Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

pháp luật hoạt động thanh tra thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.85 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 – 2015)

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT HOẠT ĐỘNG
THANH TRA THUẾ

Giảng viên hướng dẫn
Lê Huỳnh Phương Chinh
Bộ môn Luật Thương Mại,
Khoa Luật - ĐHCT

Sinh viên thực hiện
Đoàn Hùng Thanh
MSSV: 5117428
Lớp: HG1164A1

Cần Thơ, 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu, các
trích dẫn và phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.



Cần Thơ, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Đoàn Hùng Thanh


LỜI CẢM TẠ

Trải qua gần 4 năm học tập tại trường Đại Học Cần Thơ, được sự chỉ bảo
tận tình của các Thầy Cô, nhất là Thầy Cô Khoa Luật và Khoa Phát Triển Nông
Thôn đã tạo cho em một nền tảng kiến thức khá vững chắc trước khi bước vào
cuộc sống thực tế. Đặc biệt trong quá trình nghiên cứu đề tài này em đã nhận
được sự quan tâm, ủng hộ tận tình của Giáo viên hướng dẫn nhờ đó mà em đã
hoàn thành khá tốt luận văn của mình. Với kiến thức và điều kiện nghiên cứu có
hạn nên nội dung luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ dạy và
góp ý của quý Thầy Cô để luận văn của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại Học Cần Thơ, quý Thầy Cô
Khoa Luật đã trang bị kiến thức cho em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin cảm ơn Cô Lê Huỳnh Phương Chinh đã tận tình hướng dẫn, chỉnh
sửa để em hoàn thành tốt Luận văn của mình.
Sau cùng, em xin chúc quý Thầy Cô, Ban lãnh đạo nhà trường dồi dào sức
khỏe và luôn thành công trong cuộc sống.
Chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày 28 tháng 11 năm
2014
Sinh viên thực hiện

Đoàn Hùng Thanh



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
..............................................................................................................................
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.

...................................................................................................................................
.


...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
Cần Thơ, ngày…tháng 12 năm 2014

Giáo viên hướng dẫn


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
...............................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.

...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.


...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.

...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
...................................................................................................................................
.
Cần Thơ, ngày…tháng 12 năm 2014

Giáo viên phản biện


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thanh tra là một hoạt động hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính công
bằng và an toàn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, đảm bảo cho hệ
thống pháp luật được áp dụng có hiệu quả trong tình hình nước ta hiện nay, trong
đó thanh tra thuế đóng một vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Thanh tra thuế thời gian qua không chỉ có những đóng góp
đáng kể vào chống thất thu thuế mà còn nhằm đảm bảo công bằng, động viên đối
với các chủ thể kinh tế phát huy nguồn lực của mình đẩy mạnh sản xuất nâng cao
nâng suất lao động. Tuy nhiên, Thanh tra thuế vẫn còn một số tồn tại và hạn chế
đòi hỏi phải được nghiên cứu nhằm đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Với sự đòi hỏi cấp thiết đó, người viết chọn đề tài:
“Pháp luật về hoạt động Thanh tra Thuế” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với pháp
luật về hoạt động của Thanh tra Thuế, tạo cơ sở cho việc xác lập và thực hiện
những quyền và nghĩa vụ cơ bản của đối tượng thanh tra thuế cũng như là nội

dung, quyền và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện Thanh tra Thuế trong quá
trình thực thi nhiệm vụ kiểm soát theo chức năng góp phần ổn định và tăng thu
nguồn ngân sách nhà nước theo đúng với các mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, đề tài
còn hướng tới việc đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động của cơ quan thanh tra thuế nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có mục đích tìm hiểu về hoạt động của cơ quan thanh tra thuế trong
việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về thuế; quyền và nghĩa vụ của
đối tượng nộp thuế và quy định của pháp luật hiện nay về nội dung và thẩm
quyền khi tiến hành hoạt động thanh tra; nắm rõ quy trình thanh tra thuế; hoạt
động của Thanh tra Thuế với vai trò là công cụ quan trọng của cơ quan quản lý
thuế trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các khoản thu theo
đúng các mục tiêu đã đề ra tránh tình trạng thất thu thuế. Nghiên cứu pháp luật về


hoạt động thanh tra thuế người viết tập trung vào tìm hiểu hoạt động và thực
trạng thanh tra người nộp thuế do cơ quan thanh tra thuế tiến hành.
Đề tài luận văn chủ yếu nghiên cứu về: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, hoạt
động của cơ quan thanh tra thuế, nguyên tắc hoạt động; quy định của pháp luật về
đối tượng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp thanh tra của các chủ thể trong
quá trình Thanh tra đối tượng nộp thuế. Phân tích, đánh giá pháp luật, quy trình
thanh tra thuế và thực trạng hoạt động của cơ quan Thanh tra thuế, qua đó, đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra phù hợp với điều kiện
của cơ quan thuế hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu những quy định của pháp luật về hoạt động
của cơ quan Thanh tra Thuế này, người viết đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp sưu tầm tài liệu: Trong quá trình nghiên cứu người viết cần
tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát hơn về

hoạt động của cơ quan Thanh tra Thuế. Từ đó có thể tránh được những sai lầm,
thiếu sót trong đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Phương pháp này giúp cho việc
xác định và đánh giá vấn đề cần nghiên cứu được chính xác hơn. Người viết đã
tiến hành việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, tạp
chí, truy cập vào các trang web để việc nghiên cứu hoàn chỉnh hơn.
Phương pháp phân tích: Việc người viết sử dụng phương pháp này nhằm
mục đích hiểu rõ ý chí của người làm luật. Từ đó có thể đưa ra những đánh giá
không trái với quy định của pháp luật, những giải pháp để hoàn thiện các quy
định đó. Đồng thời hoàn thiện hơn về nội dung của đề tài.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp phân tích khác như
diễn dịch, liệt kê, phân tích,so sánh, bình luận theo quy định của pháp luật theo
hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn đề tài và đưa ra ý kiến cá nhân để hoàn thành
tốt đề tài luận văn này.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:


