Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.6 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2011-2015

CAN THIỆP QUÂN SỰ TRONG LUẬT QUỐC TẾ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:
Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như
Bộ môn Luật Thương mại

Cần Thơ, tháng 12/2014

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Hạ
MSSV: 5118675
Luật Thương mại khoá 37


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 01
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP
QUÂN SỰ .............................................................................................................................. 03
1.1. Khái quát chung về hoạt động can thiệp quân sự ................................................ 03
1.1.1. Khái niệm can thiệp quân sự..................................................................................... 03
1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của hoạt động can thiệp quân sự.................... 04
1.1.3. Ảnh hưởng của hoạt động can thiệp quân sự ......................................................... 05


1.1.4. Căn cứ áp dụng hoạt động can thiệp quân sự ........................................................ 07
1.1.5. Chủ thể tham gia vào hoạt động can thiệp quân sự............................................... 08
1.1.6. Mục đích của việc áp dụng hoạt động can thiệp quân sự ..................................... 09
1.1.7. Nguồn luật điều chỉnh của hoạt động can thiệp quân sự ...................................... 10
1.2. Liên Hiệp Quốc và hoạt động can thiệp quân sự.................................................. 12
1.2.1. Sơ lược về tổ chức Liên Hiệp Quốc và cơ quan Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc ........................................................................................................................................ 12
1.2.2. Vai trò của Liên Hiệp Quốc đối với hoạt động can thiệp quân sự....................... 13
1.2.3. Vai trò và quyền hạn của cơ quan hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đối với hoạt
động can thiệp quân sự ......................................................................................................... 14
1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự với một số nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế .................................................................................................................... 15
1.3.1. Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc cấm sử dụng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế ......................................................... 15
1.3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc k hông can thiệp
vào nội bộ của quốc gia khác .............................................................................................. 17
1.3.3. Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia....................................................................................................... 18
1.3.4. Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc hoà bình giải
quyết các tranh chấp quốc tế ............................................................................................... 20
1.4. Một số quan điểm lý luận được các nước áp dụng trong hoạt động can thiệp
quân sự................................................................................................................................... 21
1.4.1. Can thiệp quân sự-áp dụng theo học thuyết nhân đạo .......................................... 21
1.4.2. Can thiệp quân sự-áp dụng theo học thuyết trách nhiệm bảo vệ (R2P) .............. 23
1.4.3. Giá trị pháp lý của hoạt động can thiệp quân sự theo học thuyết nhân đạo và
học thuyết trách nhiệm bảo vệ (R2P) .................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP QUÂN SỰ TRONG
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................. 26



2.1. Quy định về hoạt động can thiệp quân sự trong Hi ến chương Liên Hiệp
Quốc........................................................................................................................................ 26
2.1.1. Cơ sở pháp lý ............................................................................................................. 26
2.1.2. Mục đích hoạt động can thiệp quân sự của Liên Hiệp Quốc............................... 28
2.1.3. Triển khai thực hiện hoạt động can thiệp quân sự................................................ 29
2.2. Giới thiệu một số nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về hoạt
động can thiệp quân sự ...................................................................................................... 30
2.2.1. Nghị quyết số 678 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc .................................... 30
2.2.2. Nghị quyết số 1973 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc .................................. 31
2.2.3. Nghị quyết số 2085 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc .................................. 33
2.3. Ưu điểm và nhược điểm của hoạt động can thiệp quân sự ................................ 37
2.3.1. Ưu điểm của hoạt động can thiệp quân sự ............................................................ 37
2.3.2. Nhược điểm của hoạt động can thiệp quân sự....................................................... 37
2.4. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật quốc tế về hoạt động can thiệp
quân sự................................................................................................................................... 38
2.4.1. Tình hình thực hiện hoạt động can thiệp quân sự trên thế giới ........................... 38
2.4.2. Nguyên nhân của các hoạt động can thiệp quân sự trái pháp luật quốc tế ........ 41
2.4.3. Giải pháp khắc phục các hoạt động can thiệp quân sự trái pháp luật quốc tế .. 42
KẾT LUẬN............................................................................................................................ 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................

........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 2 tháng 12 năm 2014


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................

........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 2 tháng 12 năm 2014


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, khi nhắc đến thuật ngữ “can thiệp quân sự” mọi người thường
liên tưởng đến việc sử dụng vũ lực, sức mạnh quân đội để can dự, tác động vào bên
trong lãnh thổ của một quốc gia khác. Do đây là hoạt động mang tính chất cưỡng chế,
nếu hoạt động can thiệp quân sự không được triển khai một cách hợp lí và hợp pháp
thì nó sẽ gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng cả về tài sản lẫn tính mạng. Vì vậy, khi
hoạt động can thiệp quân sự được lựa chọn để thực hiện cần phải cân nhắc cẩn thận và
kĩ lưỡng, bên cạnh mục đích là để giải quyết các vấn đề gây đe doạ, phá hoại đến hoà
bình thì nó còn là biện pháp chứa đựng nhiều rủi ro: Hoạt động can thiệp quân sự vi

phạm nhiều nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế hiện đại. Hoạt động can thiệp
quân sự đang được một số quốc gia, tổ chức sử dụng một cách tuỳ tiện vì lợi ích của
mình. Bên cạnh đó, cùng với những quy định của luật quốc tế, xuất hiện một số quan
niệm, học thuyết được các quốc gia thực hiện hoạt động can thiệp quân sự đơn
phương, trái phép làm cơ sở lí lẽ để biện minh cho việc làm của mình. Từ đây, Người
viết quyết định chọn đề tài “can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiển”
để phân tích những vấn đề nêu trên và góp phần làm sáng toả về cơ sở pháp lý của
hoạt động này.
2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề can thiệp quân sự được nghiên cứu giới hạn trong phạm vi: Chủ yếu nghiên
cứu hoạt động can thiệp quân sự được áp dụng và thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc quy
định tại Chương VII Hiến chương Liên Hiệp Quốc trong trường hợp hoà bình bị đe
doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Bên cạnh đó, đề tài cũng sẽ nghiên cứu sơ
lược về hoạt động can thiệp quân sự được áp dụng theo các học thuyết được một số
nước phát triển nhằm để biện minh cho hoạt động can thiệp quân sự đơn phương của
mình. Nêu lên thực trạng áp dụng đơn phương và trái phép các quy định pháp luật
quốc tế của một số quốc gia và tổ chức về hoạt động can thiệp quân sự.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của hoạt động can thiệp
quân sự trong luật pháp quốc tế. Qua đó, đánh giá, xác định cơ sở pháp lí (trong trường
hợp nào thì can thiệp quân sự được áp dụng, chủ thể thực hiện, thực hiện như thế nào)
của hoạt động này đồng thời định hướng khắc phục những hạn chế, thực trạng đang
tồn tại và phát triển trong thực tiễn.
4. Phương pháp nghiên cứu

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

1

SVTH: Nguyễn Văn Hạ



Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài bao gồm hai biện pháp chính là
phân tích và tổng hợp. Bên cạnh đó, còn kết hợp sử dụng một số biện pháp như liệt kê,
so sánh.
5. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm có 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động can thiệp quân sự
Chương 2: Quy định về hoạt động can thiệp quân sự trong pháp luật quốc tế và thực
tiễn áp dụng

