Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

đề tài: hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.8 KB, 64 trang )

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN TỐT NGHỆP
ĐỀ TÀI: HOÀN

THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG

SÁP NHẬP, HỢP NHẤT VÀ MUA LẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN

Giáo viên hướng dẫn:

SVTH: Ngô Văn Huấn

Phạm Mai Phương

MSSV: 1110254
Lớp: Luật Thương Mại 2
Khóa: 37

GVHD: Phạm Mai Phưong

1

Cần thơ, năm 2014



SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG


………………………………………………………………………………….……
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
Cần Thơ, ngày…tháng…năm
Hội đồng luận văn


GVHD: Phạm Mai Phưong

2

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sáp nhập, hợp nhất và mua lại là những hoạt động tồn tại gắn liền với hoạt động
kinh doanh trong nền kinh tế thế giới từ thế kỷ XXI cho đến nay. Từ sau khi gia nhập
WTO, đặc biệt là trong giai đoạn 2003 – 2013 Việt Nam đã chứng kiến một quá trình
hình thành và phát triển mạnh mẽ của hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp tại
Việt Nam. Trong giai đoạn này, làn sóng sáp nhập, hợp nhất và mua lại diễn ra dưới
những hình thức đa dạng và quy mô lớn. Mục tiêu các hoạt động sáp nhập, hợp nhất và
mua lại của các doanh nghiệp có thể là để tối đa hóa lợi nhuận, đa dạng hóa và giảm rủi
ro cho chủ sở hữu, hoặc gia tăng các lợi ích cho các nhà quản trị, cũng như có thể xuất
phát từ mục tiêu của chính phủ nhằm tái cơ cấu lại hệ thống trong quá trình cạnh tranh
với đối thủ. Thực tế hoạt động hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại này của các
doanh nghiệp tại Việt Nam cho thấy Việt Nam đang trở thành điểm thu hút đầu tư hấp
dẫn và được trông đợi với một thị trường mua bán và sáp nhập đang ngày càng hoàn
thiện và phát triển. Chính vì thế, hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại ở Việt Nam
ngày càng trở nên hấp dẫn và hứa hẹn trong những năm 2014 – 2018 được chờ đợi với
“Làn sóng mua bán và sáp nhập thứ hai”1 như một xu hướng tất yếu, cùng với sự hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và sự mở cửa thị trường theo cam
kết gia nhập WTO của Việt Nam, hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại sẽ ngày
càng sôi động. Đây được nhận định là một xu hướng tốt lành cho nền kinh tế nước ta.

Tuy nhiên, với điều kiện, thị trường này phải hoạt động lành mạnh theo những quy
định của luật pháp.
Thời gian qua, dù khung pháp lý của thị trường sáp nhập, hợp nhất và mua lại đã
được cải thiện, Luật doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư đều có những điều

1

Phần I - Làn sóng M&A thứ hai, Báo cáo hoạt động M&A Việt Nam 2013 và triển vọng 2014- 2018, trang 5.

GVHD: Phạm Mai Phưong

2

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

khoản quy định về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại được sửa đổi nhưng vẫn
chưa hoàn thiện. Nguyên nhân là do hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty
cổ phần Việt Nam còn khá phức tạp, bộc lộ nhiều hạn chế do pháp luật chưa có khung
pháp lý quy định cụ thể, rõ ràng về hoat động này và còn chồng chéo lên nhau… Cũng
chính vì nguyên nhân này nên người viết đã chọn đề tài “ Hoàn thiện pháp luật về
sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích của luận văn
Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ
phần” được viết với mục tiêu:
- Thứ nhất, giúp người viết có thể hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật về

hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần ở Việt Nam.
- Thứ hai, trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu những quy định của pháp luật về
sáp nhập, hợp nhất và mua lại ngân hàng hiện hành, người viết đưa ra những nhận xét
và đồng thời đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động sáp
nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần và gợi ý một số phương hướng đối với các
nhà làm luật, các cơ quan quản lý nhằm mục đích mong muốn các chủ thể này nhanh
chóng hoàn thiện hơn các quy định trong hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại. Từ
đó, các doanh nghiệp tham gia vào việc mua bán, sáp nhập có thể hạn chế thấp nhất
những vướn mắc, khó khăn khi tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên quan đến
sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần tạo cơ sở để phát huy nội lực của các
doanh nghiệp tham gia có thể vững vàng, tự tin, đạt được nhiều kết quả tốt trong lĩnh
vực này trước thời kỳ hội nhập, góp phần giúp cho thị trường tài chính Việt Nam ngày
càng phát triển hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
GVHD: Phạm Mai Phưong

3

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, người viết chỉ tập trung nghiên cứu
hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần trên cơ sở những quy định
của pháp luật Viêt Nam hiện hành. Bao gồm những đối tượng là doanh nghiệp, tổ chức
có thể tham gia vào hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần và các
vấn đề về lịch sử ra đời của hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần,
khái niệm về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần, tìm hiểu quy
định của pháp luật về nguyên tắc, phương thức thủ tục của hoạt động sáp nhập, hợp

nhất và mua lại công ty cổ phần, nhận xét quy định của pháp luật về hoạt động sáp
nhập, hợp nhất và mua lại cổ phần và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu của mình, người viết sử dụng phương pháp phân tích
luật viết kết hợp với so sánh, đối chiếu, tổng hợp và tham khảo nhiều nền tảng kiến
thức luật học, kinh tế học, tài chính, ngân hàng..., để làm nền tảng cho hệ thống lý
luận, những nội dung cơ bản của pháp luật về sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ
phần, cùng với thực trạng và các giải pháp cho vấn đề này.
5. Bố cục của luận văn
Bố cục đề tài được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty
cổ phần
- Chương 2: Quy định của pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua
lại công ty cổ phần.
- Chương 3: Thực trạng và một số đề xuất định hướng cho hoạt động sáp
nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần.

GVHD: Phạm Mai Phưong

4

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng nhận thấy những hạn chế về mặt kiến thức nên
trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu không tránh được những sai lầm thiếu xót. Người
viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báo từ quý thầy cô và các bạn để đề tài

được tốt hơn.