Chương 1: Giới thiệu về thanh tra thuế ở Việt Nam: Với nội dung trình
bày gồm: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, mục tiêu, mục đích, vai trò về hoạt
động của cơ quan thanh tra thuế. Từ việc nêu lên những vấn đề trên người viết
nhằm khái quát chung những vấn đề cơ bản của thanh tra thuế.
Chương 2: Quy định pháp luật về thanh tra thuế: Trình bày và phân
tích các quy định pháp luật về hoạt động của cơ quan Thanh tra thuế.
Chương 3: Thực trạng hoạt động thanh tra thuế và một số giải pháp
hoàn thiện: Trong chương 3 nêu lên tình hình thực trạng thực hiện đang diễn ra,
bên cạnh đó phản ánh kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong hoạt động
thanh tra thuế, đồng thời đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
về hoạt động này.

Đề tài nghiên cứu “Đề tài Pháp luật về hoạt động Thanh tra Thuế” đây
là một vấn đề liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội, cũng như tính
phức tạp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, đòi hỏi người nghiên cứu đề tài
này cần có kiến thức về lĩnh vực thanh tra, nhiều quy định của pháp luật, ngoài ra
cũng cần có kiến thức về các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, cả kiến thức về
lý luận lẫn thực tiễn.
Là một sinh viên, lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu một đề tài
khoa học luật và với thời gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như vốn kiến thức,
hiểu biết có giới hạn, vì vậy việc nghiên cứu có những khiếm khuyết, thiếu sót
hay sai lầm trong đề tài nghiên cứu này là điều khó tránh khỏi từ đó người viết
rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn. Em xin chân thành
cảm ơn./.


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ THANH TRA THUẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thanh tra thuế
Theo “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 1992 thì thanh tra là “kiểm soát,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Theo đó, thanh tra
là một thực tế đứng ngoài để kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ quan, tổ
chức; khác với sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ của cơ quan, tổ chức đó.
Luật Thanh tra năm 2010 nhận định:
“Thanh tra là một khâu trong chu trình quản lý nhà nước, là yếu tố cấu
thành hoạt động quản lý nhà nước, là phương thức và nội dung quan trọng để
nâng cao hiệu quản lý nhà nước, là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Thanh tra còn là phương thức phát huy dân chủ bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.”
Luật Thanh tra năm 2010 nêu:
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc

chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc
quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.”1
Từ đó thanh tra thuế có thể hiểu là “hoạt động giám sát của cơ quan thuế
đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình
hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người
nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời
sống kinh tế xã hội.”2
Thanh tra thuế là hoạt động thanh tra của cơ quan thuế đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân về việc chấp hành pháp luật về thuế trong quá trình quản lý thuế.
Theo đó, Thanh tra thuế là Thanh tra Nhà nước chuyên ngành về thuế. Thanh tra
thuế là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay do Nhà nước quản lý xã hội thông
qua các công cụ quản lý vĩ mô, bằng luật pháp cho mọi thành phần kinh tế hoạt
động và phát triển nên thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là chủ

1

Khoản 3, Điều 3 Luật Thanh tra 2010.
Giáo trình Quản lý thuế ( Thuế 2) ,Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh ,NXB Kinh tế TP.Hồ Chí
Minh , tr 248
2


yếu do đó ngành thuế có cơ quan kiểm tra và kiểm soát riêng biệt và đặc thù của
mình để đảm bảo thực hiện được các quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực thuế.
2.1. Đặc điểm của thanh tra thuế:
Thanh tra thuế mang những đặc điểm chung giống đặc điểm của thanh tra
nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng, đó là:
Thứ nhất, thanh tra thuế luôn mang tính quyền lực của Nhà nước: là một
chức năng của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế, thanh tra thuế thực hiện
quyền lực của chủ thể quản lý (Cơ quan thuế) đối với đối tượng quản lý (Người

nộp thuế).
Thứ hai, thanh tra thuế là một chức năng, một giai đoạn của chu trình
quản lý thuế. Thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế,
là khâu hậu kiểm, thực hiện tốt chức năng giám sát tuân thủ của Cơ quan thuế.
Thanh tra thuế có tác động tới hầu hết các giai đoạn của chu trình quản lý thuế:
kê khai thuế, tuyên truyền hỗ trợ và cưỡng chế nợ thuế. Xét theo chức năng của
quản lý thuế thì thanh tra thuế là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế là một hoạt động mang tính chuyên môn hóa cao,
được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ. Các bước công việc cụ thể để thực
hiện một cuộc thanh tra thuế được chuẩn hóa từng khâu, quy định trách nhiệm rõ
ràng cho từng bộ phận, từng cán bộ tham gia quy trình. Để có thể đáp ứng được
quy trình thanh tra thuế, đòi hỏi cán bộ thanh tra cũng phải được chuyên nghiệp,
có trình độ cao, nắm vững được chính sách, pháp luật, am hiểu về kế toán và phải
có kỹ năng phân tích, phát hiện, xử lý gian lận của đối tượng thanh tra.
Thứ tư, thanh tra thuế có tính độc lập tương đối: đây là đặc điểm vốn có,
xuất phát từ bản chất của thanh tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra thuế với các
bộ phận chức năng khác trong bộ máy quản lý thuế. Thanh tra thuế chủ động và
độc lập trong việc lập kế hoạch thanh tra, phân bổ nguồn lực thanh tra, trong việc
ra quyết định và kết luận thanh tra và độc lập trong cách quan hệ ứng xử với đối
tượng được thanh tra khi cần thiết. Thanh tra thuế là thanh tra chuyên ngành, trực
tiếp giúp việc cho Thủ trưởng Cơ quan thuế và chịu sự quản lý trực tiếp của Thủ
trưởng Cơ quan thuế và có tính chất độc lập tương đối.
Thứ năm, thanh tra thuế được tiến hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và
cá nhân hoạt động trong phạm vi điều chỉnh của các luật thuế, chịu sự quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực thuế. Ví dụ: đơn vị sản xuất kinh doanh, đơn vị hành


