Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện trong vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.53 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011-2015)

Đề tài
QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM
QUYỀN KHỞI KIỆN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Trương Thanh Hùng

Nguyễn Quốc Huy

Bộ môn: Luật Tư Pháp

MSSV: 5118677
Lớp: Luật Tư Pháp – K37
Cần Thơ, 11/2014


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô của trường Đại học Cần
Thơ đã tận tình giảng dạy, cung cấp lượng kiến thức vô cùng quý báu cho em
trong chương trình Đại học. Giúp em nắm vững những vốn lý thuyết để có thể tự
tin vận dụng vào thực tiễn, làm hành trang vững chắc bước vào cuộc sống, cải
thiện kinh tế và có thể góp một phần nhỏ của mình vào việc xây dựng xã hội phát


triển.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Giảng viên hướng dẫn - thầy Trương
Thanh Hùng, em cảm ơn Thầy đã giúp đỡ em trong thời gian em làm luận văn vừa
qua. Cảm ơn Thầy đã tận tình sửa chữa, hướng dẫn em để em có thể hoàn thành tốt
luận văn tốt nghiệp cử nhân luật như hôm nay.
Em gửi lời cảm ơn đến các Cô, Chú làm việc tại Tòa án nhân dân huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp đã giải đáp những thắc mắc về những vấn đề trên thực tế,
cũng như cung cấp những tài liệu quý báu giúp em có thể hoàn thành tốt luận văn
tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy, Cô trong Hội
đồng bảo vệ luận văn tốt nghiệp đã cung cấp thêm những kiến thức mới để em có
thể sửa chữa những chỗ còn sai sót, cũng như bổ sung để vốn kiến thức của em
được vững vàng hơn. Cảm ơn các thầy cô đã nhiệt tình góp ý giúp em có thể hoàn
thiện hơn luận văn tốt nghiệp của mình.
Em xin gửi lời chúc sức khỏe và thành công đến các Thầy, Cô và các Cô,
Chú công tác tại Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Em xin chân
thành cảm ơn.


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
NHẬN XÉT CỦA THẦY CÔ TRONG HỘI ĐỒNG

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................3
5. Cấu trúc đề tài ......................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN
VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
1.1.Lý luận chung về quyền khởi kiện ....................................................................4
1.1.1. Khái niệm quyền khởi kiện .................................................................................. 4
1.1.2. Điều kiện thực hiện quyền khởi kiện ................................................................ 10
1.1.3. Ý nghĩa của quyền khởi kiện ............................................................................. 15

1.2. Lý luận chung về cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện ......................................16
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện ..... 17
1.2.2. Chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện . 17
1.2.3. Ý nghĩa nghiên cứu quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện ..... 20


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................21
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện vụ án dân sự ...22
2.1.1. Điều kiện thực hiện quyền khởi kiện ................................................................ 22
2.1.1.1. Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện ............................................................... 22
2.1.1.2. Vụ việc phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án ................................ 30
2.1.1.3. Vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật ...................................... 31
2.1.1.4. Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện ................................................................ 33
2.1.2. Thực hiện việc khởi kiện vụ án dân sự ............................................................. 34
2.1.2.1. Phạm vi khởi kiện......................................................................................... 34
2.1.2.2. Hình thức của đơn khởi kiện ........................................................................ 35
2.1.2.3. Nội dung của đơn khởi kiện ......................................................................... 36
2.1.2.4. Cách thức gửi đơn khởi kiện ........................................................................ 37


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

2.2. Quy định của pháp luật về cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự .38
2.2.1. Chủ thể bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự .............................................. 38
2.2.2. Những cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự .................................... 39
2.2.2.1. Các quy định bảo đảm việc thực hiện quyền khởi kiện ................................ 39
2.2.2.2. Các quy định về bảo đảm quyền khởi kiện sau khi nguyên đơn đã thực hiện
việc khởi kiện ............................................................................................................ 43
2.2.2.3 Bảo đảm quyền khởi kiện thông qua các quy định về hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng ....................................................................................................... 48