GVHD: Phạm Mai Phưong

5

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP, HỢP NHẤT VÀ MUA
LẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
Trong chương này, người viết tập trung nghiên cứu về những vấn đề cơ bản của
hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần, để từ đó làm cơ sở cho việc
tiếp tục đi tìm hiểu các chương sau. Bao gồm các vấn đề về lịch sự ra đời, khái niệm
của hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần, phân biệt hoạt động sáp
nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần cũng như tìm hiểu những lợi ích và rủi ro
khi tham gia vào hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần. Trong quá
trình tìm hiểu, người viết chú trọng tập trung vào việc làm rõ bản chất của hoạt động
này dưới góc độ pháp lý lẫn góc độ kinh tế.
1.1. Khái niệm sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thời gian
gần đây ở Việt Nam. Thuật ngữ này được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Mergers &
Acquisitions”2, viết tắt là M&A, thể hiện hoạt động hai hay nhiều doanh nghiệp kết
hợp lại với nhau nhằm đạt được những mục tiêu đã được xác định trước trong chiến
lược kinh doanh của mình. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp nên hoạt
động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần được diễn ra rất đa dạng, dưới
nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Nó có bản chất như hoạt động sáp nhập, hợp

nhất và mua lại doanh nghiệp vì bản thân của công ty cổ phần cũng là một loại hình
doanh nghiệp. Tuy vậy, khái niệm về sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần
vẫn chưa có quy định cụ thể, thống nhất mà chỉ quy định ở cấp độ khái quát - doanh
nghiệp nói chung và được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
cụ thể như sau:

2

Nguồn: />
GVHD: Phạm Mai Phưong

6

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định một số hình thức tổ chức lại doanh nghiệp
tại chương VII về tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp,trong đó có sáp nhập và
hợp nhất doanh nghiệp được lần lượt quy định tại điều 107 và điều 108 của chương này
nêu rõ:
Hợp nhất doanh nghiệp là việc “Hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty
bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp
nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất”3. Sáp nhập là việc “một
hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một
công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của công ty bị sáp nhập”4. Đây là bước đệm ban đầu cho sự xuất hiện cho của hợp

nhất và sáp nhập ở nước ta.
- Luật Doanh nghiệp 2005 được sửa đổi bổ sung 2009 xem xét sáp nhập doanh
nghiệp như hình thức tổ chức lại doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tự thân của doanh
nghiệp: “Một hoặc một số công ty cùng loại (công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào
một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của công ty bị sáp nhập”5. Điều 152 xem xét hợp nhất doanh nghiệp là việc: “Hai
hoặc một số công ty cùng loại (công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty
mới (công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp
nhất” 6. Trong Luật Doanh nghiệp không đề cập đến mua bán doanh nghiệp nói chung

3

Khoản 1 Điều 107 Luật doanh nghiệp 1999

4

Khoản 1 Điều 108 Luật doanh nghiệp 1999

5

Điều 153 Luật doanh nghiệp 2005

6

Điều 152 Luật doanh nghiệp 2005.

GVHD: Phạm Mai Phưong


7

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

mà chỉ có nói đến việc bán doanh nghiệp tư nhân tại Điều 145 “Chủ doanh nghiệp tư
nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác”7.
- Luật Cạnh tranh ngày 3 tháng 12 năm 2004 xem xét: Sáp nhập doanh nghiệp là
việc “một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập” 8. Mua lại doanh nghiệp là việc “một doanh nghiệp mua
toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại” 9. Bên đó Luật Cạnh tranh cũng
nói đến hợp nhất doanh nghiệp là việc “hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp
mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”.10
- Luật Đầu tư 2005 lần đầu tiên quy định “Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua
lại doanh nghiệp” như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp. Đầu tư trực tiếp
được thực hiện dưới các hình thức đóng góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc
để tham gia quản lý hoạt động đầu tư, mua toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang
hoạt động, mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập doanh nghiệp.11
- Trước đây, Điều 31 Nghị định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị
định 24/2000 ngày 31-7-2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam quy định: Sáp nhập doanh nghiệp là việc “một hay một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp bị sáp nhập) chuyển toàn bộ vốn bằng tiền và tài
sản của mình để sáp nhập vào một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác
(doanh nghiệp nhận sáp nhập)”. Hợp nhất doanh nghiệp “là việc hai hay một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp bị hợp nhất) mang toàn bộ vốn bằng


7

Điều 145 Luật doanh nghiệp 2005.

8

Khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh 2004.

9

Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh 2004.

10

Khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh 2004.

11

Điều 21 Luật Đầu tư 2005.

GVHD: Phạm Mai Phưong

8

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần


tiền và tài sản của mình để hợp nhất với nhau chuyển thành một doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài mới (doanh nghiệp hợp nhất)”.12
Ngoài ra khái niệm về sáp nhập, hợp nhất và mua lại cũng được Ngân hàng Nhà
nước quy định tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN Quy định việc sáp nhập, hợp nhất,
mua lại tổ chức tín dụng, xem xét sáp nhập tổ chức tính dụng là hình thức “một hoặc
một số tổ chức tín dụng (tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín
dụng khác (tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập”. 13
Nhìn chung, những lĩnh vực khác nhau đều có các khái niệm khác nhau về vấn đề
sáp nhập, hợp nhất và mua lại, điều này dẫn đến việc không đồng nhất trong khái niệm
dẫn đến áp dụng thực tiễn gặp nhiều khó khăn và nhiều hạn chế nhất định.
1.2. Phân biệt sáp nhập, hợp nhất và mua lại
1.2.1. Phân biệt sáp nhập và mua lại
Thực chất, sáp nhập và mua lại là việc công ty này mua phần lớn hoặc toàn bộ cổ
phần của công ty khác, hoặc hai công ty gộp chung cổ phần để trở thành một công ty
lớn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, sáp nhập và mua lại được xem là một hình
thức tổ chức lại doanh nghiệp dưới góc độ của Luật Doanh nghiệp; là hành vi tập trung
kinh tế dưới góc độ của Luật Cạnh tranh và là một hình thức đầu tư theo quy định của
Luật Đầu tư.
Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành và nhận định của một số chuyên gia
trong hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp thì hoạt động sáp nhập và mua lại
công ty cổ phần có một số điểm khác biệt sau:

12

Điều 31 Nghị định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định 24/2000 ngày 31-7-2000 quy định chi

tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
13


Khoản 1 Điều 4 Thông tư 04/2010/TT-NHNN

GVHD: Phạm Mai Phưong

9

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Thứ nhất, về hình thức thực hiện: Đối với sáp nhập, toàn bộ tài sản của công ty cổ
phần bị sáp nhập sẽ được chuyển cho công ty cổ phần nhận sáp nhập. Mặt khác, trong
hoạt động mua lại, không nhất thiết toàn bộ mà đôi khi chỉ là một bộ phận tài sản của
công ty cổ phần bị mua lại phải gộp chung với tài sản của công ty cổ phần mua lại.
Điều này phụ thuộc vào quy mô của thương vụ mua lại.
Thứ hai, về bản chất của giao dịch: Sáp nhập có thể hiểu theo cách đơn giản là
việc hai hay nhiều công ty cổ phần (thường có cùng quy mô, tính chất) hợp tác, đồng
thuận liên kết trở thành một công ty cổ phần nhằm mang lại lợi ích chung lớn nhất có
thể cho các bên liên quan. Một vụ sáp nhập mang tính chất công bằng như vậy còn
được gọi là sáp nhập cân bằng.
Tuy nhiên trên thực tế, đa số các thương vụ thường rất khó đạt được sự đồng
thuận từ các bên tham gia. Bên nhận sáp nhập thường sẽ dùng nhiều cách để “thâu
tóm” một hoặc các bên “yếu thế” hơn. Một khi tính “hữu hảo” không tồn tại, tức đối
tượng bị mua lại không muốn, thậm chí phải thực hiện các kỹ thuật tài chính để chống
lại việc bị sáp nhập, thì hoạt động này hoàn toàn mang hình thức của một thương vụ
mua lại hơn là sáp nhập.
Một thương vụ sáp nhập hay mua bán phụ thuộc vào ý chí, tầm nhìn và cách đánh
giá của nhà lãnh đạo, chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên trên thực tế, có rất nhiều trường

hợp bên bị mua lại và bên mua lại sẽ đàm phán, thỏa thuận với nhau để truyền tải thông
tin ra bên ngoài rằng “hoạt động này là sáp nhập ngang bằng và được diễn ra một cách
thân thiện giữa hai hoặc nhiều bên”, mặc dù về bản chất đây là họat động mua bán.
Thứ ba, về hệ quả pháp lý: Đối với giao dịch sáp nhập, sau khi đăng ký kinh
doanh, công ty cổ phần bị sáp nhập sẽ hoàn toàn chấm dứt tồn tại; trong khi công ty cổ
phần nhận sáp nhập sẽ được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, cũng như chịu trách
nhiệm về những khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty bị sáp nhập. Trong khi đó, đối với giao dịch mua lại thì sau khi hợp đồng
có hiệu lực, công ty cổ phần bị mua lại sẽ chấm dứt hoạt động một phần đối với phần
bị mua lại; công ty cổ phần mua lại sẽ được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu

GVHD: Phạm Mai Phưong

10

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

trách nhiệm về những khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản
khác của phần công ty bị mua lại.
Như vậy, tùy thuộc vào hình thức thực hiện, bản chất giao dịch, hệ quả pháp lý,
và một số yếu tố khác mà hoạt động này được coi là mua bán hay sáp nhập hoàn toàn
phụ thuộc vào việc nó được diễn ra thân thiện giữa hai bên hay bị ép buộc, thâu tóm
nhau.
Tóm lại, mục đích cuối cùng của hoạt động sáp nhập và mua lại công ty cổ phần
không đơn thuần là đầu tư tài chính, sở hữu một phần vốn góp hay cổ phần như các nhà
đầu tư nhỏ lẻ mà còn là giành quyền kiểm soát ở mức độ nhất định.


1.2.2. Phân biệt sáp nhập và hợp nhất
Hoạt động hợp nhất và sáp nhập tuy cùng là cách thức tổ chức lại doanh nghiệp,
điều kiện để thực hiện hai cách thức này là doanh nghiệp sáp nhập hay hợp nhất đều
phải cùng một loại hình và cùng liên đới chịu trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ
của chủ thể bị hợp nhất, bị sáp nhập. Tuy khi sáp nhập hay hợp nhất xảy ra đều chấm
dứt hoạt động kinh doanh của một hay cả hai bên chủ thể tham gia nhưng hai hình thức
này có một số khác biệt sau:
Trong sáp nhập, chỉ có một bên chủ thể chấm dứt hoạt động (bên bị sáp nhập) và
bên sáp nhập luôn nắm ưu thế, có tiếng nói mạnh hơn trong những quyết định chung.
Trong hợp nhất, hai hay nhiều chủ thể tham gia sẽ hợp lại với nhau thành một chủ
thể mới, các chủ thể tham gia hoạt động này sẽ chấm dứt toàn bộ hoạt động (không còn
tư cách pháp nhân). Các quyền và nghĩa vụ sẽ chuyển giao cho chủ thể mới (pháp nhân
mới) sau hợp nhất.

GVHD: Phạm Mai Phưong

11

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

1.3. Phân loại các hình thức sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần
1.3.1. Phân loại dựa trên mức độ liên quan giữa các chủ thể sáp nhập và mua lại
1.3.1.1. Sáp nhập và mua lại theo chiều ngang
Hình thức sáp nhập và mua lại theo chiều ngang là hình thức diễn ra đối với hai
doanh nghiệp, hai ngân hàng hay cụ thể hơn là công ty cổ phần cùng cạnh tranh trực
tiếp, chia sẻ cùng dòng sản phẩm và thị trường. Bằng việc sáp nhập hoặc mua lại theo
chiều ngang thì các chủ thể sáp nhập và bị sáp nhập sẽ có những ưu thế sau:

Về nguồn nhân lực: khi tiến hành sáp nhập,bên sáp nhập có thể tận dụng nguồn
nhân lực sẵn có và có kinh nghiệm của bên bị sáp nhập mà không cần phải tiến hành
tuyển dụng hoặc tuyển dụng rất ít để đáp ứng nhu cầu nhân lực. Vì là hai doanh nghiệp
trên cùng một lĩnh vực kinh doanh nên sự khác biệt của tính chất công việc không đáng
kể nên không cần phải tốn kém thêm chi phí đào tạo mà vẫn đáp ứng tốt yêu cầu của
công việc.
Về cơ sở vật chất: sau sáp nhập hai bên chủ thể có thể sử dung cơ sở hạ tầng,
những thiết bị, máy móc, hệ thống công nghệ kỹ thuật để hỗ trợ,phục vụ cho sản xuất
kinh doanh. Từ đó, chi phí cho cơ sở vật chất để sản xuất được hạn chế ở mức thấp
nhất có thể.
Ngoài ra, sáp nhập ngang là một cách gián tiếp loại bỏ đi một đối thủ cùng cạnh
tranh, gia tăng thêm sức mạnh, uy tính và tầm ảnh hưởng cho bản thân doanh nghiệp,
mở rộng thêm thị trường kinh doanh cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Tại Đại Hội Đồng cổ đông thường niên 2014 ngày 27/06, Công ty cổ phần
Đường Biên Hòa (gọi tắt là BHS) đã thông qua phương án nhận sáp nhập Công ty cổ
phần Đường Ninh Hòa (viết tắt là NHS)14. Theo đó Công ty cổ phần Đường Biên Hòa
sẽ trở thành chủ sở hữu duy nhất 100% vốn điều lệ của Công ty cổ phần Đường Ninh
Hòa.
14

Nguồn: />
GVHD: Phạm Mai Phưong

12

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần


1.3.1.2. Sáp nhập và mua lại theo chiều dọc
Diễn ra đối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng (dịch vụ, hàng hóa,...),
dẫn tới sự mở rộng về phía trước hoặc phía sau của công ty sáp nhập, mua lại trong
chuỗi cung ứng. Với hình thức sáp nhập hay mua lại theo chiều dọc các công ty cổ
phần sẽ có lợi ích rất lớn trong việc tạo mối quan hệ mật thiết giữa công ty với hệ
thống cung cấp hoặc phân phối sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng. Lợi ích lớn hơn
nữa của hình thức này là công ty có thể kiểm soát được chất lượng nguồn hàng và đầu
ra của hàng hóa, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn hàng và đầu ra của đối thủ
cạnh tranh.
1.3.1.3. Sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ hợp
Sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ hợp hay còn gọi là sáp nhập, hợp nhất và mua
lại theo kiểu tập đoàn. Trong trường hợp này, hai công ty không cùng lĩnh vực kinh
doanh nhưng mong muốn đa dạng hóa lĩnh vực trong hoạt động của mình kéo theo đa
dạng hóa ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Những công ty cổ phần theo đuổi chiến
lược đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ có thể lựa chọn liên kết thành hình thức tập đoàn.
Nói cách khác, nếu một cuộc sáp nhập hay mua lại không rơi vào hai hình thức sáp
nhập,mua lại ngang hay sáp nhập, mua lại dọc thì nó sẽ thuộc hình thức hoặc sáp nhập
hoặc mua lại tổ hợp hay liên kết kiểu tập đoàn. (Ví dụ: Tổng Công ty Tài chính Dầu
khí Việt Nam (PVF) hợp nhất với Western Bank). 15
1.3.2. Phân loại dựa trên phạm vi lãnh thổ
Sáp nhập và mua lại trong nước: Đây là những thương vụ sáp nhập, mua bán diễn
ra giữa các công ty ở trong cùng lãnh thổ một quốc gia. Có thể hiểu đây là việc sáp
nhập và mua lại giữa chủ sở hữu của các công ty cổ phần cùng là người cư trú trên một
lãnh thổ. Việc sáp nhập và mua lại giữa các công ty cổ phần trên phạm vi nội địa diễn
ra rất mạnh mẽ khi có sự tái cơ cấu kinh tế trên thị trường nội địa nhằm tăng tính cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nước trong bối cảnh hội nhập.
15

Giả định hợp nhất PVF - Western Bank, />
western-bank.html


GVHD: Phạm Mai Phưong

13

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Sáp nhập và mua lại xuyên biên: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp phổ biến nhất
hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Sáp nhập, mua lại xuyên biên là hoạt
động được thực hiện giữa các doanh nghiệp, các công ty cổ phần thuộc hai quốc gia
khác nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể thực hiện “đầu tư theo hình thức góp vốn,
mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ”.16
Điển hình như thương vụ Tập đoàn xi măng Siam (SCG) của Thái Lan đã ký thỏa
thuận mua 85% cổ phần Công ty cổ phần Prime Group (Việt Nam) vào cuối năm
2012.17
1.3.3. Phân loại dựa trên chiến lược mua lại
Chiến lược mua lại có thiện chí: Là hoạt động mà được ban quản lý của công ty
bị mua lại đồng ý và ủng hộ trên cơ sở thương lượng của hai bên. Bên đi mua đặt vấn
đề mua lại trực tiếp với ban giám đốc và hội đồng quản trị của công ty mục tiêu và việc
mua lại sẽ được thực hiện thông qua quá trình thương lượng và thống nhất giữa các bên
tham gia. Thương vụ này xảy ra khi có lợi ích của hai chủ thể.
Chiến lược mua lại mang tính thù nghịch: Chiến lược này với ý đồ dần thôn tính
công ty bị mua lại hay công ty mục tiêu cần mua lại mà bất chấp sự đồng ý của công ty
bị mua lại hay không. Công ty đi mua có thể dần dần thực hiện bằng nhiều phương
cách khác nhau như lôi kéo cổ đông bất mãn, mua gom dần cổ phiếu của công ty mục
tiêu trên thị trường chứng khoán. Hệ quả của chiến lược là ngày càng đạt được mục
tiêu sở hữu tối đa tỉ lệ cổ phần của công ty mục tiêu làm cho các cổ đông của công ty bị

mua lại sẽ hoàn toàn bị mất quyền kiểm soát công ty. Từ đó nắm quyền sở hữu công ty
mục tiêu mà kết quả của chiến lược thù nghịch muốn mang lại. (Ví dụ: Trường hợp
Công ty cổ phần hàng tiêu dùng Masan thâu tóm thành công Công ty cổ phần Vinacafe
Biên Hòa (VCF) bằng cách thuyết phục nhóm cổ đông của VCF đồng ý chuyển
nhượng lại cổ phần cho Masan mặc dù cũng mất khá nhiều thời gian, nhưng vẫn thuận