chính sự nghiệp, tổ chức chính trị, xã hội… Đây chính là điểm khác giữa hoạt
động thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra hành chính. “Thanh tra hành
chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ

quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao.”3
Thanh tra thuế khác với thanh tra các lĩnh vực khác ở một số nội dung có
thể phân biệt được như sau:
Thanh tra thuế được tiến hành dựa vào các quy định của các luật thuế và
luật quản lý thuế hiện hành, có thể vận dụng một số luật liên quan khi tính toán
nghĩa vụ thuế phải nộp của người nộp thuế.
Đo đặc điểm của đối tượng được thanh tra thuế tương đối rộng, hoạt động
ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau vì vậy đòi hỏi kiến thức sử dụng trong
thanh tra thuế phải bao quát và đa dạng.
Thanh tra thuế không chỉ chấn chỉnh việc thực thi pháp luật mà còn nhằm
mục đích chống thất thu, góp phần làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước. Qua
thanh tra thuế, Cơ quan thuế truy thu vào Ngân sách Nhà nước số thuế thất thu,
tiền phạt, tăng tỷ lệ đóng góp vào Ngân sách Nhà nước.
Thanh tra thuế không chỉ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong lãnh thổ Việt Nam mà còn tác động đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế.
2.1.1. Phân biệt giữa thanh tra thuế với kiểm tra thuế:
Trong thực tế, người ta thường hay nhầm lẫn giữa khái niệm thanh tra thuế
và kiểm tra thuế, do đó, cần phân biệt điểm giống và khác nhau giữa hoạt động
thanh tra thuế và kiểm tra thuế trong Cơ quan thuế.
Kiểm tra thuế “là hoạt động xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm
tra để có những đánh giá, nhận xét chính xác .Kiểm tra thuế là yếu tố cấu thành
của hoạt động lãnh đạo, quản lý thuế. Kiểm tra thuế là chức năng quan trọng để
kiểm tra giám sát và đánh giá sự tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế.”4

3

Khoản 2 Điều 3 Luật thanh tra 2010

Giáo trình Quản lý thuế ( Thuế 2) ,Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh ,NXB Kinh tế TP.Hồ Chí
Minh , tr 248
4


Về mặt lý luận và thực tiễn, thanh tra thuế và kiểm tra thuế là hai hoạt
động không thể thiếu được của công tác lãnh đạo, quản lý của Cơ quan thuế
nhằm đảm bảo pháp luật về thuế được thực thi đúng đắn và hiệu quả.
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau:
Một là, thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của
quản lý thuế. Thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều có cùng một mục đích là phát
hiện, ngăn ngừa, xử lí những vi phạm pháp luật thuế, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý thuế, thúc đẩy người nộp thuế tự giác tuân thủ pháp luật thuế, qua đó kiến
nghị hoàn thiện cơ chế quản lí thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
Hai là, đối tượng của thanh tra thuế, kiểm tra thuế là người nộp thuế nói
chung, bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp
luật về thuế.
Ba là, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều có nội dung là kiểm tra việc chấp
hành pháp luật thuế của người nộp thuế.
Bốn là, về phương pháp, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều phải xem xét
hoạt động thực tế của đối tượng thanh tra để phát hiện, phân tích, đánh giá thực
trạng đối tượng thanh tra một cách chính xác, khách quan, xử lí vi phạm, chỉ ra
nguyên nhân để người nộp thuế có biện pháp khắc phục.
Năm là, hoạt động thanh tra thuế, kiểm tra thuế không chỉ được thực hiện
ở một khâu trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các khâu
của quy trình quản lý thuế.
Tuy nhiên, giữa thanh tra thuế và kiểm tra cũng có sự khác nhau nhất
định:
Thứ nhất, chủ thể của thanh tra thuế là bộ phận chuyên trách về công tác

thanh tra thuộc Cơ quan thuế, còn chủ thể của kiểm tra thuế thường đa dạng hơn
so với chủ thể của thanh tra thuế, bao gồm bộ phận thanh tra thuế, bộ phận kiểm
tra thuế và các bộ phận chức năng khác.
Thứ hai, về phạm vi hoạt động: kiểm tra thuế thường có phạm vi rộng,
diễn ra liên tục, ở nhiều khâu với hình thức đa dạng, còn phạm vi hoạt động của
thanh tra thuế thường hẹp hơn. Thanh tra thuế thường có sự chọn lọc, đôi khi
thông qua kiểm tra thuế có thể thấy những dấu hiệu phức tạp mà nếu cứ tiến hành