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

2

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP QUÂN SỰ
1.1 Khái quát chung về hoạt động can thiệp quân sự
1.1.1 Khái niệm can thiệp quân sự
Ngày nay, can thiệp quân sự không còn là một thuật ngữ xa lạ đối với mọi người
nó dần trở nên quen thuộc và gần gũi với chúng ta thông qua các phương tiện truyền
thông, báo chí, sách đài… Can thiệp quân sự thường được nhắc đến với nội dung đơn
giản là hoạt động dùng lực lượng quân sự để can dự vào nội bộ của quốc gia khác. Tuy

nhiên, ta cần phân biệt tránh sự đồng nhất giữa hành vi can thiệp quân sự và hành vi
xâm lược. Giữa hai hành vi trên sự khác biệt được phân định cơ bản thông qua mục
đích của hành vi. Hành vi xâm lược là việc sử dụng các lực lượng vũ trang của một
quốc gia đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia khác,
hoặc bằng bất cứ cách nào khác không phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc1.
Mục đích cơ bản của việc xâm lược là xuất phát từ lợi ích của chủ thể xâm lược, để
mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong thời gian dài nên cần một lược lực lượng có quy mô
lớn để giữ đất đai, lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi trên lãnh thổ xâm chiếm. Hành vi xâm
lược là hành vi của tội ác chống lại hoà bình thế giới. Trái lại, mục đích của hành vi
can thiệp quân sự chủ yếu là vì mục đích nhân đạo can thiệp để giải quyết tình hình,
bối cảnh bất ổn, tranh chấp tại của quốc gia, góp phần giữ gìn hoà bình và an ninh thế
giới.
Can thiệp quân sự (Military intervention) được hiểu theo cuốn Từ điển quân sự và
các điều khoản liên quan của bộ quốc phòng Mỹ, năm 2010 2: Là hành động cố ý của
một quốc gia hay một nhóm quốc gia nhằm đưa lực lượng quân sự của mình can thiệp
vào tình hình bất ổn đang tồn tại và gây tranh cãi tại quốc gia khác (Military
intervention-The deliberate act of a nation or a group of nations to introduce its
military forces into the course of an existing controversy ). Theo nghĩa đó, thì hoạt
động can thiệp quân sự không chỉ là chủ ý xuất phát từ một quốc gia mà còn là sự
xem xét và cân nhắc kĩ lưỡng của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động can thiệp quân
sự được định nghĩa theo Từ điển quân sự và các điều khoản liên quan của bộ quốc
phòng Mỹ, 2010 vẫn chưa xác định rõ vấn đề gây tranh cãi để áp dụng hoạt động can
thiệp quân sự ở đây là gì. Điều này đặt ra nhiều giả thuyết về trường hợp nào thì được
áp dụng hoạt động can thiệp quân sự chẳng hạn như: Bất ổn về chính trị, kinh tế hay
thiên tai…
Nghị quyết số 3314 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 14 tháng 12 năm 1974 tuyên b ố về cách định
nghĩa xâm lược, Điều 1.
2 Từ điển quân sự và các điều khoản liên quan của bộ quốc phòng Mỹ ngày 8 tháng 11 năm 2010, sửa đổi thông
qua ngày 16 tháng 7 năm 2014, tr.167.
1


GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

3

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Hoạt động can thiệp quân sự theo quan điểm của luật quốc tế hiện đại, đặc biệt
thông qua nội dung của Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, thì ta có thể khái quát:
Can thiệp quân sự là một hành động liên quan đến việc sử dụng vũ lực do các lực
lượng hải, lục, không quân của các thành viên Liên Hiệp Quốc thực hiện dưới sự thông
qua, chỉ huy và kiểm soát của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhằm tác động, can
thiệp vào quốc gia có động thái đe doạ, phá hoại đến nên hoà bình và an ninh thế giới
hoặc có hành vi xâm lược. Ở đây, trường hợp áp dụng hoạt động can thiệp quân sự
được giới hạn xoay quanh vấn đề hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm
lược. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc là cơ quan có trách nhiệm xác định thực tại
mọi tình hình xem liệu tình hình cụ thể nào có thể đe doạ, phá hoại đến hoà bình hoặc
có hành vi xâm lược.
Tóm lại, can thiệp quân sự có thể được khái niệm là hành động sử dụng lực lượng
vũ trang, quân sự của một hoặc một số quốc gia can dự, tác động vào bên trong lãnh
thổ, công việc nội bộ của một quốc gia khác, trong bối cảnh nền hoà bình an ninh bị đe
doạ, phá hoại hoặc có hành vi xâm lược.
1.1.2 Lược sử hình thành và phát triển của hoạt động can thiệp quân sự
Trước khi tổ chức Liên Hiệp Quốc được hình thành và Hiến chương Liên Hiệp
Quốc có hiệu lực thì hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện với nhiều mục đích
khác nhau, chưa có cơ sở pháp lý quốc tế nào quy định cụ thể dẫn đến việc xác định
như thế nào là một hành động can thiệp quân sự cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế
trở nên không dễ dàng và đầy khó khăn.

Hoạt động can thiệp quân sự xuất hiện với mục đích nhân đạo gắn liền với khái
niệm can thiệp nhân đạo được nhắc đến vào thế kỉ XIII bởi Thomas Aguinas 3. Ở đây,
hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện dưới hình thức sử dụng lực lượng vũ trang
của một quốc gia nhằm bảo vệ cuộc sống và sự tự do của công dân nước mình đang cư
trú trên lãnh thổ của quốc gia khác do quốc gia đó không tự nguyện hoặc không có khả
năng để làm việc đó một mình. Bước vào thế kỉ XIX, với đặc điểm chưa xuất hiện các
quy định về cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế và học thuyết nhân đạo được
các học giả chấp nhận và ủng hộ 4 . Tính hợp pháp của can thiệp nhân đạo được chấp
nhận trên cơ sở luật tập quán quốc tế nên hoạt động can
thiệp quân sự ngày càng được tiến hành rộng rãi để giải quyết các tranh chấp xung đột
quốc tế.
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, vấn đề can thiệp vào công việc nội
bộ của nước khác dường như là một vấn đề tế nhị, khó được chấp nhận. Đặc biệt, sau
khi tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập và Hiến chương có hiệu lực năm 1945,
Trần Thị Vân Trà, Luật quốc tế và học thuyết can thiệp nhân đạo, Khoa luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010,
tr.17-18.
4 Như trên số 3.
3

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

4

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
hoạt động can thiệp quân sự được quy định áp dụng chặt chẽ hơn, chỉ được hành động
can thiệp quân sự khi hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược dưới
sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, trong giai đoạn chiến

tranh lạnh (1945-1991) vai trò và hoạt động của hội đồng bảo an bị tê liệt do cuộc đối
đầu

giữa Liên Xô và Mỹ vì vậy hoạt động can thiệp quân sự trong giai đoạn này dưới

sự chập thuận của Liên Hiệp Quốc diễn ra rất ít và đạt kết quả khiêm tốn.
Trong giai đoạn hiện nay, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hoạt động can thiệp
quân sự với mục đích nhân đạo, đơn phương được thực hiện ngày càng nhiều, với sự
phức tạp ngày càng tăng. Hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện chủ yếu bởi các
cường quốc và tổ chức quân sự thế giới. Song song việc thực hiện can thiệp quân sự
theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và sự chấp thuận của Hội đồng bảo an thì còn xuất
hiện tình trạng can thiệp quân sự không được sự thông qua của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc chẳng hạn như hành động can thiệp quân sự của NATO vào lãnh thổ Liên
bang Nam Tư năm 1999.
1.1.3 Ảnh hưởng của hoạt động can thiệp quân sự
Thứ nhất, đối với tình hình thế giới và an ninh khu vực
Hoạt động can thiệp quân sự nhằm để đẩy lùi những hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế, tranh chấp, tình trạng bạo lực, căng thẳng ở các quốc gia, lãnh thổ tránh
những diễn biến ngày càng phức tạp đe doạ đến tình hình thế giới và an ninh khu vực
đồng thời góp phần tiến tới bảo vệ, khôi phục và duy trì nền hoà bình và an ninh quốc
tế. Hoạt động can thiệp quân sự không chỉ thực hiện vì mục đích giải quyết tình hình
bất ổn tại một quốc gia mà còn góp phần làm hạn chế sự bất ổn, nguy cơ chiến tranh
diễn ra trên diện rộng và ảnh hưởng đến an ninh của các quốc gia trong khu vực. Đặc
trưng của hoạt động can thiệp quân sự là sử dụng lực lượng vũ trang để can dự vào
công việc nội bộ, lãnh thổ của một quốc gia và nó chỉ được thực hiện cho đến khi nào
các đối tượng thực hiện hành vi cần được can thiệp chấp nhận thương lượng hoặc bị
đẩy lùi. Vì vậy, đòi hỏi hoạt động can thiệp quân sự phải được áp dụng một cách chính
xác, thực hiện một cách triệt để, tuân thủ theo pháp luật quốc tế và phù hợp với tình
huống cần được áp dụng, tránh việc can thiệp đơn phương.
Thứ hai, ảnh hưởng đến vấn đề nhân quyền