16

Điều 10 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP

17

Nguồn: />
GVHD: Phạm Mai Phưong

14

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

lợi. Bên cạnh đó Masan cũng âm thầm thu gom cổ phiếu của VCF trên sàn. Cho đến
ngày 18/10/2011 MSN tuyên bố đã chính thức trở thành cổ đông của VCF sau khi nắm
giữ 50,11% vốn điều lệ của VCF).18
1.4. Các phương thức thực hiện sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần
Các phương thức để sáp nhập, hợp nhất và mua lại được thực hiện hầu hết trong
lĩnh vực ngân hàng và các doanh nghiệp. Phần lớn những hoạt động sáp nhập, hợp nhất
và mua lại được thực hiện nhiều ở công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần
nhưng chủ yếu là các công ty công ty cổ phần. Nó rất đa dạng và mang tính chuyên

môn tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế của các
doanh nghiệp liên quan trong từng trường hợp cụ thể. Các giao dịch sáp nhập, hợp nhất
và mua lại không phải là những hoạt động đơn thuần của các công ty cổ phần với nhau
hoặc của các công ty cổ phần đối với các loại hình doanh nghiệp khác mà là những
hoạt động mang mục đích chiến lược với nhiều mục đích, ý đồ kéo theo hàng loạt các
hệ lụy, vấn đề về tư cách pháp nhân, về tài chính, thương hiệu, thị phần, thị trường,
kiểm soát tập trung kinh tế, kiểm soát giao dịch cổ phiếu…Vì mức độ đa dạng và tính
chuyên môn cao nên có thể chia thành các phương thức giao dịch sau:
1.4.1. Chào thầu
Chào thầu là hình thức giao dịch của một cá nhân, một số công ty hoặc một nhóm
nhà đầu tư có ý định mua toàn bộ công ty mục tiêu với đề nghị cổ đông hiện hữu của
công ty đó bán lại cổ phần của họ với một mức giá cao hơn thị trường rất nhiều với
mức giá chào thầu đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền sở hữu cũng
như quản lý công ty của mình.
1. 18 Con đường thâu tóm Vinacafé Biên Hòa, />
GVHD: Phạm Mai Phưong

15

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Hình thức đặt giá chào thầu này thường được áp dụng trong các vụ thôn tính
mang tính thù địch đối thủ cạnh tranh. Công ty bị mua thường là công ty yếu hơn. Tuy
vậy, vẫn có một số trường hợp một công ty nhỏ thâu tóm được một công ty lớn hơn, đó
là khi họ huy động được nguồn tài chính khổng lồ từ bên ngoài để thực hiện được vụ
thôn tính. Các công ty thực hiện thôn tính theo hình thức này thường huy động nguồn
tiền mặt bằng cách như: sử dụng thặng dư vốn, huy động vốn từ cổ đông hiện hữu,

thông qua phát hành cổ phiếu mới hoặc trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành trái phiếu
chuyển đổi, vay từ các tổ chức tín dụng.
Điểm đáng chú ý trong các thương vụ chào thầu là ban quản trị công ty bị mua
không còn quyền định đoạt, nguyên nhân là do công ty đi mua có sự trao đổi trực tiếp
với cổ đông của công ty bị mua dẫn đến việc ban quản trị bị mất quyền quản lý công
ty vì lúc này nắm không đủ tỷ lệ phần trăm số lượng cổ phần để được điều hành công
ty. Thông thường, ban quản trị và các vị trí quản lý chủ chốt của công ty bị mua sẽ bị
thay thế, mặc dù thương hiệu và cơ cấu tổ chức của nó vẫn có thể được giữ lại mà
không nhất thiết bị sáp nhập hoàn toàn vào công ty thôn tính. Để chống lại vụ sáp nhập
bất lợi cho mình, ban quản trị công ty bị mua có thể thực hiện một số biện pháp nhằm
chống lại sự thôn tính này như tìm kiếm sự trợ giúp hoặc bảo lãnh tài chính mạnh hơn,
để có thể đưa ra mức giá chào thầu cổ phần cao hơn nữa cổ phần của các cổ đông đã
bán đi cổ phần cho công ty đi mua.
1.4.2. Thương lượng tự nguyện
Thương lượng tự nguyện với ban quản trị và điều hành là hình thức phổ biến
trong các vụ sáp nhập, mua lại có thiện chí. Khi hai công ty đều nhận thấy lợi
ích chung tiềm tàng trong thương vụ sáp nhập và những điểm tương đồng giữa hai
công ty (về văn hóa doanh nghiệp, hoặc thị phần, sản phẩm…), người trung gian sẽ xúc
tiến để ban quản trị của hai công ty ngồi lại và thương thảo cho một hợp đồng sáp
nhập. Có không ít trường hợp, chủ sở hữu các công ty nhỏ, thua lỗ hoặc yếu thế trong
cuộc cạnh tranh tìm cách rút lui bằng cách bán lại, hoặc tự tìm đến các công ty lớn hơn
để đề nghị được sáp nhập nhằm lật ngược tình thế của công ty mình trên thị trường.

GVHD: Phạm Mai Phưong

16

SVTH: Ngô Văn Huấn



Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Ngoài các phương án chuyển nhượng cổ phiếu hay tài sản bằng tiền mặt hoặc kết
hợp tiền mặt và nợ, các công ty thực hiện sát nhập thân thiện còn có thể chọn phương
thức hoán đổi cổ phiếu để biến cổ đông của công ty này trở thành cổ đông của công ty
kia và ngược lại.
Một hình thức khá phổ biến trong hoạt động thương lượng là trao đổi chéo để
nắm giữ cổ phần của nhau giữa các công ty. Thực chất, hình thức này mang tính liên
minh hơn là sáp nhập hay mua lại. Ví dụ: Tập đoàn News Corp của nhà tỷ phú Mỹ
Murdoch bán lại mạng xã hội ảo MySpace để đổi lấy 25% cổ phần của Yahoo (tương
đương 12 tỷ USD). Nếu như MySpace là khoản tiền mặt News Corp trả cho Yahoo thì
có thể xem đây là một thương vụ mua lại. Tuy nhiên, xuất phát từ động cơ liên minh
giữa hai hãng chia sẻ nhiều điểm chung về lợi ích, cơ sở khách hàng, vụ sáp nhập này
có lợi cho cả hai bên. Yahoo sẽ được MySpace tiếp sức cho cuộc chiến với Google, đổi
lại News Corp sẽ có quyền trong ban quản trị của Yahoo.19
1.4.3. Lôi kéo cổ đông bất mãn
Phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn cũng thường được sử dụng trong các
thương vụ mua lại mang tính thù địch. Khi một công ty lâm vào tình trạng kinh doanh
yếu kém và thua lỗ, có một bộ phận không nhỏ cổ đông bất mãn và muốn thay đổi ban
quản trị và điều hành công ty mình. Công ty cạnh tranh có thể lợi dụng tình huống này
để lôi kéo bộ phận cổ đông đó.
Trước tiên, thông qua thị trường, công ty cạnh tranh sẽ mua một số lượng cổ phần
tương đối lớn (nhưng chưa đủ để chi phối) cổ phiếu trên thị trường để trở thành cổ
đông của công ty mục tiêu. Sau khi đã hội đủ số lượng cổ phần chi phối đủ để loại ban
quản trị cũ, công ty cạnh tranh và các cổ đông bất mãn sẽ triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông và bầu đại diện của công ty cạnh tranh vào Hội đồng quản trị mới.
Để ngăn chặn hình thức thôn tính này, ban quản trị của công ty mục tiêu có thể
sắp đặt các nhiệm kỳ của ban điều hành và ban quản trị xen kẽ nhau ngay từ trong Điều
19