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................56

CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN KHỞI KIỆNVÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1. Thành tựu đạt được trong việc các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm
quyền khởi kiện ......................................................................................................58
3.2. Việc thực hiện quyền khởi kiện của đương sự ..............................................60
3.2.1. Thực trạng chung .............................................................................................. 60
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện chung .............................................................................. 62

3.3. Tính hợp lý của điều kiện khởi kiện và thụ lý vụ án .....................................62
3.3.1. Điều kiện về thủ tục hòa giải ở cơ sở ............................................................... 62
3.3.1.1. Thực trạng .................................................................................................... 62
3.3.1.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 63
3.3.2. Điều kiện về thời hiệu khởi kiện ....................................................................... 63
3.3.2.1. Thực trạng .................................................................................................... 63
3.3.3.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 65
3.3.3. Điều kiện về nội dung đơn khởi kiện ................................................................ 66
3.3.3.1. Thực trạng .................................................................................................... 66
3.3.3.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 67

3.4. Cơ chế hỗ trợ, bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự ...............................68
3.4.1. Sự hỗ trợ trong việc bảo vệ, thu thập chứng cứ, tài liệu .................................. 68
3.4.1.1. Thực trạng .................................................................................................... 68
3.4.1.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 68
3.4.2. Sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
tố tụng dân sự ............................................................................................................... 69


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

3.4.2.1. Thực trạng .................................................................................................... 69
3.4.2.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 69
3.4.3. Cơ chế chuyển hóa giữa việc dân sự và vụ án dân sự ..................................... 70
3.4.3.1. Thực trạng .................................................................................................... 70
3.4.3.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 71
3.4.4. Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự .................................................. 71
3.4.4.1. Thực trạng .................................................................................................... 71
3.4.4.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 71

3.5. Bảo đảm quyền khởi kiện từ phía cơ quan, tổ chức Nhà nước ....................71
3.5.1. Bảo đảm quyền khởi kiện từ phía Tòa án......................................................... 71
3.5.1.1. Thực trạng .................................................................................................... 71
3.5.1.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 74
3.5.2. Bảo đảm quyền khởi kiện từ phía Viện Kiểm sát ............................................. 75
3.5.2.1. Thực trạng .................................................................................................... 75
3.5.2.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 75

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................75
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................76


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

BLTTDS
BLDS
TTDS
VADS
TANDTC
VKSNDTC
HĐTP

UBND

BẢNG VIẾT TẮT
Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật dân sự
Tố tụng dân sự
Vụ án dân sự
Tòa án nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Hội đồng thẩm phán
Ủy ban nhân dân


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI thông qua ngày 15 tháng 06 năm 2004 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng
01 năm 2005. Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2011. Có thể nói, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển của ba Pháp lệnh
trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước trên thế giới.
BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định
về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy định về quyền
khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện.
Vấn đề quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện là vấn đề luôn được các
nhà nghiên cứu về tố tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới quan tâm. Xét ở
Việt Nam hiện nay, thì các quy định trong pháp luật tố tụng nước ta cơ bản đã phần nào thể

hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì còn nhiều vấn đề về quyền khởi
kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện chưa được giải quyết triệt để. Thực tiễn tố tụng tại
Tòa án cũng cho thấy, trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện của đương sự đã không được
tôn trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền
khởi kiện trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng
mắc trong việc áp dụng và dẫn tới những cách hiểu và vận dung khác nhau. Đây chính là
những nguyên nhân của việc áp dụng tùy tiện , làm cho quyền khởi kiện vụ án dân sự của
đương sự không được thực thi hiệu quả trên thực tế. Ngoài ra việc nghiên cứu đề tài này
cũng cho thấy một số quy định của pháp luật hiện hành chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của
việc bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn
diện hơn về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện cả về phương diện lý luận
và thực tiễn là điều hết sức cần thiết, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự trên thực tế.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết lựa chon đề tài nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp cử nhân là “Quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện trong vụ án
dân sự”.