Can thiệp quân sự không chỉ ảnh hưởng không nhỏ đối với tình hình an ninh thế
giới mà còn đe doạ nghiêm trọng đến vấn đề “nhân quyền”. Tuy, can thiệp quân sự là
hoạt động vì mục đích chống lại sự vi phạm nghiêm trọng về quyền con người nhưng
việc can thiệp bằng công cụ là quân đội vũ trang thì chắc hẳn nhân quyền sẽ bị tác
động, ảnh hưởng không nhỏ.
Nhân quyền (Human rights) là những quyền tự nhiên của con người bao gồm
quyền sống, tự do và an toàn thân thể, quyền không bị tra tấ n và một số quyền khác
GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

5

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
được quy định trong Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền. Bên cạnh đó, bất cứ ai và bất cứ
chính thể nào cũng không có quyền tước bỏ hoặc huỷ diệt những quyền cơ bản của con
người5. Thế nhưng, hoạt động can thiệp quân sự góp phần vào sự phát triển của nhà
nước đàn áp bằng cách tăng cường sức mạnh cưỡng chế của nhà nước và khuyến khích
hành vi đàn áp nhiều hơn, đặc biệt khi nó được hỗ trợ hoặc trung tính với chính phủ
mục tiêu. Từ đó góp phần làm gia tăng khả năng của hoạt động giết người ngoài vòng
pháp luật, tù chính trị và tra tấn ảnh hưởng trầm trọng đến nhân quyền.
Thứ ba, ảnh hưởng đối với tình hình quốc gia được can thiệp quân sự
Đối với tình hình quốc gia được can thiệp: Ảnh hưởng của hoạt động can thiệp
quân sự được xem xét ở hai khía cạnh là lợi ích và khó khăn mang lại. Ở góc độ lợi ích
nếu hoạt động can thiệp đạt được kết quả và thành công thì nó có thể giúp cho quốc
gia sở tại nơi được can thiệp có thể đẩy lùi đi những hành vi vi phạm pháp luật quốc
tế, tình hình bất ổn chính trị trong nước. Trong trường hợp khẩn cấp phức tạp mà các
biện pháp hoà bình được áp dụng nhưng không mang lại hiệu quả thiết thực thì hoạt
động can thiệp quân sự là cần thiết, nó có thể là phương pháp hữu dụng để bảo vệ nhân

quyền, bảo vệ các nạn nhân của những cuộc mâu thuẫn, bất ổn, giúp xây dựng lại
chính sách chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, cuối cùng tiến tới bảo vệ hoà bình.
Tương phản, nếu hoạt động can thiệp quân sự không thành công thì nó không những
không đạt được mục đích đã đề ra mà còn làm gián đoạn nền kinh tế, đưa tình trạng
bạo lực, bất ổn trong nước ngày càng gia tăng và trầm trọng hơn. Ví dụ như hoạt động
can thiệp của Mỹ vào Iraq năm 2003 đã đẩy tình hình chính trị và bạo lực ngày càng
leo thang ở quốc gia này với khoảng 400 thường dân bị giết mỗi tháng6.
1.1.4 Căn cứ áp dụng hoạt động can thiệp quân sự
Hoạt động can thiệp quân sự không chỉ là mối quan tâm tồn tại đối với các chủ thể
quốc gia tham gia hoạt động can thiệp mà nó còn là chủ đề được cả cộng đồng quốc tế
theo dõi và bàn luận bao gồm nhiều quốc gia, cơ quan, tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ
chức Liên Hiệp Quốc. Một câu hỏi luôn được đặt ra đối với vấn đề này là: Khi nào thì
can thiệp quân sự được áp dụng ?
Theo quan điểm của luật quốc tế hiện đại, căn cứ vào Hiến chương Liên Hiệp
Quốc năm 1945 ghi nhận hai trường hợp hoạt động can thiệp quân sự được áp dụng là
tự vệ chính đáng hoặc theo sự quyết định áp dụng Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Trong trường hợp tự vệ
Theo Điều 51 Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã ghi nhận: “Bất kỳ nội dung nào
trong Hiến chương này đều không được hủy hoại quyền tự vệ cá thể hoặc quyền tự vệ
tập thể”. Với quyền tự vệ cá thể hay tập thể chính đáng, các nước thành viên Liên Hiệp
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, Điều 30.
Mark Lattimer, Peoples under Threat 2013 Civilian protection and military intervention , Minority Rights
Group International, Published 2013, page 7.
5
6

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

6


SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Quốc có thể sử dụng vũ lực một cách hợp pháp chống lại quốc gia xâm lược. Tại Điều
51 Hiến chương Liên Hiệp Quốc khi đề cập đến quyền tự vệ của quốc gia đã nhấn
mạnh rằng quyền này chỉ có được trong trường hợp quốc gia bị tấn công vũ trang, và
chỉ khi nào bị tấn công bằng lực lượng vũ trang thì quốc gia bị tấn công mới có quyền
dùng vũ lực (hoạt động can thiệp quân sự) để đánh trả sự tấn công đó.
Trong trường hợp cơ quan Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc quyết định áp dụng can
thiệp quân sự
Hoạt động can thiệp quân sự được Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc quyết định áp
dụng chỉ khi nào cơ quan này xét thấy hành vi của bên vi phạm đe doạ hoà bình, phá
hoại hoà bình hoặc có hành vi xâm lược 7 . Thêm vào đó, hoạt động can thiệp quân sự
được áp dụng sau khi các biện pháp phi quân sự được áp dụng mà không mang lại dấu
hiệu lạc quan.
Bên cạnh các quy định của luật quốc tế hiện đại thì còn có quan điểm, lý luận của
một số học thuyết quốc tế để lý giải cho việc áp dụng hành động can thiệp quân sự
trong đó tiêu biểu nhất là học thuyết nhân đạo (Humanitarian intervention) và học
thuyết trách nhiệm bảo vệ (R2P). Đối với học thuyết nhân đạo và học thuyết trách
nhiệm bảo vệ: Căn cứ áp dụng của hoạt động can thiệp quân sự chủ yếu là từ mục đích
duy trì ổn định và hòa bình trong khu vực ngăn ngừa hoặc ngăn chặn tội ác diệt chủng,
các hành vi vi phạm quyền con người trên quy mô lớn và các thảm họa nhân đạo khác
mà quốc gia sở tại không muốn hoặc không thể giải quyết. Về cơ bản, quy chuẩn này
cho rằng khi một quốc gia không thể hoặc không muốn bảo vệ người dân khỏi những
thảm họa nhân đạo thì cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp để bảo vệ sinh mạng
người dân quốc gia đó thông qua nhiều biện pháp, bao gồm cả biện pháp quân sự8.
Qua quan điểm trên, ta có thể nhận thấy căn cứ cơ bản để thực hiện can thiệp quân sự
là sự vi phạm nghiêm trọng về quyền con người.
1.1.5 Chủ thể tham gia vào hoạt động can thiệp quân sự