Yahoo có thể mua lại MySpace, />
GVHD: Phạm Mai Phưong

17

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

lệ công ty. Bởi vì mục đích cuối cùng của công ty cạnh tranh và các cổ đông bất mãn là
thay đổi ban điều hành công ty
1.4.4. Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Thu gom cổ phiếu là phương thức mà công ty có ý định sáp nhập và mua lại sẽ
giải ngân để gom dần cổ phiếu của công ty bị sáp nhập và mua lại thông qua giao dịch
trên thị trường chứng khoán, hoặc mua lại cổ phiếu của các cổ đông chiến lược hiện
hữu. Phương pháp này mất nhiều thời gian của các bên tham gia, đồng thời nếu thông
tin về thương vụ sáp nhập và mua lại không được giữ kín, giá của cổ phiếu của công ty
bị sáp nhập và mua lại có thể tăng cao trên thị trường.
Ngược lại, phương thức này nếu được thực hiện dần dần và trôi chảy, công ty
nhận sáp nhập và mua lại có thể đạt được mục đích cuối cùng của mình một cách êm
thấm, không gây xáo động lớn cho công ty bị sáp nhập và mua lại, trong khi chỉ cần trả
một mức giá rẻ hơn so với phương thức chào thầu rất nhiều.

1.4.5. Mua lại tài sản công ty
Phương thức này gần giống phương thức chào thầu. Công ty nhận sáp nhập có thể
đơn phương hoặc cùng công ty bị sáp nhập và mua lại định giá tài sản của công ty đó
(thường thuê một công ty tư vấn chuyên định giá tài sản độc lập). Sau đó các bên sẽ
tiến hành thương thảo để đưa ra mức giá phù hợp (có thể cao hoặc thấp hơn). Phương
thức thanh toán có thể bằng tiền mặt và nợ.

Điểm hạn chế của phương thức này là các tài sản vô hình như thương hiệu, thị
phần, khách hàng, nhân sự, văn hóa doanh nghiệp rất khó được định giá và được các
bên thống nhất. Do đó, phương thức này thường áp dụng để tiếp quản lại các công ty
nhỏ, thực chất là nhắm đến các cơ sở sản xuất, nhà xưởng máy móc, dây chuyền công
nghệ, hệ thống cửa hàng, đại lý đang thuộc sở hữu của công ty đó.
Như vậy, cách thức thực hiện sáp nhập, hợp nhất và mua lại của công ty cổ phần
cũng rất đa dạng tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế
GVHD: Phạm Mai Phưong

18

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

của các doanh nghiệp liên quan trong từng trường hợp cụ thể. Các vấn đề quyết định
đến việc lựa chọn phương thức sáp nhập, hợp nhất hay mua lại như xác định giá trị
chuyển đổi, chia tách, sáp nhập cổ phiếu, tài sản, thương hiệu, cơ cấu tổ chức của công
ty sau sáp nhập hoặc hợp nhất cần được xem xét một cách cụ thể và là những nội dung
thỏa thuận giữa hai bên trong bản hợp đồng sáp nhập và mua lại.
1.5. Lịch sử hình thành của hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ
phần
Lịch sử hình thành của công ty cổ phần ở Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn thăng
trầm. Vì vậy, hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần theo đó cũng đã
hình thành nhưng chưa phát triển. Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được
quy định là trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5
(Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là hội người và hội vốn. Trong
đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh (công ty cổ phần) và hội hợp cổ
(Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về công

ty cổ phần còn rất sơ khai.20
Năm 1999 Luật doanh nghiệp ra đời cũng đề cập đến một hình thức để tổ chức lại
doanh nghiệp là “hợp nhất và sáp nhập”, mở đầu cho sự xuất hiện hợp nhất và sáp nhập
ở nước ta. Năm 2000 hoạt động này bắt khởi động ở Việt Nam và nở rộ đến năm
2005.21
Từ khi tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tính từ năm 2007 đến nay,
với nhiều rào cản được gỡ bỏ cho các nhà đầu tư và các công ty đa quốc gia tham gia
kinh doanh tại Việt Nam thì hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại của các doanh
nghiệp nói chung và hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại của công ty cổ phần nói
riêng diễn ra mạnh mẽ và song hành với những giai đoạn kinh tế tăng trưởng ở nước ta.

20

Lê Thị Châu. Quyền sở hữu tài sản của công ty, Nxb. Lao động, HN, 1997, tr.17

21

Báo cáo của công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers (PwC), />
trao-doi/81/trang16.tctc

GVHD: Phạm Mai Phưong

19

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Hiện nay các hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần chưa được

ban hành văn bản để điều chỉnh về vấn đề nay cho phù hợp với thực trạng hiện nay.