kiểm tra thuế thì không làm rõ được, bởi vậy, cần chọn ra những nội dung nào đó
để thanh tra thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế thường kiểm tra những vấn đề đã xảy ra ở trong
quá khứ, khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, hoàn thành, còn nội dung của
kiểm tra thuế có thể là những vấn đề hiện tại, đang xảy ra. Tất nhiên, nội dung
kiểm tra bao gồm cả những nội dung cụ thể của kiểm tra trước, kiểm tra trong và
kiểm tra sau khi các hoạt động kinh tế phát sinh.
Thứ tư, thời gian để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn so
với thời gian một cuộc kiểm tra thuế do tính chất các vụ việc tiến hành của thanh
tra thuế phức tạp, tinh vi.
Thứ năm, về hình thức tổ chức: thanh tra thuế bắt buộc phải thành lập
đoàn thanh tra, phải có quyết định thanh tra còn kiểm tra thuế đôi khi không
thành lập đoàn kiểm tra và không cần có quyết định kiểm tra.
Thứ sáu, về trình độ nghiệp vụ: thanh tra thuế đòi hỏi cán bộ thuế phải có
nghiệp vụ giỏi, am hiểu tình hình kinh tế- xã hội, có khả năng chuyên sâu vào
lĩnh vực thanh tra hướng đến do nội dung thanh tra thuế thường là những vấn đề
phức tạp, bản chất vấn đề thường được che giấu có chủ ý nên khó nhận biết. Còn
nội dung của hoạt động kiểm tra thuế ít phức tạp hơn nên không nhất thiết đòi hỏi
trình độ nghiệp vụ như thanh tra thuế.
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế mặc dù có sự phân biệt nhưng chỉ là
tương đối; khi tiến hành cuộc thanh tra thuế, thường phải tiến hành nhiều thao tác

nghiệp vụ, thao tác nghiệp vụ đó thực chất là kiểm tra thuế. Ngược lại, đôi khi
tiến hành kiểm tra thuế để làm rõ vụ, việc lại chọn lựa được những nội dung đưa
vào thanh tra thuế.
Việc phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về
mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều
hành để tránh sự chồng chéo giữa thanh tra và kiểm tra, giảm phiền hà cho các tổ
chức cá nhân là đối tượng thanh tra và kiểm tra, nâng cao chất lượng, hiệu quả
của công tác thanh tra, kiểm tra.
Tóm lại, thanh tra thuế và kiểm tra thuế là hai khái niệm khác nhau nhưng
có liên hệ qua lại, gắn bó và đều là những hoạt động không thể thiếu trong công
tác quản lý thuế.
2.1.2. Phân loại thanh tra thuế:


Căn cứ vào các tiêu chí lựa chọn khi tiến hành thanh tra thuế và mục tiêu
của thanh tra thuế, có thể phân loại thanh tra thuế như sau:
2.1.2.1. Dựa vào tính kế hoạch của thanh tra thuế:
Nếu xét theo tính kế hoạch, có thể phân thanh tra thuế thành hai loại:
thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất.
Thanh tra theo kế hoạch đã được được phê duyệt: căn cứ vào nguồn lực
hiện có, tình hình chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế,
Cơ quan thuế xây dựng kế hoạch thanh tra và trình các cấp có thẩm quyền phê
duyệt và tổ chức thực hiện theo kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt.
Loại hình thanh tra này có ưu điểm là việc thanh tra được lập kế hoạch từ
trước nên được chuẩn bị chu đáo từ khâu phân tích thông tin đến khâu thanh tra
thực tế.
Tuy nhiên, do kế hoạch thanh tra được phê duyệt từ đầu năm nên thời gian
cho đến khi Cơ quan thuế tiến hành thanh tra tại cơ sở người nộp thuế thường có
độ trễ nhất định. Tranh thủ thời gian trễ tạm thời đó, người nộp thuế thường có
hành vi hoàn thiện sổ sách chứng từ trước khi đoàn thanh tra vào thanh tra, hoặc

người nộp thuế trì hoãn, kéo dài thời gian thanh tra. Mặt khác, việc lập kế hoạch
thanh tra đôi khi bị ảnh hưởng do yếu tố chủ quan can thiệp, tác động làm thay
đổi kế hoạch, đôi khi làm chệnh hướng hoạt động thanh tra.
Thanh tra đột xuất được tiến hành khi: Cơ quan thuế phát hiện người nộp
thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, theo yêu cầu của cơ quan quản lý cấp
trên, cơ quan chức năng có thẩm quyền giao.
Thanh tra đột xuất giúp Cơ quan thuế kịp thời phát hiện ra bằng chứng vi
phạm pháp luật của người nộp thuế, giúp Cơ quan thuế nắm được lập tức tình
trạng sản xuất kinh doanh, việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế có
thường xuyên, tự giác không.
Thanh tra đột xuất có thời gian tiến hành thanh tra gấp nên đoàn thanh tra
có ít thời gian để thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về người nộp thuế trước
thanh tra, đồng thời chỉ tập trung vào thanh tra một khía cạnh, lĩnh vực nhất định,
kết luận thanh tra giới hạn theo nội dung thanh tra đột xuất.
Trong thực tế, nhằm đảm bảo người nộp thuế thực hiện tốt các luật thuế,
tùy theo yêu cầu quản lý thuế từng thời kỳ mà Cơ quan thuế đặt trọng tâm vào áp


dụng phương pháp thanh tra theo kế hoạch hay thanh tra đột xuất vì mỗi hình
thức thanh tra có ưu, hạn chế nhất định, có thể bổ sung cho nhau.
2.1.2.2. Theo quy mô và phạm vi tiến hành thanh tra:
Theo tiêu chí này, thanh tra thuế được chia thành hai loại là thanh tra toàn
diện và thanh tra theo chuyên đề.
Thanh tra toàn diện: Cơ quan thuế tiến hành thanh tra toàn bộ quá trình kê
khai, nộp thuế với tất cả các sắc thuế có liên quan đến người nộp thuế. Đây là
hình thức thanh tra toàn diện, phạm vi rộng cho phép kết luận tổng hợp về tình
hình tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế. Thanh tra toàn diện liên quan
đến nhiều sắc thuế, nhiều kỳ tính thuế, tập trung vào những người nộp thuế trọng
điểm, thường tiến hành ở cơ sở của người nộp thuế.
Sử dụng loại hình thanh tra này, Cơ quan thuế sẽ kiểm tra được toàn diện