GVHD: Trương Thanh Hùng

1

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích ngiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vần đề lý luận cũng như nội dung
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền khởi kiện, chỉ ra

những điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định hiện hành về quyền khởi kiện
và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng tỏ việc
bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện trên thực tế. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp,
luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện đồng thời nâng cao hiệu quả
của việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện trên thực tế.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm
quyền khởi kiện;
Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có liên quan
tới quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện và thực tiễn áp dụng chúng tại Tòa
án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền
khởi kiện cũng như bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện;
Thứ ba, đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện hướng tới
nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và các quy định liên
quan, cũng như thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm
quyền khởi kiện phục vụ việc làm rõ nội dung của đề tài này.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, lý luận chung về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện
Thứ hai, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện và cơ chế bảo
đảm quyền khởi kiện

GVHD: Trương Thanh Hùng


2

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền
khởi kiện thông qua các hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin, cơ sở đường lối của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Đồng thời, trong quá trình nghiên
cứu, người viết còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thực tiễn và cuối cùng là phương pháp loại trừ.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1. Lý luận chung về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện và cơ chế bảo
đảm quyền khởi kiện
Chương 3. Thực tiễn việc thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm
quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự và kiến nghị giải pháp hoàn thiện

GVHD: Trương Thanh Hùng

3

SVTH: Nguyễn Quốc Huy



QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN
VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN
▬►☼◄▬
Lý luận chung về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện là cơ sở khoa
học nghiên cứu quy định pháp luật về quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện.
Ở chương này, luận văn tập trung làm sáng tỏ một số khái niệm như “Quyền khởi kiện” và
“Bảo đảm quyền khởi kiện” làm cơ sở phân tích cho các quy định liên quan.
Điều kiện gì để một chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung như quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, thương mại…trở thành chủ thể có quyền khởi kiện
vụ án dân sự đến Tòa án yêu cầu giải quyết khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị vi phạm
hay xâm hại?
Theo đó, những chủ thể nào có quyền khởi kiện vụ án dân sự đến Tòa án? Pháp luật tố
tụng ngoài việc ghi nhận quyền khởi kiện của đương sự đồng thời ghi nhận cơ chế bảo đảm
quyền đó được thực thi hiệu quả, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khi
quyền, lợi ích hợp pháp đó bị vi phạm hay xâm hại.
1.1. Lý luận chung về quyền khởi kiện
Nội dung Mục 1.1 tập trung xây dựng khái niệm về quyền khởi kiện, điều kiện của
quyền khởi kiện, ý nghĩa của quyền khởi kiện. Khái niệm quyền khởi kiện được hiểu theo
hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp, là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu, xây dựng điều
kiện khởi kiện. Việc nghiên cứu quyền khởi kiện có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố
tụng dân sự Việt Nam nói chung, trong quá trình giải quyết VADS nói riêng.
1.1.1. Khái niệm quyền khởi kiện
Cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân được ghi nhận bằng pháp luật của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện thông
qua các thiết chế do Nhà nước thiết lập. Theo đó, quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân được
ghi nhận và khi chủ thể cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì có

quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
So sánh lịch sử Tố tụng dân sự thế giới đã cho thấy, về cơ bản quyền khởi kiện đã được
biết đến từ thời xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở Nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy
Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước Công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố tụng là công tố (hoạt
động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động trạm trực tiếp hay gián tiếp đến lợi ích của
GVHD: Trương Thanh Hùng