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP, HỢP
NHẤT VÀ MUA LẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Quy định pháp luật về nguyên tắc, điều kiện của hoạt động sáp nhập, hợp
nhất và mua lại công ty cổ phần
2.1.1. Nguyên tắc của hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần
Nguyên tắc cơ bản của các công ty cổ phần khi quyết định mua lại hoặc sáp
nhập với một doanh nghiệp khác là phải tạo ra được giá trị cổ đông lớn hơn tổng giá trị
hiện tại của hai doanh nghiệp khi còn đứng riêng rẽ. Đây chính là nguyên nhân cơ bản
để tiến hành hoạt động sáp nhập, hợp nhất hay mua lại công ty cổ phần. Những công ty
cổ phần mạnh mua lại doanh nghiệp khác nhằm tạo ra một doanh nghiệp mới nói
chung hay một công ty cổ phần mới, tập đoàn kinh tế mới với năng lực cạnh tranh cao
hơn, đạt hiệu quả về chi phí, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, đạt hiệu quả vận hành cao.
Những điều này tạo thành lợi ích như mong muốn, kỳ vọng thuyết phục các doanh
nghiệp khác chấp nhận để mình bị mua lại.
Một số vấn đề mang tính nguyên tắc khi thực hiện quá trình này là:
Một là, những phương thức định giá doanh nghiệp mục tiêu và tác động của
việc xem xét tài chính đến việc định giá.
GVHD: Phạm Mai Phưong

20

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Không có một phương thức định giá nào được đưa ra sẽ phù hợp cho tất cả các trường

hợp sáp nhập, hợp nhất hay mua lại vì mỗi một doanh nghiệp mục tiêu đều có những
đặc điểm riêng cần xem xét. Thông thường người ta áp dụng nhiều kỹ thuật đánh giá
khác nhau và so sánh các kết quả với mục đích tìm ra được các yếu tố làm tăng thêm
hoặc giảm giá trị doanh nghiệp. Ngoài việc định giá doanh nghiệp mục tiêu khi đứng
độc lập, còn phải định giá doanh nghiệp trong tổng thể doanh nghiệp sau khi sáp nhập,
hợp nhất hoặc mua lại. Do phần lớn các thương vụ sáp nhập, hợp nhất hay mua lại
được kỳ vọng để hợp lực cùng “công ty đi sáp nhập, hợp nhất và mua lại”(gọi chung là
công ty đi mua) nên thường áp dụng phương thức khấu trừ dòng vốn, cho phép tính
đến các lợi ích tương lai mà người mua nhận được.
Tuy vậy, cần bổ sung thêm các kỹ thuật định giá khác để có được đầy đủ giá trị của
doanh nghiệp mục tiêu, như: bản phân tích so sánh trong cùng một ngành nghề, chi phí
thay thế hay chi phí cần có để có thể bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh tương tự
như doanh nghiệp mục tiêu. Giá thực tế mà người mua phải trả là một hàm số của kỹ
năng đàm phán, những rủi ro hay lợi ích từ việc mua doanh nghiệp đem lại, phụ thuộc
chủ yếu vào từng nhà đầu tư. Khi xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp mục
tiêu, cần chú ý phát hiện các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố định giá, làm
ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp mục tiêu.
Hai là, khi mua lại một doanh nghiệp mà việc định giá tài sản phải do một cơ
quan định giá được uỷ quyền thực hiện
Việc định giá do các chuyên gia đảm nhận nhằm tránh thất thoát tài sản mà chủ
sở hữu có thể không nắm được chính xác (như trường hợp bán doanh nghiệp của Nhà
nước) do không phản ảnh đúng giá trị kinh tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các
phương pháp định giá tài sản doanh nghiệp được các chuyên gia sử dụng lại thường có
các mức giá trị cao giả tạo, nên người mua phải so sánh giá trị doanh nghiệp mục tiêu
với giá trị của doanh nghiệp riêng của mình để xem thương vụ có khả thi về mặt kinh
tế hay không. Việc xem xét phải thực hiện trước khi các chuyên gia định giá tiến hành.
Điều này có vai trò quan trọng để phát hiện các yếu tố tác động đến việc định giá của
chuyên gia và đưa ra các bằng chứng cho các chuyên gia, nhằm tác động đến việc định
giá doanh nghiệp.
GVHD: Phạm Mai Phưong


21

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

Ba là, hạn chế tối đa sự trùng lặp giữa việc xem xét các khía cạnh pháp lý với
việc xem xét các khía cạnh tài chính trước đàm phán sáp nhập, hợp nhất và mua lại
Trong thực tế có một số lĩnh vực đòi hỏi phải xem xét cả khía cạnh pháp lý lẫn
tài chính, vì nếu tách riêng chúng thì có thể sẽ có những kết luận khác nhau. Ở một số
lĩnh vực khác, việc phân chia nhiệm vụ chính và phụ cho các chuyên gia tài chính và
pháp lý cũng là cách hữu hiệu để tránh chồng chéo, trùng lắp. Các chuyên gia nghiên
cứu phải đảm bảo rằng, tất cả các kết quả điều tra đều phải được trao đổi kịp thời trong
nhóm làm việc. Để quá trình điều tra trước đàm phán thành công đòi hỏi phải có sự
phối hợp của một nhóm công tác, gồm người mua và các chuyên gia.
Tốt nhất là có một người làm chủ nhiệm dự án, để điều phối chung quá trình điều tra,
nhằm giảm tối đa sự chồng chéo công việc giữa các thành viên. Cần tránh giới hạn quá
khắt khe phạm vi công việc của các chuyên gia.
Bốn là, xác định các nghĩa vụ và rủi ro tiềm ẩn
Các nghĩa vụ và rủi ro tiềm ẩn là lĩnh vực cần được quan tâm trong các thương
vụ mua bán và sáp nhập nói chung; đồng thời cũng là một trong những vấn đề khó
khăn nhất. Hầu như không có một “thủ tục mẫu” nào hoàn chỉnh đến mức có thể đảm
bảo được tất cả các nghĩa vụ sẽ được các bên tham gia thực hiện đầy đủ và những rủi
ro sẽ được phát hiện hết. Tuy nhiên, công việc điều tra tài chính cần quan tâm trước
tiên là phải xem xét các đặc điểm riêng có của doanh nghiệp mục tiêu để xác định các
rủi ro chính, chủ yếu. Danh mục các vấn đề cần quan tâm nhất thiết phải đề cập đến
bản chất ngành nghề, các sự kiện chủ yếu gần nhất liên quan đến sản xuất, kinh doanh,
lịch sử phát triển doanh nghiệp, địa bàn hoạt động, đặc điểm và môi trường giám sát

của quản trị doanh nghiệp, cũng như mức độ sử dụng các chuyên gia trong quá khứ.
Một khi các lĩnh vực chủ yếu đã được xác định, việc điều tra tài chính sẽ tập trung vào
việc thảo luận với các lãnh đạo đứng đầu có liên quan trong tất cả các lĩnh vực của
doanh nghiệp (không chỉ bao gồm những người làm việc ở bộ phận tài chính, kế toán);
đồng thời phân tích các thông tin thu được từ doanh nghiệp mục tiêu. Cuối cùng, việc
xác định các rủi ro tiềm ẩn phải dựa vào việc đưa ra những câu hỏi phù hợp cho những
người phù hợp, có hiểu biết về những dấu hiệu mang tính cảnh báo. Do đó, trong việc
chọn chuyên gia, kinh nghiệm trong những thương vụ sáp nhập, hợp nhất và mua lại
GVHD: Phạm Mai Phưong