Trên thực tế, hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện chủ yếu bởi các cường
quốc về quân sự chẳng hạn như Mỹ, Anh, Pháp… và các tổ chức quốc tế như Liên
Hiệp Quốc, NATO… Can thiệp quân sự là một hành động liên quan đến việc sử dụng
vũ lực do các lực lượng hải, lục, không quân của một hoặc một số quốc gia thực hiện
nhằm tác động, can thiệp vào quốc gia có động thái đe doạ, phá hoại đến nên hoà bình
và an ninh thế giới hoặc có hành vi xâm lược. Do tính chất của hoạt động can thiệp
quân sự là hành động có sự hiện diện và thực hiện bởi lực lượng vũ trang vì vậy đòi
hỏi các chủ thể tham gia phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về quân sự. Căn cứ vào dấu
Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 39.
PLou Pingeot và Wolfgang Obenland, In whose name? A critical view on the Responsibility to Protect, Rosa
Luxemburg Stiftung-New York Office and Global Policy, 2014.
7
8

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

7

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
hiệu nêu trên, chủ thể tham gia vào hoạt động can thiệp quân sự được giới hạn ở hai
chủ thể trong luật quốc tế là quốc gia và các tổ chức quốc tế (tổ chức liên chính phủ).
Đối với chủ thể tham gia hoạt động can thiệp quân sự là quốc gia. Theo pháp luật
quốc tế, một thực thể được coi là quốc gia phải có bốn yếu tố cơ bản: Dân cư thường
xuyên, lãnh thổ xác định, chính phủ, năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ
thể quốc tế khác 9. Khi một hoạt động can thiệp quân sự được triển khai thực hiện đòi
hỏi quốc gia tham gia phải cung cấp một lực lượng vũ trang nhất định cho quá trình
can thiệp. Qua đó, ta có thể nhận thấy chủ thể của hoạt động can thiệp quân sự chủ yếu

là các quốc gia độc lập có chủ quyền, đặc biệt phải có năng lực và sức mạnh quân sự.
Đối với chủ thể tham gia hoạt động can thiệp quân sự là tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc
tế bao gồm hai loại: Tổ chức liên chính phủ và tổ chức phi chính phủ. Ở đây, người
viết chỉ xét đến tổ chức quốc tế là các tổ chức liên chính phủ dựa theo tính đặc thù của
hoạt động can thiệp quân sự là sử dụng lực lượng vũ trang mà tổ chức phi chính phủ là
tổ chức không thuộc về bất cứ chính phủ nào nên không có khả năng huy động lực
lượng quân sự hỗ trợ cho quá trình can thiệp quân
sự. Thông thường nó được thành lập chủ yếu vì mục đích tư vấn phi lợi nhuận, nhân
văn trên các lĩnh vực xã hội, văn hoá…
Định nghĩa theo công pháp quốc tế, tổ chức liên chính phủ là thực thể liên kết các
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế,
có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt động
thường xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó 10 . Qua định nghĩa trên, ta
thấy đặc điểm của tổ chức liên chính phủ là sự liên kết giữa các quốc gia thông qua
việc kí kết một điều ước quốc tế, có cơ cấu hoạt động chặt chẽ nên khả năng xây dựng
và huy động lực lượng quân sự là hoàn toàn hữu hiệu. Tuy nhiên, tổ chức liên chính
phủ được thành lập với nhiều mục đích khác nhau và hoạt động chủ yếu tuân theo mục
đích đã được đề ra, chẳng hạn như tổ chức thương mại thế giới WTO thì chỉ hoạt động
thuộc lĩnh vực thương mại nên nó không thể là chủ thể tham gia hoạt động can thiệp
quân sự. Vì vậy, khi nói đến chủ thể tham gia vào hoạt động can thiệp quân sự là tổ
chức quốc tế (tổ chức liên chính phủ) thì ta cần phải chú ý tới mục đích tôn chỉ hoạt
động của nó phải xoay quanh lĩnh vực quân sự và gìn giữ hoà bình và an ninh thế giới
như tổ chức NATO, Liên Hiệp Quốc…
1.1.6 Mục đích của việc áp dụng hoạt động can thiệp quân sự
Trên thực tế, ta thấy hoạt động quân sự thường xuất phát vì mục đích nhân đạo,
chống các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và gìn giữ
hoà bình an ninh khu vực và thế giới.
9

Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia, Điều 1.

Giáo trình luật quốc tế Đại học luật Hà Nội (tái bản lần thứ 4), NXB Công an nhân dân Hà Nội, 2007, tr.245.

10

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

8

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Mục đích nhân đạo là cơ sở tồn tại và quan điểm lý luận thuyết phục cho vấn đề
can thiệp quân sự. Thông thường thì mục đích nhân đạo là điều kiện hàng đầu và tiên
quyết cho mọi cuộc can thiệp. Chỉ khi có mục đích nhân đạo thì vấn đề can thiệp quân
sự mới được tính đến. Điển hình như cuộc nội chiến giữa lực lượng trung thành với
chính phủ và phe nổi dậy ở Lybia (2011) dẫn đến sự can thiệp quân sự của Mỹ và một
số quốc gia được sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua nghị
quyết số 1973 về thiết lập vùng cấm bay và cho phép sử dụng vũ lực đối với chính
quyền Lybia11. Nghị quyết số 1973 được Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua
cho phép hoạt động can thiệp quân sự ở Lybia nhằm mục đích bảo vệ thường dân
trước những cuộc tấn công dã man và ác liệt của chính quyền Lybia. Hơn thế, các hoạt
động tra tấn, giết chóc, giam cầm từ những cuộc trấn áp tàn bạo đối với những người
biểu tình chống đối của chính quyền Lybia đã vi phạm
nghiêm trọng đến hệ thống quyền con người đặc biệt là quyền sống, quyền tự do và an
toàn cá nhân và không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức
đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục theo Tuyên ngôn quốc tế
nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948 12.
Hoạt động can thiệp quân sự vì mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia được hiểu theo
hai khía cạnh: Lợi ích của quốc gia nơi hoạt động can thiệp được thực hiện (1) và lợi

ích của quốc gia thực hiện hoạt động can thiệp (2). Ở phương diện thứ nhất, thì hoạt
động can thiệp quân sự được thực hiện dưới mục đích để giúp quốc gia thoát khỏi
những tình trạng bất ổn, tranh chấp đang tồn tại. Còn ở phương diện thứ hai, hoạt động
can thiệp quân sự vì lợi ích của quốc gia thực hiện, tức hoạt động chủ yếu vì mục đích
cá nhân không xuất phát từ mục đích chính là nhân đạo, bảo vệ hoà bình, mà nhằm để
thực hiện mưu đồ riêng biệt của cá nhân như hoạt động để hỗ trợ đồng minh, giảm bớt,
triệt tiêu những nguy cơ có thể gây phương hại đến quốc gia mình hoặc vì lợi ích kinh
tế mà hoạt động can thiệp quân sự mang lại. Theo ông Fidel Castro cũng nhận định
thêm: “Có thể thấy rõ ràng Mỹ không hề quan tâm đến hòa bình ở Lybia mà chỉ để mắt
tới trữ lượng dầu mỏ lớn của quốc gia Bắc Phi này”13. Tuy nhiên, trong trường hợp
xuất phát từ mục đích tự vệ khi có hành vi xâm lược hay bị tấn công vũ trang thì hoạt
động can thiệp quân sự không chỉ dừng lại ở mục đích tự vệ nhằm bảo vệ lợi ích, an
nguy của quốc gia mà còn là “quyền” chính đáng được ghi nhận trong luật quốc tế 14 .
Trên thực tế, các quốc gia thực hiện hoạt động can thiệp quân sự không được sự
thông qua của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đều dựa trên danh nghĩa vì mục đích
Toà Án Nhân Dân Tối Cao, Nội chiến ở Libya và câu chuyện “chia bánh”,
id=&item_id=661
3037&p_details=1, [truy cập ngày 15-8-2014].
12 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, Điều 3 và Điều 5.
13 Như trên số 10.
14 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 51.
11

