa trước tiên phải quan tâm tới giáo dục và đặc biệt quan tâm giáo dục
cho người khuyết tật.
Giáo dục đóng vai trò quyết định đối với người khuyết tật, Giáo dục là con đường
giúp họ phát triển tối đa khả năng cũng như tiềm năng cá nhân, để từ đó họ được sống
với chân giá trị của mình và có ích cho xã hội. Quyền được giáo dục phải được dựa
trên cơ sở bình đẳng cơ hội, không phân biệt đối xử thông qua giáo dục hòa nhập thân
thiện ở các cấp học, trình độ đào tạo và học tập suốt đời.
Tuy nhiên, người khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn chưa được tiếp cận giáo dục nhất

là ở vùng nông thôn, vùng miền núi và các vùng kinh tế khó khăn do thiếu giáo viên
dạy và thiếu các thiết bị, đồ dùng dạy học, tài liệu về ngôn ngữ ký hiệu cho người
khiếm thính đã làm cho một phần người khuyết tật găp khó khăn khi đến trường.
GVHD: ThS. Thạch Huôn

22

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước không ngừng đưa ra những chính sách,
chương trình và các biện pháp nhằm đảm bảo một nền giáo dục hòa nhập có chất
lượng, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua những rào cản mà họ đang phải đối mặt trong
việc tiếp cận giáo dục và quyền được giáo dục, từ đó giúp người khuyết tật có thể
được đến trường học tập như:
- Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối
với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn
học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp
ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét
cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập.
- Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng
trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký
hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.
Quyền được giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi người nói chung và
đối với người khuyết tật nói riêng là giáo dục giúp cho người khuyết tật phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người có ích
co xã hội, giáo dục tạo điều kiện để những người khuyết tật có năng khiếu phát triển
tài năng của mình để họ có thể góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển,

ngoài ra từ giáo dục giúp cho người khuyết tật có thể hòa nhập vào đời sống tốt hơn
và không mặt cảm với mọi người xung quanh từ đó họ có thể học nghề để có thể làm
việc để tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của bản
thân.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước không ngừng quan tâm và đưa ra các chính sách,
chương trình hỗ trợ đối với người khuyết tật trong việc tiếp cận giáo dục nhằm tạo
điều kiện cho người khuyết tật được học tâp và nâng cao trình độ học vấn để họ phát
triển và có điều kiện tốt hơn thực hiện quyền được giáo dục của mình; bảo đảm được
sự bình đẳng cho người khuyết tật trong tham gia giáo dục giống người bình thường
khác. Các cơ sở giáo dục không ngừng được đầu tư cả về cơ sở hạ tầng và các thiết bị
dạy học, các giáo viên được đào tạo để giúp người khuyết tật được giáo dục tốt hơn.
Như vậy, việc bảo đảm cho người khuyết tật giáo dục giúp cho người khuyết tật
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, phát triển tài năng của mình để họ
có thể góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển và thông qua giáo dục giúp
cho NKT tiếp cận các ngành nghề phù hợp để sau này có thể làm việc tạo ra thu nhập
để chăm lo cho đời sống cho gia đình và bản thân; giáo dục giúp họ có thể phục hồi
GVHD: ThS. Thạch Huôn

23

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
chức năng, hòa nhập cộng đồng. Giáo dục có tầm quan trọng đối với đất nước có thể
phát triển vững mạnh và xây dựng đất nước giàu đẹp. Vì thông qua giáo dục sẽ tạo ra
những con người có tài năng, có trí tuệ và có phẩm chất đạo đức tốt để giúp xây dựng
đất nước phát triển.


GVHD: ThS. Thạch Huôn

24

SVTH: Chau Sóc Siên


Quyền của ngƣời khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam
CHƢƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT
TẬT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC – THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ
2.1. Quyền của ngƣời khuyết tật trong hệ thống pháp luật quốc tế
2.1.1. Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 (UDHR)
Là một bản tuyên ngôn được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10
tháng 12 năm 1948, tuyên ngôn đã qui định những quyền cơ bản vốn có của mọi
người và mọi người được hưởng tất cả các quyền tự do mà không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân
tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.
Ngoài ra, Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người này là thước đo
chung cho tất cả các quốc gia và các dân tộc, cho cả mọi cá nhân và tổ chức xã hội,
đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của mình mà, trên cơ sở luôn ghi nhớ bản Tuyên
ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người
thông qua truyền bá và giáo dục; cũng như thúc đẩy sự thừa nhận và tuân thủ chung
và hữu hiệu các quyền đó không chỉ với người dân nước mình mà với cả các dân tộc
ở các lãnh thổ thuộc quyền quản thác của nước mình, thông qua các biện pháp tích
cực, kể cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Liên quan đến quyền được giáo dục của người khuyết tật, UDRH đã có nội dung:
“Mọi người đều có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc
tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là b t buộc. Giáo dục kỹ thuật và
dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo

nguyên t c công bằng cho bất cứ ai có khả năng”.15 Như vậy, khoản này đã thể hiện
rõ, mọi người nói chung và người khuyết tật nói riêng đều có quyền được học tập, ít
ra cũng phải học hết ở bậc tiểu học và trung học cơ sở và sẽ được miễn phí. Bên cạnh
đó, mọi người nói chung và người khuyết tật nói riêng đều được bình đẳng trong giáo
dục và đối với bất kỳ ai có khả năng học cao hơn sẽ được quan tâm giúp đỡ khi khó
khăn về hoàn cảnh gia đình ảnh hưởng đến việc học tập.
“Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc đẩy
sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dục cũng phải nhằm
tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các
nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Liên
Hợp Quốc về duy trì hòa bình”. Muốn một đất nước phát triển vững mạnh về mọi
mặt, Giáo dục phải đi trước một bước, cần vận dụng và phát huy kinh nghiệm đầu tư
một cách khoa học, thỏa đáng, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục mọi người và
15

Điều 26, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR).

GVHD: ThS. Thạch Huôn

25

SVTH: Chau Sóc Siên


×