tình hình chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, kỳ thanh tra được mở
rộng thành nhiều năm. Thanh tra toàn diện cho thấy một bức tranh tổng quan về
tình hình sản xuất kinh doanh, cơ chế hạch toán, việc kê khai, nộp thuế trong
phạm vi toàn ngành, phát hiện sơ hở về cơ chế, chính sách, hành vi vi phạm pháp
luật thuế trong phạm vi toàn ngành, từ đó đề xuất các cấp bổ sung, sửa đổi hoàn
thiện cơ chế chính sách.
Tuy nhiên, do phạm vi cuộc thanh tra rộng và thanh tra nhiều kỳ tính thuế
nên Cơ quan thuế tốn nhiều nhân lực, thời gian, chi phí để tiến hành thanh tra,
đôi khi phải gia hạn thêm thời gian thanh tra do phát sinh nhiều vấn đề chưa
lường trước được.
Thanh tra theo chuyên đề: giới hạn phạm vi thanh tra ở một sắc thuế, một
hoặc một số kỳ tính thuế, hoặc theo một số chuyên đề chuyên sâu hoặc một khía
cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh nhất định, giá cả sản phẩm hoặc một tài
khoản nhất định, ví dụ thanh tra chống chuyển giá, thanh tra các doanh nghiệp lỗ,
thanh tra về chi phí sản xuất một số mặt hàng Nhà nước kiểm soát giá…Loại
hình thanh tra này thường được bắt nguồn từ đề xuất của bộ phận kiểm soát hồ sơ
khai thuế, hoặc do Cơ quan thuế cấp trên chỉ đạo, hoặc theo yêu cầu của cơ quan
chức năng.
Thanh tra theo chuyên đề không bao gồm các phép thử hay các bước tuần
tự thanh tra cần thiết cho phép cán bộ thanh tra đánh giá được tổng thể mức độ
tuân thủ hay không tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế được thanh tra.


Thông thường thanh tra bao gồm việc rà lại các chứng từ liên quan trực tiếp đến
vấn đề nghi ngờ.
Thanh tra theo chuyên đề tốn ít nguồn lực thanh tra hơn thanh tra toàn
diện, giúp Cơ quan thuế tìm ra các gian lận, sai sót, chống thất thu thuế theo từng
lĩnh vực chuyên sâu, chuyên ngành,...nhằm tăng tính tuân thủ của người nộp thuế
trong các ngành, lĩnh vực thanh tra theo chuyên đề. Tuy nhiên kết quả thanh tra
sẽ không cho thấy được bức tranh toàn cảnh về tình hình tuân thủ khai nộp thuế

của người nộp thuế do phạm vi thanh tra bị hạn chế, chỉ thanh tra một khía cạnh,
lĩnh vực hay một yếu tố.
2.1.2.3. Theo địa điểm tiến hành thanh tra thuế:
Theo tiêu chí này, thanh tra thuế được chia thành hai loại là thanh tra tại
Cơ quan thuế và thanh tra tại cơ sở của đối tượng thanh tra:
Thanh tra tại trụ sở Cơ quan thuế (hay còn gọi là thanh tra tại bàn) có địa
điểm tiến hành tại trụ sở Cơ quan thuế. Theo hình thức thanh tra này, mà Cơ
quan thuế không đến làm việc trực tiếp tại cơ sở người nộp thuế mà tiến hành các
bước thanh tra tình hình tuân thủ pháp luật của người nộp thuế ngay tại trụ sở Cơ
quan thuế, dựa trên những dữ liệu, thông tin và hồ sơ hiện có của mình về người
nộp thuế trên hệ thống để kiểm tra tính đúng, sai trong việc thực thi luật thuế về
các nội dung: sự khớp đúng của hồ sơ khai thuế; tính đầy đủ của hồ sơ; sự sai sót
trong tính toán số thuế phải nộp….Quá trình thanh tra, Cơ quan thuế có thể thông
báo yêu cầu người nộp thuế lên làm việc tại trụ sở Cơ quan thuế để đối chiếu số
liệu, sổ sách và giải trình những chênh lệch, nghi vấn của Cơ quan thuế. Kết thúc
thanh tra, Cơ quan thuế yêu cầu người nộp thuế phải chỉnh sửa, hoàn thiện hồ sơ
cho đúng quy định.
Thanh tra tại trụ sở Cơ quan thuế tốn kém ít chi phí, thời gian đi lại trong
quá trình thanh tra. Việc kiểm tra, đối chiếu được chủ động do đoàn thanh tra tận
dụng được cơ sở vật chất sẵn có và hồ sơ sẵn có tại Cơ quan thuế. Việc phối hợp
với các phòng ban liên quan trong việc truy vấn lịch sử tuân thủ, lịch sử hành vi
của người nộp thuế cũng thuận tiện hơn.
Thanh tra theo hình thức này phụ thuộc vào nguồn dữ liệu hiện có của Cơ
quan thuế, kết quả phân tích đánh giá chưa thực sự chính xác, chỉ áp dụng đối với
yêu cầu thanh tra đơn giản. Đồng thời do người nộp thuế không thể mang đầy đủ
sổ sách, chứng từ kế toán và các tài liệu liên quan khác lên trụ sở của Cơ quan


thuế nên cán bộ thanh tra khó có chứng cứ cụ thể, xác đáng để phân tích, kết luận
thanh tra. Do không trực tiếp thanh tra tại cơ sở của người nộp thuế nên Cơ quan