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

9

SVTH: Nguyễn Văn Hạ



Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
nhân đạo và vì lợi ích của quốc gia được thực hiện, để làm cơ sở lý luận biện hộ cho
hành động của mình, nhằm tránh sự lên án và phản đối của cộng đồng quốc tế. Còn
theo pháp luật quốc tế, hoạt động can thiệp quân sự dưới sự tán thành của Hội đồng
Bảo an phải là hành động vì mục đích gìn giữ, bảo vệ hoà bình và an ninh thế giới.
1.1.7 Nguồn luật điều chỉnh của hoạt động can thiệp quân sự
Nguồn luật điều chỉnh là một trong những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về
pháp lý và thực tiễn đối với hoạt động can thiệp quân sự.
Về pháp lý, nguồn luật điều chỉnh chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình viện dẫn và áp dụng hoạt động can thiệp quân sự.
Ngoài ra, nguồn luật điều chỉnh nó còn góp phần xác định vai trò, trách nhiệm
cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào quá trình can thiệp quân
sự.
Về thực tiễn, nguồn luật điều chỉnh hoạt động can thiệp quân sự góp phần tạo nên
một khuôn khổ nhất định trong việc áp dụng cũng như xác định mục đích, thời điểm,
cơ chế hoạt động triển khai, sự phối hợp giữa các chủ thể khi tham gia hoạt động can
thiệp quân sự. Bên cạnh đó, nguồn luật điều chỉnh còn đóng vai trò quan trọng trong
việc làm hạn chế, kìm hãm quá trình can thiệp quân sự không cần thiết giữa các quốc
gia.
Về tổng thể, nguồn luật điều chỉnh của hoạt động can thiệp quân sự bao gồm Hiến
chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc về hoạt động can thiệp quân sự.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945
Hiến chương Liên Hiệp Quốc được kí kết trong Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Tổ
chức Quốc tế tại San Fransisco, California ngày 26 tháng 6 năm 1945 bởi 50 nước
thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày 24 tháng 10 năm 1945 sau khi được phê
chuẩn bởi 5 nước thành viên sáng lập (Trung Hoa Dân Quốc, Liên Bang Xô Viết,
Pháp, Anh, Hoa Kỳ) và phần đông các nước khác 15 . Sự ra đời của Hiến chương gắn
liền với sự thành lập của tổ chức Liên Hiệp Quốc. Nó quy định mục đích, nguyên tắc,
cơ cấu và hoạt động của tổ chức quốc tế này. Trong Hiến chương, hoạt động can

thiệp quân sự được quy định sơ lược thông qua chương VII-Hành động trong trường
hợp hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Trong quan hệ quốc tế,
khi một quốc gia đã kí kết, gia nhập vào tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng đồng nghĩa với
việc là phải tuân thủ theo Hiến chương của tổ chức này và mặc nhiên nó có giá trị
pháp lý đối với quốc gia đó.
Các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về hoạt động can thiệp quân
sự
15

Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, phần giới thiệu.

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

10

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Nếu Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định cơ bản, sơ lược về hoạt động can
thiệp quân sự thì các nghị quyết của Hội đồng Bảo an quy định chi tiết về nội dung và
cách thức thực hiện. Nghị quyết số 83 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông
qua ngày 27 tháng 6 năm 1950 cho phép các quốc gia thành viên can thiệp vào chiến
tranh Triều Tiên cũng như hỗ trợ Hàn Quốc đẩy lùi các cuộc tấn công vũ trang, để
khôi phục lại hoà bình và an ninh trong khu vực. Nghị Quyết số 83 là nghị quyết đầu
tiên đánh dấu việc can thiệp quân sự được thực hiện dưới sự cho cho phép của Liên
Hiệp Quốc. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động gìn giữ hoà bình của mình Hội đồng
Bảo an đã phê chuẩn, thông qua nhiều nghị quyết về việc cho phép sử dụng vũ lực
(can thiệp quân sự) để can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết tình hình bất ổn tại
một quốc gia điển hình như nghị quyết số 678 ngày 29 tháng 11 năm 1990 cho phép

sử dụng vũ lực trong bối cảnh của cuộc xâm lược Iraq vào Kuwait, nghị quyết số
1973 thông qua ngày 17 tháng 3 năm 2011 thiết lập vùng cấm bay và cho phép các
quốc gia thành viên được thực hiện mọi biện pháp để bảo vệ dân thường ở Lybia,
nghị quyết số 2085 thông qua ngày 20 tháng 12 năm 2012 cho phép các nước châu
phi gửi quân đội đến để chiếm lại miền bắc Mali từ tay súng hồi giáo…
Xét về mặt hình thức, các nghị quyết về vấn đề áp dụng can thiệp quân sự được
kí kết giữa Hội đồng Bảo an với một hoặc một nhóm nước thành viên của Liên Hiệp
Quốc và phải được các nước kí kết phê chuẩn theo quy định trong quy trình hợp hiến
của từng nước 16. Nghị quyết mang tính thực chất được thông qua khi 9 uỷ viên của
Hội đồng Bảo an bỏ phiếu thuận, trong đó phải có đủ 5 phiếu thuận của uỷ viên
thường trực, bên liên quan trong tranh chấp sẽ không bỏ phiếu17. Tuy nhiên, nếu như
một nước uỷ viên thường trực không hoàn toàn ủng hộ với đề nghị của nghị quyết
nhưng không muốn từ bỏ quyền phủ quyết, thì nó có thể chọn bỏ phiếu trắng, do đó
nghị quyết sẽ vẫn được thông qua nếu có đủ 9 phiếu thuận18.
1.2 Liên Hiệp Quốc và hoạt động can thiệp quân sự
1.2.1 Sơ lược về tổ chức Liên Hiệp Quốc và cơ quan Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc
Liên Hiệp Quốc
Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương Liên
Hợp Quốc được Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng
quốc Hoa kỳ và đa số các quốc gia kí trước đó phê chuẩn. Tôn chỉ, mục đích của Liên
Hiệp Quốc là góp phần duy trì hoà bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ
hữu nghị giữa các nước, thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề
Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 43.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 27.
18 Liên Hiệp Quốc, Hệ thống bầu cử và hồ sơ, [truy cập ngày
17-8-2014].
16
17


GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

11

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
quốc tế, trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc nhằm đạt được
những mục đích nói trên. Hoạt động của Liên Hiệp Quốc dựa trên cơ sở các nguyên
tắc nền tảng của quan hệ quốc tế: (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các
nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; (6) Giải quyết các tranh
chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình19. Về cơ cấu tổ chức, Liên Hiệp Quốc gồm có
các cơ quan chính (Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng kinh tế-xã hội, Hội đồng
quản thác, Toà án quốc tế và Ban thư ký) và các cơ quan chuyên môn (cơ quan chuyên
môn là các tổ chức quốc tế liên chính phủ điển hình như tổ chức y tế thế giới WHO, tổ
chức lao động quốc tế ILO…) 20 .
Hội đồng Bảo an
Nếu như mục đích chính của Liên Hiệp Quốc là nhằm duy trì hoà bình và an
ninh thế giới thì Hội đồng Bảo an là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc này21.
Thành phần của Hội đồng Bảo an gồm 15 thành viên, trong đó có 5 thành viên thường
trực (Cộng hoà Liên bang Nga, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà Pháp, Liên
hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) và 10 uỷ viên không
thường trực, được Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kỳ 2 năm và không được bầu 2
nhiệm kỳ liên tiếp. Bên cạnh đó, Hội đồng Bảo an còn có các uỷ ban và cơ quan phụ
trợ đáng chú ý như: Các uỷ ban thường trực, ban tham mưu quân sự, uỷ ban nhân viên
quân sự, uỷ ban chống khủng bố, các uỷ ban cấm vận, các hoạt động và lực lượng gìn
giữ hoà bình, các uỷ ban khác và các toà án quốc tế chống các tội ác vi phạm luật nhân