4

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt
động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến lợi ích riêng của ai đó); còn ở thời
La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nước chiếm
hữu nô lệ thì quyền khởi kiện cũng được ghi nhận trong các vụ án động chạm đến lợi ích cá
nhân của tầng lớp trên trong xã hội, cụ thể là khi có hành vi xâm phạm quyền tư pháp của cá
nhân thì người có quyền lợi bị xâm hại bên cạnh việc sử dụng hình thức tự trấn áp, họ còn có
quyền khởi kiện đến Tòa án nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Đến thời phong kiến Việt
Nam, quyền khởi kiện cũng được thừa nhận và quy định cụ thể trong những Chiếu dụ của
nhà vua, những quy định này được thể hiện mạnh mẽ và sâu sắc điển hình là trong Luật Gia
Long và Luật Hồng Đức1.
Trong xã hội hiện đại, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con người trong
tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 và các công ước quốc tế khác. Quyền khởi kiện là
một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con người và suy cho cùng thì quyền khởi
kiện là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội được pháp luật ghi nhận nhằm đảm
bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp pháp của mình được thực hiện. Điều này được thể

hiện tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1984. Theo đó “Mọi người đều có
quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu
lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật
công nhận”. Như vậy, quyền khởi kiện được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và là cơ sở
vững chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng được thừa
nhận đối với cá nhân được yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt được sự tôn trọng các
quyền và lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển thuật ngữ luật học của Pháp thì tố quyền
trước công lý là khả năng được thừa nhận đối với các chủ thể được cầu viện tới công lý để
đạt được sự tôn trọng các quyền lợi và lợi ích chính đáng. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân
sự mới của Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố quyền” được dịch là quyền tham gia tố tụng
theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với người có yêu cầu là quyền được trình bày về nội
dung yêu cầu của mình để Thẩm phán quyết định xem xét yêu cầu như vậy là có căn cứ hay
không có căn cứ; đối với bên bị kiện quyền tham gia tố tụng là quyền được tranh luận về căn
cứ của yêu cầu do bên kia đưa ra”2.

1

Lê Thu Hà, Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý án dân sự trong Pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam, 2012, tr. 05.

2

Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, 1998.

GVHD: Trương Thanh Hùng

5

SVTH: Nguyễn Quốc Huy



QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Ở Việt Nam, về phương diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh cho rằng “tố
quyền tức là có quyền đi kiện” . Tố quyền đối vật, mục đích nhằm một vật gì, động sản hay
bất động sản. Tố quyền đối nhân, nhằm vào một công việc phải làm, liên quan đến một
người hay một trái vụ. Tố quyền hỗn hợp vừa có tính cách đối vật, vừa có tính chất đối
nhân3. TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của
Trường Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của
công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình, của tập thể, của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi
phạm”4.
Có thể thấy rằng, theo kết quả nghiên cứu về quyền khởi kiện trong luật thực định Việt
Nam, mặc dù không được quy định trực tiếp về quyền khởi kiện nhưng được ghi nhận gián
tiếp tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản khác đã cụ thể hóa và ghi nhận quyền khởi
kiện của đương sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nội
dung và pháp luật tố tụng.
Tiếp tục nghiên cứu về lý luận cho thấy, trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa rất rộng. Trên quan điểm đó,
quyền khởi kiện đồng nhất với quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
BLTTDS hiện nay. Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước cho phép
công dân được yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho
rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp
lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…Tuy nhiên,
BLTTDS năm 2004 ra đời đã tách thủ tục giải quyết vụ việc dân sự trước đây thành hai thủ
tuc tố tụng riêng biệt là thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự nên
khái niệm quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước đây. Có nghĩa là quyền khởi

kiện không bao gồm cả quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận hay không công nhận một
sự kiện pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động như trước đây nữa mà quyền khởi kiện được hiểu là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong vụ án dân sự.

3

Trần Thúc Linh, Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, 1964, tr. 46.

4

Hoàng Ngọc Thỉnh, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 1998, tr. 08.

GVHD: Trương Thanh Hùng

6

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Theo ThS. Ngô Quang Liễn thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan
trọng của các chủ thể. Nó cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá
nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác”. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát
sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự 5. Từ góc nhìn này tiếp tục được khẳng định bởi TS.