thuế không thấy được hiện trạng thực tế của tài sản cố định, tình hình sản xuất
kinh doanh và không kịp thời phát hiện ra các bằng chứng gian lận của người nộp
thuế. Các rủi ro phát hiện qua hình thức thanh tra này thường không nghiêm
trọng và có giá trị truy thu không nhiều.
Thanh tra tại cơ sở người nộp thuế: Đây là hình thức thanh tra mà Cơ
quan thuế kiểm tra, xem xét, rà soát lại toàn bộ chứng từ, hồ sơ có liên quan đến
tình hình tuân thủ pháp luật của người nộp thuế tại cơ sở của người nộp thuế mà
Cơ quan thuế nghi ngờ có những rủi ro về thuế lớn, có dấu hiệu gian lận, trốn
thuế cần phải thu thập những bằng chứng thực tế, xác đáng để kết luận. Khi thanh
tra tại cơ sở người nộp thuế, cán bộ thanh tra kiểm tra các tài liệu không có ở Cơ
quan thuế mà chỉ có ở doanh nghiệp để xác minh, đối chiếu hồ sơ, chứng từ
nhằm tìm ra bằng chứng thanh tra, trao đổi với người nộp thuế, quan sát, đánh
giá, yêu cầu cung cấp thông tin...
Loại hình thanh tra này thường áp dụng trong trường hợp thanh tra tại trụ
sở Cơ quan thuế không đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn nhiều nghi vấn sai phạm,
do đó, Cơ quan thuế phải chuyển sang thanh tra tại cơ sở người nộp thuế để
khẳng định nghi ngờ, tìm được nhiều bằng chứng sai phạm, xác đáng, tăng tính
răn đe, phòng ngừa.
Thực hiện việc thanh tra tại cơ sở người nộp thuế cho Cơ quan thuế bằng
chứng xác thực, kết luận thanh tra khách quan hơn, cuộc thanh tra được tiến hành
đầy đủ, toàn diện và thu thập được những chứng cứ xác đáng. Hình thức này cho
phép cán bộ thanh tra tiếp cận trực tiếp với tài sản, máy móc, tài liệu sổ sách
chứng từ, quỹ tiền mặt thực tế tại doanh nghiệp, có thể quan sát, thẩm định, ra
biên bản trực tiếp. Tuy nhiên, thanh tra tại cơ sở người nộp thuế tốn kém thời
gian, nhân lực và vật lực cho Cơ quan thuế.
3.1. Mục đích, nguyên tắc, vai trò của hoạt động Thanh tra thuế:
3.1.1. Mục đích của hoạt động thanh tra thuế:
Hoạt động thanh tra nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế
thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách
đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của nghành.



Thông qua công tác thanh tra nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế
của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực,
đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực vì mỗi đối tượng nộp thuế phải
tự xác định số thuế mà họ phải nộp.Theo đó thì có thể thấy, mục đích của thanh
tra là nhằm chắc chắn tiền thuế được tính toán đúng, phát hiện và ngăn ngừa
những hành vi gian lận, trốn thuế.
Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả thanh tra cơ quan thuế các cấp có
thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế,
đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các
quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn thực hiện được vai trò quan
trọng trong việc đạt được các mục tiêu của cơ quan thuế là thu đủ các loại thuế
qui định trong luật trên cơ sở khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện của người nộp
thuế và duy trì sự tin tưởng của người dân vào tính thống nhất của chính sách
thuế.
Thông qua công tác thanh tra nhằm cung cấp thông tin, tài liệu hướng dẫn
và tuyên truyền, giúp đỡ đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn
của đơn vị khi thực hiện luật thuế, đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức
nghành thuế khi thi hành công vụ.
Thanh tra thuế là một yếu tố tác động mạnh đến ý thức tuân thủ tự nguyện
của người nộp thuế, sự liên hệ giữa người nộp thuế và công chức thuế trong quá
trình thanh tra và thông qua công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn,
phòng ngừa những hành vi tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan
thuế trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi
về nghiệp vụ chuyên môn.
3.1.2. Nguyên tắc thanh tra thuế:
Nguyên tắc của hoạt động thanh tra là tập hợp các quy định, quy tắc,
chuẩn mực bắt buộc phải thực hiện xuyên suốt trong quá trình hoạt động thanh
tra của các cơ quan thanh tra Nhà nước.

Nguyên tắc của hoạt động thanh tra nói chung được quy định trong Luật
Thanh tra là:
“Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công
khai, dân chủ, kịp thời. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời
gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản


trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”
5

.
Nguyên tắc của thanh tra thuế được quy định trong Luật Quản lý thuế như

sau:
“1. Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người
nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu
thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
2. Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là
người nộp thuế;
3. Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.” 6
Thanh tra thuế là loại hình thanh tra chuyên ngành, do đó thanh tra thuế
đồng thời vừa phải tuân thủ theo nguyên tắc của thanh tra chuyên ngành quy định
trong Luật Thanh tra về thanh tra chuyên ngành, vừa phải tuân theo nguyên tắc
quy định trong Luật Quản lý thuế.
Các nguyên tắc cơ bản của thanh tra thuế được cụ thể hóa như sau:
Một là, Thanh tra thuế phải tuân theo pháp luật
Nguyên tắc trước tiên của thanh tra thuế là phải tuân theo pháp luật, điều
này khẳng định tính pháp lý của hoạt động thanh tra. Công tác thanh tra phải tuân
thủ theo Luật Thanh tra chuyên ngành, Luật Quản lý thuế và các luật thuế.