đạo quốc tế 22. Về cơ chế biểu quyết, được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng, mỗi uỷ
viên của Hội đồng Bảo an có một lá phiếu khi thông qua các nghị quyết của Hội đồng
Bảo an. Nghị quyết được thông qua dựa trên nguyên tắc đa số. Theo quy định tại Điều
27 khoản 3 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong trường hợp bỏ phiếu thông
qua những nghị quyết về các vấn đề khác không thuộc về thủ tục thì phải có sự đồng ý
của 9 uỷ viên của Hội đồng, trong đó có tất cả các uỷ viên thường trực bỏ phiếu thuận.
Như vậy chỉ cần một uỷ viên thường trực bỏ phiếu chống là nghị quyết không được
thông qua. Đây chính là quyền phủ quyết (veto) của uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo
an.
1.2.2 Vai trò của Liên Hiệp Quốc đối với hoạt động can thiệp quân sự
Chính phủ, Việt Nam và Liên Hiệp Quốc,
ChiTiet VeTo ChucQuocTe?diplo macy
OrgId=123, [truy cập ngày 18-8-2014].
20 Giáo trình luật quốc tế Đại học luật Hà Nội (tái bản lần thứ 4), NXB Công an nhân dân Hà Nội, 2007, tr.255263.
21 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 24.
22 Giáo trình luật quốc tế Đại học luật Hà Nội (tái bản lần thứ 4), NXB Công an nhân dân Hà Nội, 2007, tr.257258.
19

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

12

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Liên Hiệp Quốc là một tổ chức đa phương toàn cầu, trải qua gần 7 thập kỉ (19452014) hoạt động gìn giữ hoà bình, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên từ 51
thành viên ban đầu cho đến giữa 2014 là 193 thành viên23 . Chứng tỏ phạm vi, ảnh
hưởng và tác động của tổ chức quốc tế này đến đời sống chính trị quốc tế là rất to lớn.
Hoạt động xuất phát chủ yếu từ mục đích duy trì hoà bình và an ninh thế giới và để đạt

được mục đích đó, Liên Hiệp Quốc có thể tiến hành các biện pháp từ hoà bình đến sử
dụng lực lượng vũ trang phù hợp với nguyên tắc công lý và pháp luật quốc tế để ngăn
ngừa và loại trừ các mối đe dọa hòa bình, nhằm trừng trị mọi hành vi xâm lược và phá
hoại hòa bình khác, điều chỉnh hoặc giải quyết các tranh chấp quốc tế hoặc những tình
huống có thể dẫn đến sự phá hoại hòa bình24. Thật vậy, Liên Hiệp Quốc có vai trò
quan trọng trong việc quyết định thực hiện và chi phối hoạt động can thiệp quân sự
trên toàn cầu. Liên Hiệp Quốc quyết định thực hiện hoạt động can thiệp quân sự dưới
sự kiến nghị và quyết định áp dụng của Hội đồng Bảo an. Do là một tổ chức quốc tế
nên Liên Hiệp Quốc không phải trực tiếp thực hiện hoạt động can thiệp quân sự mà
được thực hiện thông qua lực lượng quân sự của các nước thành viên tham gia hoạt
động này, cũng theo đó các nước thành viên thực hiện trên danh nghĩa của Liên Hiệp
Quốc. Ngoài ra, Liên Hiệp Quốc còn tác động, chi phối mạnh mẽ đến hoạt động can
thiệp quân sự. Nó khống chế và làm giảm thiểu hoạt động can thiệp quân sự. Với
phạm vi ảnh hưởng ngày càng to lớn trên toàn thế giới, khi một quốc gia gia nhập, đòi
hỏi hoạt động của quốc gia đó phải phù hợp và tuân thủ tôn chỉ mục đích, nguyên tắc
bảo vệ hoà bình mà Liên Hiệp Quốc đã đặt ra. Không những thế, dư luận quốc tế và
Liên Hiệp Quốc lên án đối với hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện riêng lẻ
không được sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc. Nếu việc làm này vi phạm một cách
có hệ thống những nguyên tắc nêu trong Hiến chương thì có thể bị khai trừ ra khỏi
Liên Hiệp Quốc 25.
1.2.3 Vai trò và quyền hạn của cơ quan Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đối với
hoạt động can thiệp quân sự
Là một trong 6 cơ quan chính của tổ chức Liên Hiệp Quốc, Hội đồng Bảo an được
thành lập và chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Hội
đồng Bảo an là cơ quan giữ vai trò chủ đạo trong việc gìn giữ hoà bình và an ninh
quốc tế (Điều 24 Hiến chương Liên Hiệp Quốc). Theo Điều 39 của Hiến chương Liên
Hiệp Quốc, Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của Liên Hiệp Quốc có quyền quyết
định đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc

Liên Hiệp Quốc, Các nước thành viên của Liên Hiệp Quốc, [truy

cập ngày 19-8-2014].
24 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 1, khoản 1.
25 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 6.
23

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

13

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
hành động xâm lược, khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành
phù hợp với Điều 41 và 42 để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an
ninh thế giới. Theo đó Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp hoà bình nhằm
giải quyết tranh chấp, xung đột, khi cần thiết Hội đồng Bảo an còn có thể sử dụng
hành động kể cả biện pháp cưỡng chế bằng vũ lực (biện pháp can thiệp quân sự). Trên
thực tế, chức năng mà Hội đồng Bảo an được trao chủ yếu hướng đến ba mục tiêu
chính là: Gìn giữ hoà bình, vãn hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình. Thật vậy, Hội đồng
Bảo an giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện hoạt động can thiệp
quân sự. Hoạt động can thiệp quân sự được thực hiện trên danh nghĩa của Liên Hiệp
Quốc tuy nhiên việc thực hiện này phải được sự quyết định áp dụng thông qua bởi Hội
đồng Bảo an thì nó mới được tiến hành trên thực tiễn.
Trong khi thực hiện chức năng duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, Hội đồng Bảo
an được coi là hành động với tư cách thay mặt cho tất cả các thành viên của Liên Hiệp
Quốc, được thể hiện cụ thể qua thẩm quyền định các biện pháp áp dụng trong trường
hợp hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược theo Điều 41 và 42 của
Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Các quyết định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an đều
mang tính ràng buộc, tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc đều có trách nhiệm tôn

trọng và thi hành26 . Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc ngoài những quyền hạn về
việc điều tra, xác định tranh chấp hay bất cứ một tình thế nào dẫn đến tới những xung
đột hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế cho đến quyền đưa ra khuyến nghị về
phương thức cũng như nội dung cụ thể để giải quyết những xung đột đó, Hội đồng Bảo
an còn có quyền điều hành về việc tuyển dụng và chỉ huy, kiểm soát những lực lượng
quân sự tham gia vào hoạt động can thiệp quân sự27.
1.3 Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự với một số nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế
1.3.1 Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc cấm sử dụng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
Với mục tiêu cao cả là gìn giữ, vãn hồi, kiến tạo hoà bình, phòng ngừa cho thế hệ
mai sau khỏi thảm hoạ chiến tranh. Liên Hiệp Quốc đã không chỉ dừng lại ở việc lên
án và cấm chiến tranh xâm lược mà đã chính thức nâng lên thành nguyên tắc cấm sử
dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế tại Điều 2 khoản 4 Hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Theo đó, tất cả các thành viên của Liên Hiệp Quốc có nghĩa
vụ từ bỏ việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại toàn

26
27

Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 41 và Điều 43.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Điều 47, khoản 1.