Phan Chí Hiếu trong giáo trình Luật tố tụng Dân sự của Học viện Tư pháp. Theo đó, “quyền
khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc
các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, của tập thể hay của người khác đang bị tranh
chấp hoặc vi phạm”.
Khi có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chủ thể có thể bảo vệ bằng các phương
thức khác nhau như yêu cầu người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi đó, yêu cầu cơ
quan Nhà nước tổ chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ. Tuy nhiên, một
trong những phương pháp được xem là công cụ pháp lý hữu hiệu mà chủ thể dùng bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong trường hợp bị xâm phạm hay tranh chấp là khởi kiện vụ án
dân sự. Theo đó, TS. Nguyễn Công Bình đã có khái niệm “khởi kiện vụ án dân sự là việc cá
nhân, cơ quan, tổ chức hoặc chủ thể khác theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hay lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước khi bị xâm phạm hoặc tranh chấp”6.
Như vậy, quyền khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi quyền
hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay
lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ chức của mình phụ trách khi
quyền, lợi ích đó bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
Các phân tích ở trên cho thấy rằng xét về bản chất thì quyền khởi kiện là quyền yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Một cách tổng
quan nhất về quyền khởi kiện từ những kết quả nghiên cứu trên, thì bản chất của quyền khởi
kiện chính là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ bảo vệ quyền, lợi ích của mình khi quyền, lợi ích
đó bị tranh chấp hay vi phạm. Theo quan điểm này cần phát triển khái niệm quyền khởi kiện
5

Ngô Quang Liễn, Bình luận khoa học Bộ luật tố tung dân sự năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2011, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 28.
6

Nguyễn Công Bình, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. GDVN, 2011, tr.195.


GVHD: Trương Thanh Hùng

7

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

ở hai góc độ, theo nghĩa hẹp quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn và theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
lợi của nguyên đơn; quyền phản tố của bị đơn (kiện ngược lại nguyên đơn) và quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi của người có quyền và nghĩa vụ liên quan, họ đã không thực hiện
quyền yêu cầu của mình trước khi nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện vụ án.
- Xét theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện là quyền của nguyên đơn trong việc yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hay bị vi phạm.
Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của chủ thể
có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền này sẽ làm phát
sinh vụ án dân sự tại Tòa án. Xét về thực chất thì đây là quyền của chủ thể có quyền lợi bị
xâm phạm trong việc bắt đầu việc kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, thông qua việc đệ đơn
yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vụ án dân sự. Đó là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng
thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Chính việc khởi kiện của nguyên đơn là cơ sở pháp lý làm
phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, không có hành vi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự thì không có các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Như vậy, việc xác định
quyền khởi kiện của nguyên đơn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tư cách pháp lý
của các đương sự còn lại khi họ tham gia vào quá trình tố tụng tại Tòa án.
- Xét theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện bao hàm cả quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi

của người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn có quyền khởi kiện và bị đơn có quyền phản bác lại việc khởi kiện của
nguyên đơn. Việc ghi nhận quyền của bị đơn được phản tố lại yêu cầu của nguyên đơn xuất
phát từ đảm bảo sự bình đẳng quyền giữa các đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp có mối liên quan đến nhau
thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố của nguyên đơn và yêu cầu này có thể được Tòa
án xem xét giải quyết trong cùng vụ án với yêu cầu của nguyên đơn khi thỏa mãn những
điều kiện nhất định. Thực chất của phản tố là một việc kiện ngược lại của bị đơn đối với
nguyên đơn nhưng được xét cùng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì việc giải quyết
yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Như vậy, xét theo nghĩa rộng về quyền
khởi kiện và đảm bảo quyền khởi kiện thì có thể xem quyền phản tố cũng là quyền khởi kiện
nhưng là quyền khởi kiện ngược lại của bị đơn đối với nguyên đơn do Tòa án xét thấy các
yêu cầu này có mối quan hệ nhất định.