Nguyên tắc tuân theo pháp luật đòi hỏi các đơn vị, cá nhân thực hiện hoạt
động thanh tra thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi quyền hạn mà pháp luật cho
phép và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định. Mọi hành
vi lạm quyền hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đều bị coi là hành vi không
tuân thủ quy định của pháp luật và đều phải bị xử lý. Thực hiện nguyên tắc này,
chủ thể thanh tra (Cơ quan thuế, đoàn thanh tra và các thành viên đoàn thanh tra)
khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để
kiểm tra, đánh giá, kết luận, kiến nghị những vấn đề thanh tra và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về kết luận, kiến nghị thanh tra. Đối tượng được thanh tra

5
6

Điều 7 Luật thanh tra 2010
Điều 75 Luật quản lý thuế


(người nộp thuế) phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định của chủ thể thanh
tra, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu và giải trình số liệu khi được yêu cầu.
Hai là, Thanh tra thuế phải đúng quy trình
Cơ quan thuế khi thanh tra thực hiện theo đúng quy trình thanh tra thuế
theo Luật Quản lý thuế, đồng thời tuân thủ theo quy trình thanh tra chuyên ngành
theo Luật thanh tra chuyên ngành. Cán bộ thanh tra, đoàn thanh tra không được
làm tắt bước, bỏ qua các khâu, đoạn, thủ tục cho là không quan trọng để nôn
nóng, vội vàng kết thúc cuộc thanh tra (ví dụ cán bộ, đoàn thanh tra không được
đến thanh tra tại cơ sở người nộp thuế khi chưa có quyết định thanh tra của thủ
trưởng Cơ quan thuế, làm việc xong cán bộ thanh tra không ký biên bản xác nhận
số liệu, chứng cứ phát hiện ra không được cán bộ thanh tra lập biên bản kịp thời,
tại chỗ …). Sai quy trình sẽ dễ gây rủi ro không những cho chính đoàn thanh tra
mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh, uy tín, tính nghiêm minh của

Cơ quan thuế và pháp luật thuế, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng trong khâu hậu
kiểm, người nộp thuế sẽ có tâm lý lợi dụng kẽ hở đó để khiếu nại, khiếu kiện
đoàn thanh tra, Cơ quan thuế không làm đúng quy trình và người nộp thuế sẽ từ
chối nghĩa vụ tuân thủ các kết luận thanh tra.
Ba là, Thanh tra thuế phải hiệu quả
Nguyên tắc hiệu quả hết sức quan trọng đối với thanh tra thuế. Đảm bảo
nguyên tắc hiệu quả trong thanh tra thuế có nghĩa là Cơ quan thuế phải đạt được
mục tiêu thanh tra của mình với nguồn lực hạn chế. Mục tiêu thanh tra thể hiện
trên hai mặt: định lượng và định tính. Hiệu quả về mặt định lượng thể hiện ở số
thuế truy thu lẫn số lượng hành vi vi phạm phát hiện qua thanh tra. Hiệu quả về
mặt định tính thể hiện ở việc thanh tra thuế nâng cao tính tuân thủ của người nộp
thuế, răn đe phòng ngừa ý đồ gian lận của người nộp thuế. Nguyên tắc này đáp
ứng được việc bảo đảm nguồn thu và ngăn chặn trốn-tránh, gian lận thuế, nâng
cao hiệu quả quản lý thuế. Để đạt được hiệu quả, thanh tra thuế phải dựa trên cơ
sở phân tích thông tin, áp dụng phương pháp phân tích rủi ro nhằm phân loại rủi
ro thanh tra thuế, phải phù hợp với khả năng của người nộp thuế trong việc tuân
thủ các kết luận về thuế.
Bốn là, Thanh tra thuế phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực
Tính chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra phải nhận thức đúng vấn đề, nội
dung thanh tra; xác định, đánh giá đúng bản chất của sự việc để kết luận thanh tra


mang tính chính xác. Tính chính xác bảo đảm cho thanh tra thuế đạt hiệu quả
cao. “Kết quả các cuộc kiểm tra, thanh tra thuế phải xác định chính xác hành vi
không tuân thủ, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật và từ đó giúp người nộp
thuế xác định chính xác nghĩa vụ thuế.”7
Tính khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra thuế phải phản ánh đúng sự vật,
hiện tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự vật,
hiện tượng. “ Tấc cả các quyết định đều phải được thực hiện căn cứ vào dữ liệu
thực tế.”8

Tính trung thực đòi hỏi chủ thể thanh tra thuế phải tuân thủ các quy tắc về
đạo đức nghề nghiệp.
Năm là, Thanh tra thuế phải bảo đảm tính công khai, dân chủ, kịp thời
Tính công khai thể hiện ở chỗ Cơ quan thuế phải thông báo đầy đủ, rõ
ràng từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra đến kết luận thanh tra để các tổ
chức, cá nhân liên quan biết, giám sát và phối hợp thực hiện. Việc công khai hoạt
động thanh tra thuế nhằm nâng cao tính khách quan hoạt động thanh tra của Cơ
quan thuế, hạn chế những tiêu cực phát sinh trong quá trình thanh tra. Tuy nhiên,
tuỳ tính chất của cuộc thanh tra thuế cụ thể, cần có hình thức, mức độ công khai
phù hợp để đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra.
Tính dân chủ nhằm tạo cơ hội cho người nộp thuế được trình bày ý kiến,
quan điểm về những nội dung thanh tra cũng như về hoạt động cụ thể của đoàn
thanh tra, tránh tình trạng áp đặt của Cơ quan thuế về các nội dung liên quan đến
người nộp thuế.
Tính kịp thời: thanh tra thuế nhằm phục vụ các mục tiêu quản lý thuế
trong những thời điểm nhất định. Vì vậy, tính kịp thời của thanh tra thuế giúp cho
người nộp thuế kịp thời nhận rõ sai phạm để sửa chữa, khắc phục ngay, tránh vi
phạm kéo dài, giúp Cơ quan thuế chấn chỉnh và sửa đổi cơ chế, chính sách thuế
phù hợp thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Mặt khác, tính kịp thời còn
đảm bảo cuộc thanh tra thuế có biên bản, kết luận đúng thời hạn luật định, tránh
tình trạng dây dưa, kéo dài thời gian công bố kết luận thanh tra.