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

14

SVTH: Nguyễn Văn Hạ



Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của quốc gia khác hoặc bằng cách khác trái với
mục đích của Liên Hiệp Quốc. Trong phạm vi quyền hạn và
những nổ lực của mình, Liên Hiệp Quốc đã từng bước cụ thể hoá qua các văn kiện
quốc tế quan trọng, đáng chú ý là nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
ngày 24 tháng 10 năm 1970 Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp
Quốc. Tuyên bố chỉ ra: Việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực sẽ là sự vi phạm pháp luật
quốc tế và không bao giờ được sử dụng như là các biện pháp giải quyết các vấn đề
quốc tế của quốc gia nào sử dụng nó nhằm mục đích chống lại toàn vẹn lãnh thổ hay
nền độc lập chính trị của bất kì quốc gia nào hoặc bằng cách khác trái với mục đích
của Liên Hiệp Quốc. Nội dung của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng
vũ lực trong quan hệ quốc tế bao gồm28 :
Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế;
Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
Không được cho các quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của nước mình để tiến hành xâm
lược chống quốc gia thứ ba;
Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố
tại các quốc gia khác;
Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượn g vũ
trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào quốc gia khác;
Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược.
Nhìn chung, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế được đề ra là để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, hoà bình, nền độc lập chính trị
của quốc gia, trái lại, cho dù hoạt động can thiệp quân sự được áp dụng trong trường
hợp hoà bình bị đe doạ, phá hoại hoặc có hành vi xâm lược dưới sự chấp thuận của
Hội đồng Bảo an nhưng khi thực hiện quá trình can thiệp quân sự thì hoạt động này
bắt buộc phải xâm phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập, chính trị của quốc gia
khác. Cả hai nguyên tắc và hành động trên cốt lõi đều xuất phát từ một mục đích là
bảo vệ nền hoà bình và an ninh thế giới. Tuy nhiên, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực

hoặc đe doạ dùng vũ lực được hình thành trong Hiến chương nhằm để chi phối và tạo
nên một khuôn khổ cho các quốc gia thành viên tuân thủ thực hiện còn hoạt động can
thiệp quân sự (hành động theo Điều 42 Hiến chương Liên Hiệp Quốc) được quy định
để hành động khi các quốc gia không tuân thủ nguyên tắc này mà có ảnh hưởng

Nghị quyết số 2625 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 24 tháng 10 năm 1970 Tuyên bố về những nguyên
tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên
Hiệp Quốc, phần 1 tuyên bố những nguyên tắc.
28

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

15

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
nghiêm trọng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Tóm lại, hoạt động can thiệp quân sự
được sự thông qua của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc là một
trong những trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng
vũ lực trong quan hệ quốc tế.
1.3.2 Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc không can thiệp
vào nội bộ của quốc gia khác
Công việc nội bộ của mỗi quốc gia là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết
của mỗi quốc gia độc lập bao gồm cả công việc đối nội lẫn đối ngoại xuất phát từ chủ
quyền của mình. Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được thực
hiện theo hai cách gián tiếp và trực tiếp.
Can thiệp gián tiếp
Thông qua các biện pháp quân sự, kinh tế-tài chính,... do quốc gia tổ chức, khuyến

khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm mục đích lật đổ chính quyền hợp
pháp của quốc gia đó hoặc gây mất ổn định cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
nước này.
Can thiệp trực tiếp
Dùng áp lực quân sự, chính trị, kinh tế,… và các biện pháp khác khống chế quốc
gia khác trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền để nhằm ép buộc quốc gia đó
phải phụ thuộc vào mình.
Không một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp và với bất kì lý do nào vào các công việc đối nội hoặc đối ngoại của một
quốc gia khác. Vì thế, can thiệp quân sự và tất cả các hình thức can thiệp hoặc mưu
toan đe doạ nhằm chống lại phẩm cách của quốc gia hoặc chống lại cơ sở chính trị,
kinh tế và văn hoá của quốc gia đó sẽ được coi là vi phạm pháp luật quốc tế 29. Tuy
nhiên, nếu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc quyết định áp dụng hoạt động can thiệp
quân sự như là một hành động cần thiết và cấp bách để gìn giữ hoà bình chống các
hành vi xâm lược, thì hoạt động đó sẽ được áp dụng và không được coi là hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế theo quy định tại Điều 2 khoản 7 Hiến chương Liên Hiệp
quốc. Do đó, nếu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc xác định được sự tồn tại của các
mối đe doạ, phá hoại đến hoà bình và các hành động xâm lược đang diễn ra trong
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nào thì việc đó không còn thuần tuý là công việc
nội bộ của quốc gia và hành động can thiệp quân sự trong trường hợp này của Liên
Hiệp Quốc không được coi là sự can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia. Như
vậy, hoạt động can thiệp quân sự được sự thông qua của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc là một trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ
của quốc gia khác.
29

Như trên số 26.

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như


16

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
1.3.3 Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
đóng vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như duy trì một trật tự
quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia. Thật vậy, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền
giữa các quốc gia là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế, đặc biệt nó được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc cơ bản được
ghi nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Bình đẳng chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện
quyền tối thượng của quốc gia trong lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia
trong quan hệ quốc tế. Cụ thể, bình đẳng về chủ quyền bao gồm các nội dung30:
Tất cả các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;
Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền hoàn toàn;
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng tư cách của các quốc gia khác;
Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm;
Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá
và xã hội của mình;
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và có thiện chí các nghĩa vụ quốc
tế của mình và chung sống hoà bình với các quốc gia khác.
Theo nguyên tắc này thì mỗi quốc gia đều có các quyền bình đẳng sau31:
Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ về chế độ chính trị, kinh
tế, xã hội và văn hoá;
Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị ngang

nhau;
Được kí kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc
gia khác;
Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các
quốc gia khác.
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia có quyền tối thượng về lập pháp,
hành pháp và tư pháp mà không có bất kì sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời
quốc gia được tự lựa chọn cho mình phương thức thích hợp nhất để thực thi quyền lực
trong phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên, quốc gia có thể thực thi quyền lực tối cao trong
phạm vi lãnh thổ của mình một cách trọn vẹn. Xét đến trường hợp can thiệp quân sự
Như trên số 26.
Giáo trình luật quốc tế Đại học luật Hà Nội (tái bản lần thứ 4), NXB Công an nhân dân Hà Nội, 2007, tr.4243.
30
31

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

17

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
tại Lybia, việc thiết lập vùng cấm bay nhằm ngăn cản chính quyền Libya thực hiện các
cuộc không kích vào các lực lượng nổi dậy theo nghị quyết số 1973 của Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 17 tháng 3 năm 2011, liệu việc làm này có vi phạm
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia (1).
Trong phạm vi quốc tế, mỗi quốc gia có quyền tự quyết định chính sách đối ngoại
của mình mà không có sự áp đặt từ chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của

mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Điều này có nghĩa là các quốc gia dù lớn hay
nhỏ dù giàu hay nghèo đều có quyền độc lập như nhau trong quan hệ quốc tế. Sự “bình
đẳng” được đề cập đến trong nguyên tắc này không phải là bình đẳng theo nghĩa
ngang bằng nhau về tất cả các quyền và nghĩa vụ mà được hiểu là bình đẳng trong
quyền tự quyết mọi vấn đề liên quan đến đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia. Thực
tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế của các quốc
gia là không giống nhau, trong một số trường hợp luật quốc tế đã trao cho một số quốc
gia những quyền đặc biệt mà các quốc gia khác không có điển hình như quyền bỏ
phiếu thông qua những vấn đề không thuộc phần thủ tục cụ thể là bỏ phiếu tán thành
việc thực hiện hoạt động can thiệp quân sự và chỉ được thông qua khi 9 thành viên Hội
đồng Bảo an chấp thuận nhưng trong đó bắt buộc phải có sự bỏ phiếu thuận của 5
nước uỷ viên thường trực. Quy định trên có tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm
những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế (2).
Lý giải cho các vấn đề (1) và (2) theo quan điểm của người viết, các hành vi trên
không tạo ra sự bất bình đẳng và vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các
quốc gia. Vấn đề (1) là trường hợp quốc gia bị hạn chế chủ quyền: Trường hợp này chỉ
đặt ra đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoà bình thế giới và việc bị hạn chế chủ quyền là biện pháp trừng phạt của
cộng đồng quốc tế đối với quốc gia đó. Vấn đề (2) là trường hợp quốc gia tham gia
vào Liên Hiệp Quốc với tư cách đã là thành viên tự nguyện trao quyền cho một chủ thể
khác ở đây là Liên Hiệp Quốc một số thẩm quyền thuộc chủ quyền, được thay mặt
mình trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của quốc gia. Quốc gia khi tự nguyện
tham gia tổ chức quốc tế (Liên Hiệp Quốc), thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia
thành viên, chịu sự chi phối nhất định của tổ chức quốc tế đó.
1.3.4 Mối quan hệ giữa hoạt động can thiệp quân sự và nguyên tắc hoà bình giải
quyết các tranh chấp quốc tế
Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hiệp Quốc có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau trong một chỉnh thể thống nhất, góp phần tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát
triển. Điển hình, nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc
cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế là hai nguyên tắc

có mối quan hệ mật thiết với nhau. Về nội dung thực hiện, cả hai nguyên tắc đều hạn
GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