GVHD: Trương Thanh Hùng

8

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự
trong cùng một vụ án được Tòa án giải quyết. Theo đó, trong việc bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn, bị đơn hay phản lại cùng lúc cả yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn. Bản chất
của yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án chính là một yêu
cầu tố tụng của người thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi của của mình, người có quyền và nghĩa
vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập của mình trong vụ án đã được thiết lập giữa
nguyên đơn và bị đơn. Yêu cầu độc lập này có thể là phản lại yêu cầu mình đang bị tranh

chấp hay vi phạm trong một vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn. TS. Nguyễn
Công Bình khi nghiên cứu vần đề này cho rằng: “ Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của
người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp
lý của nguyên đơn và bị đơn. Thông thường người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia
tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án dân sự đã
xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn”7.
Tựu chung lại, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ghi nhận sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong cùng một vụ án dân sự được Tòa án giải quyết có nghĩa là bên
cạnh việc ghi nhận quyền khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án dân sự đó, pháp luật tố tụng
dân sự còn ghi nhận bảo vệ quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có
quyền và nghĩa vụ liên quan trong cùng vụ án đó, xét về bản chất thì quyền phản tố của bị
đơn chính là quyền khởi kiện ngược lại của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có
quyền và nghĩa vụ liên quan là quyền khởi kiện chống lại yêu cầu của cả nguyên đơn và bị
đơn hay chỉ chống lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.
Như vậy, theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, cơ quan, tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước. Việc thực hiện quyền khởi kiện
của các chủ thể này bằng cách nộp đơn khởi kiện làm phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án. Nếu
hiểu theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện còn bao gồm cả quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác sau khi vụ án đã phát sinh tại Tòa án. Theo
nghĩa này thì quyền khởi kiện còn thuộc về bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan
dưới hình thức là quyền phản tố hoặc quyền đưa ra yêu cầu độc lập.
Tất cả các cá nhân không phân biệt quốc tịch, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội đều
được thừa nhận có quyền khởi kiện tại Tòa án. Quyền khởi kiện của cá nhân được thừa nhận
trong các lĩnh vực tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
7

Nguyễn Công Bình, Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam, 2006, tr 108.


GVHD: Trương Thanh Hùng

9

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

động. Quyền khởi kiện của cá nhân là một nội dung của năng lực pháp luật tố tụng dân sự.
Theo đó mọi cá nhân từ lúc sinh ra đã có quyền khởi kiện. Tuy nhiên để tự mình bằng chính
hành vi của mình định đoạt, quyết định và tiến hành việc khởi kiện tại Tòa án với tư cách là
một chủ thể độc lập thì các cá nhân phải là người có năng lực hành vi tố tụng theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Thông thường, cá nhân có đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự thực hiện quyền khởi kiện chủ yếu để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích cho mình.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp việc khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác. Như vậy, người khởi kiện trong trường hợp này đóng vai trò giúp sức cho
người khác thực hiện quyền khởi kiện của mình do pháp luật cho phép.
Cơ quan, tổ chức khởi kiện nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc khởi kiện để bảo vệ lợi
ích của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước. Thông thường, là một chủ thể trong
quan hệ pháp luật nội dung như quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, các cơ quan tổ chức có quyền khởi kiện VADS tại Tòa án để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức mình khi bị vi phạm hay phát sinh tranh chấp. Tuy
nhiên, bên cạnh quyền khởi kiện bảo vệ lợi ích cho chính mình, pháp luật còn cho phép một
số cơ quan, tổ chức được khởi kiện VADS bảo vệ lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích
công cộng, lợi ích Nhà nước như Cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ,
Công đoàn cấp trên của Công đoàn cấp cơ sở…Cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện
thông qua người đại diện hợp pháp của mình. Tùy thuộc mô hình, cơ cấu tổ chức được pháp
luật thừa nhận mà cơ quan, tổ chức đó có cách chọn lựa người đại diện hợp pháp khác nhau.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tự mình thực hiện