7

Giáo trình Quản lý thuế ( Thuế 2) ,Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh ,NXB Kinh tế TP.Hồ Chí
Minh , tr 258.
8
Giáo trình Quản lý thuế ( Thuế 2) ,Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh ,NXB Kinh tế TP.Hồ Chí
Minh , tr 259.



Sáu là, Thanh tra thuế phải đảm bảo tính không trùng lắp và không làm
cản trở hoạt động bình thường của người nộp thuế
Tính không trùng lắp: về nguyên tắc, đối với người nộp thuế có ngành
nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng thì thanh tra thuế định kỳ một
năm không quá một lần. Do đó, nguyên tắc này nhằm hạn chế tối đa những cuộc
thanh tra chồng chéo của các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt động bình
thường của đối tượng thanh tra, đảm bảo cùng một nội dung, trong một năm đối
tượng chỉ bị thanh tra thuế một lần.
Không làm cản trở hoạt động bình thường của người nộp thuế: thanh tra
thuế tác động tới quan hệ nhạy cảm giữa Cơ quan thuế và người nộp thuế. Sự
xuất hiện của cán bộ thanh tra tại cơ sở của người nộp thuế cùng với việc kiểm
tra, xem xét những vấn đề của người nộp thuế, thu thập thông tin từ sổ sách
chứng từ của doanh nghiệp sẽ ít nhiều làm gián đoạn các công việc hàng ngày,
gây tâm lý, áp lực đối với người nộp thuế. Việc cơ quan chức năng thực hiện
thanh tra tại cơ sở kinh doanh là cần thiết nhưng ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động của đối tượng bị thanh tra. Hoạt động thanh tra thuế mang tính nhạy
cảm vì trong những năm gần đây, vấn đề quyền và những bảo đảm thực hiện
quyền của người nộp thuế được đặc biệt quan tâm. Tình trạng kéo dài thời gian
thanh tra và không công bố kết luận thanh tra có lúc, có nơi vẫn còn tồn tại, vì
vậy thanh tra thuế cần tránh để không làm cho người nộp thuế bị gián đoạn sản
xuất kinh doanh, cần bố trí thời gian, nhân lực hợp lý, cần đặt lịch, lên kế hoạch
với người nộp thuế trước thì mới tránh được hiện tượng thanh tra quá dày, quá
nhiều tại trụ sở người nộp thuế.
3.1.3. Vai trò của thanh tra thuế:
Thanh tra thuế đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu
của Cơ quan thuế, đó là chống thất thu thuế, phát hiện ra các gian lận, sai sót,
khuyến khích người nộp thuế tuân thủ tự nguyện, phát hiện ra những bất cập của
chính sách thuế để kiến nghị sửa đổi cho phù hợp. Nhìn chung, thanh tra thuế có
những vai trò chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Thanh tra thuế góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực thuế: Nhà nước thực hiện quản lý thuế thông qua hệ
thống các luật, các chính sách, chế độ quản lý để điều chỉnh các quan hệ và thậm
chí có thể cưỡng chế các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải tuân thủ nhằm bảo


vệ các lợi ích của Nhà nước. Trong đó thanh tra thuế được sử dụng như một
công cụ để đảm bảo pháp luật thuế được thực thi nghiêm túc, quyền và lợi ích
Nhà nước, của người nộp thuế được bảo đảm. Thanh tra thuế nhằm kiểm soát
việc chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, giúp phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Thanh tra thuế là một trong những
công cụ rất quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước, thiết
lập kỷ cương xã hội.
Thực tiễn chỉ ra rằng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thuế
tùy thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định
của Cơ quan thuế. Để các quyết định của Cơ quan thuế được người nộp thuế tuân
thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ, Cơ quan thuế phải đề ra quy trình
thực hiện quyết định đó là quy trình quản lý thuế. Trong quy trình đó không thể
thiếu được hoạt động thanh tra thuế. Thanh tra thuế là để đánh giá, nhận xét tình
hình chấp hành pháp luật thuế và các kết quả thực hiện quyết định quản lý thuế,
làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai để chấn chỉnh
hoặc xử lý (khi có hành vi vi phạm), với ý nghĩa đó, thanh tra thuế thực chất đã
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế.
Thứ hai, Thanh tra thuế nhằm hạn chế, chống thất thu thuế, hạn chế trốntránh, gian lận thuế. Điều này xuất phát từ nguyên tắc hiệu quả và mục đích
chống gian lận, chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước của thanh tra thuế. Hàng
năm, thanh tra thuế truy thu, truy hoàn và phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thuế đã góp phần động viên số thu không nhỏ cho Ngân sách Nhà nước. Với các
thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp, một số người nộp thuế cố tình trốn-tránh
nghĩa vụ khai, nộp thuế, thanh tra thuế giúp minh bạch và kiểm soát để lượng tiền
thuế này không bị thất thoát, chiếm dụng, giảm ý đồ không tuân thủ, giảm hành

vi gian lận thuế, nâng cao ý thức đóng góp tự nguyện đầy đủ của người nộp thuế
làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, Thanh tra thuế đảm bảo người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật
thuế: Thanh tra thuế với tính chất chuyên sâu và tổ chức hoạt động một cách
chuyên nghiệp, có tác dụng hữu hiệu ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật về thuế, buộc người nộp thuế có ý đồ không tuân thủ phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình đối với Ngân sách Nhà nước, ngăn chặn, làm nản lòng một
số người nộp thuế khác đang có ý đồ trốn- tránh thuế. Kết luận của thanh tra thuế


×