18

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
chế và không khuyến khích sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đối với việc giải
quyết tranh chấp giữa các chủ thể quốc tế hai nguyên tắc này thể hiện sự đối lập nhau
về phương thức thực hiện, trong khi nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp
hoà bình gắn liền với nghĩa vụ không sử dụng vũ lực hoặc không đe doạ dùng vũ lực
ngược lại nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc
tế vẫn chưa đạt tới sự tuyệt đối khi vẫn còn tồn tại ngoại lệ được sử dụng vũ lực trong
trường cần thiết để duy trì và khôi phục hoà bình, an ninh quốc tế.
Nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế được hiểu là việc áp dụng
các biện pháp không làm nguy hại đến hoà bình và an ninh quốc tế, và công lý32. Các
biện pháp hoà bình bai gồm đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa
án, sử dụng trung gian khu vực, thỏa thuận hoặc những biện pháp hòa bình khác do
các bên lựa chọn33.
Trong trường hợp các biện pháp hoà bình đã được áp dụng tuy nhiên việc áp dụng
vẫn không đạt được kết quả, không giải quyết được vấn đề và tranh chấp tiếp tục được
kéo dài thì nó sẽ tạo ra mối đe doạ nghiêm trọng đến nền hoà bình và an ninh quốc tế.
Trong tình huống trên, việc tranh chấp sẽ không còn là vấn đề giữa các bên tranh chấp
mà nó đã trở thành trách nhiệm quốc tế, Liên Hiệp Quốc sẽ thực hiện chức năng của
mình là hành động gìn giữ hoà bình và có thể sử dụng các biện pháp vũ lực (can thiệp
quân sự).
Nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là tiền đề để thực hiện hoạt
động can thiệp quân sự. Nói như vậy là vì các biện pháp hoà bình sẽ được áp dụng ưu

tiên để giải quyết tranh chấp quốc tế và hoạt động can thiệp quân sự chỉ là phương án
cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp, khi hoà bình và an ninh thế giới bị đe doạ,
phá hoại, các biện pháp hoà bình không phát huy tác dụng và phù hợp.
1.4 Một số quan điểm lý luận được các nước áp dụng trong hoạt động can thiệp
quân sự
Trên thực tế, can thiệp quân sự không chỉ là hoạt động được quy định và nhắc đến
trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945 thông qua hành động của hải, lục, không
quân theo Điều 42 mà còn có nhiều học thuyết phát triển làm cơ sở lý lẽ được các quốc
gia sử dụng để biện minh cho hành động can thiệp quân sự đơn phương, trái phép của
mình, tiêu biểu là hai học thuyết: Học thuyết nhân đạo và học thuyết trách nhiệm bảo
vệ (R2P).
1.4.1 Can thiệp quân sự-áp dụng theo học thuyết nhân đạo

32
33

Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Điều 2, khoản 3.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Điều 33, khoản 1.

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

19

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


Can thiệp quân sự trong luật quốc tế lý luận và thực tiễn
Can thiệp quân sự được áp dụng theo học thuyết nhân đạo hay còn gọi là can thiệp
nhân đạo cách gọi vắn tắt dựa trên mục đích chính yếu của việc can thiệp là từ mục
đích nhân đạo.

Can thiệp vì lý do nhân đạo không được phép của Hội đồng Bảo an là một thực tế
đã và đang diễn ra mà cộng đồng quốc tế phải đối mặt. Để biện dẫn cho hành động can
thiệp này một số chuyên gia luật học đã phát triển thành học thuyết nhân đạo. Ý tưởng
can thiệp nhân đạo về mặt lý luận đã được giáo sư luật người Pháp (Mario Bettsti) và
vị bác sĩ, chính trị học người Pháp (Bernard Kouchner) phát triển vào cuối những năm
1970 sau khi trực tiếp chứng kiến khủng hoảng nhân đạo tại Nigeria do cuộc chiến
Biafran gây ra. Hai ông M.Bettati và B.Kouchner đã đưa ra các học thuyết về “quyền
can thiệp” (droit d’ingérence), học thuyết về “nghĩa vụ can thiệp” (respnsabilité
d’ingérence) với các lập luận rằng: Quyền được sống là quyền cơ bản nhất của con
người. Ý tưởng can thiệp nhân đạo lúc đầu xuất hiện chủ yếu dựa trên yêu cầu về mặt
lương tâm, đạo đức, đó là “chúng ta không thể để mặc cho người dân bị chết được thể
hiện trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền con người năm 1948 34 .
Can thiệp nhân đạo là việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực bởi một hoặc một số quốc
gia vào lãnh thổ của quốc gia khác nhằm mục đích ngăn chặn hoặc kết thúc sự lan
rộng và ảnh hưởng nghiêm trọng của các hành vi vi phạm đến những quyền cơ bản của
con người (nhân quyền) mà công dân của quốc gia đó đang phải gánh chịu, và việc can
thiệp không được sự đồng ý của quốc gia được áp dụng35. Theo định nghĩa này, hoạt
động can thiệp nhân đạo được thực hiện dưới hai hình thức: Vũ lực và phi vũ lực. Can
thiệp nhân đạo được áp dụng bằng vũ lực nhằm mục đích nhân đạo để bảo vệ và giải
thoát người vô tội của quốc gia được can thiệp khỏi tình trạng căng thẳng, xung đột mà
đe doạ trầm trọng đến nhân quyền. Can thiệp nhân đạo phi vũ lực là hoạt động can
thiệp được thực hiện bằng các biện pháp đe doạ hoặc sử dụng trừng phạt về kinh tế,
chính trị, ngoại giao… Bên cạnh đó, tuy không nằm trong định nghĩa về hoạt động can
thiệp nhân đạo trong bài viết, hoạt động can thiệp nhân đạo còn được thực hiện dưới
mục đích viện trợ và cứu trợ đối với các thảm hoạ từ thiên nhiên gây ra như: Bão lụt,
núi lửa, sóng thần… Tuy nhiên ở đây, người viết không đề cập đến vấn đề can thiệp
nhân đạo bằng biện pháp phi vũ lực mà chỉ phân tích đến vấn đề can thiệp nhân đạo
bằng hoạt động sử dụng vũ lực vì đây là vấn đề còn gây nhiều tranh cải về khía cạnh
pháp lý cũng như về mặt nhân đạo mà biện pháp này mang lại.


Ngô Văn Thìn, can thiệp nhân đạo quốc tế, Khoa luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, phần mở đầu.
J. L. Holzgrefe and Robert O. Keohane, Humanitarian intervention ethical, legal, and political dilemmas,
Cambridge university press, First published 2003, page 18.
34
35

GVHD: Th.S Nguyễn Tống Ngọc Như

20

SVTH: Nguyễn Văn Hạ


×