quyền khởi kiện thì pháp luật tố tụng còn ghi nhận việc ủy quyền cho người khác thay thế
thực hiện quyền khởi kiện.
Dưới góc nhìn về quyền khởi kiện vụ án dân sự này, bản luận văn sẽ đề cập tới việc
bảo đảm quyền khởi kiện theo nghĩa rộng bao hàm cả quyền khởi kiện của nguyên đơn theo
nghĩa đích thực của từ “khởi kiện” và quyền phản tố hay quyền khởi kiện ngược lại của bị
đơn, quyền có yêu cầu độc lập hay quyền khởi kiện chống lại nguyên đơn, bị đơn hay chống
cả nguyên đơn, bị đơn của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập để bảo
vệ quyền lợi của mình khi mà vụ án giữa nguyên đơn và bị đơn đã được thiết lập trước đó.
1.1.2. Điều kiện thực hiện quyền khởi kiện
Quyền khởi kiện được nghiên cứu trong mối liên hệ giữa quyền lợi và việc bảo vệ
quyền lợi. Pháp luật nội dung ghi nhận và bảo hộ quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động của các chủ thể. Để các quyền lợi hợp pháp trên được đảm
bảo thực hiện trên thực tế thì pháp luật cần trao cho những chủ thể có quyền lợi bị xâm hại
GVHD: Trương Thanh Hùng

10

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

hay tranh chấp này một phương tiện để bảo vệ quyền lợi của mình nhằm thiết lập lại trật tự
các quan hệ pháp luật nội dung đang bị xáo trộn.
Vấn đề đặt ra là tại sao cần phải ghi nhận cho các chủ thể nói trên có quyền khởi kiện
mà không trao quyền này cho các cơ quan công quyền như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Dễ thấy rằng từ bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động được thiết lập; các quan hệ pháp luật nội dung này được hình
thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, tự định đoạt của các chủ
thể và chính bản thân họ là những chủ thể có lợi ích tài sản hoặc nhân thân trong các quan hệ

này. Quan hệ pháp luật nội dung là cơ sở để xác định có sự vi phạm thỏa thuận hay vi phạm
các quy định của pháp luật, là căn cứ để xem xét chủ thể có hành vi vi phạm và chủ thể có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Do vậy, việc ghi nhận quyền khởi kiện thuộc về các chủ
thể có quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp, vi phạm là hoàn toàn cần thiết và hợp lý.
Cũng xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các đương sự có quyền tự
định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự được tự do trong việc quyết định
lựa chọn các phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình như trung gian hòa
giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án. Do vậy, pháp luật đã ghi nhận việc khởi
kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình là quyền mà đương sự được tự do thực hiện.
Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có
hành vi xâm phạm, bồi thường thiệt hại hoặc phải chịu các chế tài theo quy định của pháp
luật theo thỏa thuận của các bên.
Xuất phát từ việc coi việc khởi kiện là một quyền của đương sự nên việc có sử dụng
quyền này hay không là do chính đương sự tự mình quyết định. Mặt khác, Nhà nước có
nghĩa vụ phải bảo đảm cho những quyền này có thể được thực hiện trên thực tế theo những
thủ tục mà luật định.
Việc xác định quyền khởi kiện được thực hiện đối với ai và khởi kiện vấn đề gì được
xác định dưa trên cơ sở quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp cần phải giải quyết. Việc
giải quyết vụ án dân sự là nhằm giải quyết quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp, vi
phạm. Nên chủ thể có quyền khởi kiện được xác định là chủ thể của quan hệ pháp luật nội
dung có tranh chấp có quyền lợi cần được bảo vệ và chủ thể này có quyền thực hiện việc
khởi kiện đối với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật nội dung đã vi phạm quyền lợi
hoặc có tranh chấp với mình.