22

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

được xem là điểm tốt nhất để giúp họ xác định những vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp mục tiêu.
Năm là, Xung đột lợi ích
Trong các thương vụ sáp nhập, hợp nhất và mua lại, một vấn đền cần luôn phải
quan tâm là xem xét có xung đột lợi ích có thể có khi thực hiện thương vụ. Có hai loại
xung đột lợi ích thường gặp là xung đột giữa người bán với người mua và xung đột xảy
ra khi có một hãng kiểm toán chung cho các khách hàng có lợi ích xung đột. Xung đột
giữa người bán và người mua luôn tồn tại, vì người bán không muốn cung cấp tất cả
thông tin cho người mua trong giai đoạn điều tra trước đàm phán, do người bán không
chắc người mua có thực sự muốn mua hay không; trong khi đó, người mua muốn biết
càng nhiều thông tin càng tốt để có thể đánh giá đúng doanh nghiệp mục tiêu. Trong
phần lớn các thương vụ sáp nhập, hợp nhất và mua lại, bên bán buộc phải giữ cân bằng
giữa các rủi ro và lợi ích trong cung cấp thông tin kinh doanh nhạy cảm cho bên mua.

Đối với người mua, việc có đầy đủ thông tin là hết sức cần thiết để đánh giá đúng
doanh nghiệp mục tiêu và định giá mua doanh nghiệp mục tiêu. Đối với người bán,
việc cung cấp các thông tin nhạy cảm có thể gây tổn hại cho doanh nghiệp trong trường
hợp việc mua bán không thành, nhưng đồng thời nó cũng giúp nâng cao giá bán doanh
nghiệp nếu thương vụ được hoàn tất. Vì vậy, thông thường bên bán kiểm tra việc cung
cấp thông tin sao cho các thông tin nhạy cảm chỉ được tiết lộ khi họ cảm thấy thương
vụ sáp nhập, hợp nhất và mua lại có khả năng thực hiện được.
Trên thực tế có thể xảy ra trường hợp một hãng kiểm toán được hai hoặc nhiều
khách hàng có lợi ích cạnh tranh trong một thương vụ lựa chọn. Trong trường hợp này,
nguyên tắc bí mật khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng nhất, phải được
quản lý với những quy tắc kiểm soát nhất định. Một trong những quy tắc đó là có cơ
chế rõ ràng, nhằm giảm thiểu thông tin mật bị sử dụng không phù hợp. Bên cạnh nhiều
biện pháp bảo mật khác, cần phải thường xuyên thông báo cho khách hàng về các xung
đột lợi ích tiềm năng, đồng thời tiến hành các bước cần thiết để thiết lập các chế tài đạo
đức như là những rào cản để tránh rò rỉ thông tin.
Nếu như trong các thương vụ sáp nhập, hợp nhất và mua lại có những nguyên
tắc luật bất thành văn thì trong lĩnh vực ngân hàng lại được quy định một cách tuần tự
GVHD: Phạm Mai Phưong

23

SVTH: Ngô Văn Huấn


Hoàn thiện pháp luật về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại công ty cổ phần

và rất rõ ràng bốn nguyên tắc tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định về sáp nhập,
hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng. Cụ thể như sau:
Đầu tiên là “nguyên tắc thỏa thuận”: The theo tinh thần của thông tư thì Tổ chức
tín dụng tham gia sáp nhập, hợp nhất và mua lại thỏa thuận giải quyết các quyền lợi và

nghĩa vụ giữa các bên có liên quan phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
Các tổ chức tín dụng có thể sáp nhập, hợp nhất và mua lại trên tinh thần tự nguyện
hoặc có thể thực hiện các biện pháp bắt buộc sáp nhập và mua lại trong một vài trường
hợp cần thiết, phù hợp với những quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Khi các tổ chức tín dụng tiến hành hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại thì quá
trình thỏa thuận giữa các bên rất quan trọng nó giúp cho các tổ chức tín dụng thể hiện
mong muốn và kỳ vọng của mình trong hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại, cũng
như mục đích, quyền và nghĩa vụ của các bên được hưởng và thực hiên, pháp luật sẽ
được áp dụng khi xảy ra tranh chấp. Thỏa thuận này giúp hạn chế tối đa các rủi ro có
thể xảy ra thì những công việc đã thực hiện sẽ không có giá trị hoặc giảm giá trị đi rất
nhiều cũng như mục đích sáp nhập và mua lại có thể bị ảnh hưởng theo chiều hướng
tiêu cực, thỏa thuận của các bên không chỉ là liên quan đến khía cạnh pháp lý mà là sự
phối hợp một cách hài hòa các yếu tố có liên quan đến hoạt động sáp nhập và mua lại
khác như: tài chính, kinh doanh… Chỉ khi thỏa thuận một cách hoàn chỉnh các yếu tố
có liên quan thì hợp đồng sáp nhập và mua lại mới thật sự là công cụ để bảo đảm
quyền lợi cho các bên tham gia vào hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại.
Thứ hai là “nguyên tắc bảo vệ khách hàng”: Để đảm bảo cho quyền lợi của
khách hàng (người gửi tiền) không bị ảnh hưởng trong trường hợp hợp nhất, pháp luật
cũng có quy định nguyên tắc bảo vệ quyền lợi khách hàng khi các tổ chức tín dụng
tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại như sau: Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập, hợp
nhất, mua lại phải đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt
quyền lợi của người gửi tiền tại từng tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập, hợp nhất và
mua lại.
Thứ ba là “nguyên tắc cung cấp thông tin và bảo mật thông tin”: Mỗi ngân hàng
đều có thông tin mật theo ngành nghề riêng của mình. Đó là những thông tin có thể gây
thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng nếu các đối thủ cạnh tranh cố ý hoặc tình cờ
GVHD: Phạm Mai Phưong

24


SVTH: Ngô Văn Huấn


×