GVHD: Trương Thanh Hùng

11


SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

Nói tóm lại, chủ thể có quyền khởi kiện có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của
chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền này sẽ
làm phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, chủ thể trên muốn thực hiện quyền khởi
kiện của mình thì các chủ thể của quyền này cần tuân thủ các điều kiện sau:
► Điều kiện về chủ thể khởi kiện - người khởi kiện phải có tư cách khởi kiện
Tư cách khởi kiện được thể hiện bằng việc người đó nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Hành vi đệ đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thể hiện ý chí của người có quyền khởi kiện
khi quyền lợi hợp pháp của chính họ hay của người khác bị xâm hại. Tòa án chỉ thụ lý giải
quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi
đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Không có việc khởi
kiện của người có quyền khởi kiện bằng việc nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải
quyết thì không có các giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng dân sự.
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể. Nó cho
phép cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trước Tòa án. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự bao gồm: cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đây
là các chủ thể đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định được tham gia vào quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Chủ thể muốn thực hiện quyền khởi kiện thì phải có năng lực năng lực pháp luật tố
tụng và năng lực hành vi tố tụng dân sự, hai yếu tố này cấu thành năng lực chủ thể, đồng
thời phải có quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm, quyền lợi này có thể là của chính chủ thể đó
hoặc là lợi ích của một chủ thể khác.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng pháp luật tố tụng ghi nhận cho đương sự
có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự, là cơ sở tiền đề xác nhận một cá nhân hay tổ chức

trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là
khả năng đương sự bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS hoặc ủy
quyền cho người khác thực hiện thay mình khi cần thiết. Năng lực hành vi của cá nhân phụ
thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức của cá nhân đó. Tổ chức tham gia quan hệ tố tụng
dân sự thông qua người đại diện hợp pháp.
Trong một số trường hợp, pháp luật tố tụng dân sự cũng thừa nhận quyền khởi kiện đối
với các chủ thể là cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự về việc có thể tự mình
khởi kiện VADS nhưng chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tuy đã thỏa mãn
điều kiện tư cách chủ thể, muốn thực hiện quyền khởi kiện VADS mà đương sự không được
GVHD: Trương Thanh Hùng

12

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

thực hiện trong một số trường hợp (người chồng yêu cầu xin ly hôn vợ đang có thai hoặc
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, tranh chấp đất đai chưa qua thủ tục hòa giải ở UBND cấp
xã…).
► Vụ kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Việc ghi nhận quyền khởi kiện trước Tòa án của đương sự và bảo đảm thực hiện quyền
này theo quy định của pháp luật phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự.
Khi phát sinh tranh chấp, các bên trong quan hệ pháp luật dân sự bình đẳng về địa vị pháp lý
nên một trong các bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ đối với
mình để giải quyết tranh chấp. Nhìn nhận khách quan, điều này khó có thể thực hiện được vì
ý chí chủ quan của các bên trong tranh chấp phần lớn cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm khi phát sinh. Vì vậy họ cần tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý
cao hơn, có quyền năng đặc biệt để can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm

phạm – đó là Nhà nước; thông qua hệ thống các cơ quan tư pháp của mình.
Để giải quyết tốt các vụ án dân sự, Tòa án có trách nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ cho
các chủ thể khởi kiện thực hiện hành vi khởi kiện vụ án đúng theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu pháp luật đặt ra là việc khởi kiện phải đúng thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa
án. Vụ án mà họ khởi kiện phải thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án, phải đúng
với cấp Tòa án có thẩm quyền giải quyết và phải đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo lãnh thổ theo các quy định mà pháp luật tố tụng dân sự đã thiết lập. Ngoài ra, đối với
những việc mà pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước khi chủ thể có
quyền gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì chủ thể khởi kiện chỉ được
khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải
quyết của cơ quan đó8. Trên nguyên tắc, quyền khởi kiện là một quyền quan trọng của
đương sự cần được bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau mà pháp luật
quốc gia cũng có thể đặt ra những điều kiện bắt buộc chủ thể có quyền phải đưa sự việc
tranh chấp ra giải quyết bằng con đường hòa giải tiền tố tụng trước khi thực hiện việc khởi
kiện. Để đảm bảo quyền khởi kiện của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố
tụng thì pháp luật cần phải hạn chế một cách tối đa những trường hợp được coi là điều kiện
tiên quyết này. Do vậy, chỉ có thể coi là quyền khởi kiện không bị hạn chế nếu những điều
kiện tiên quyết này là giải pháp cuối cùng để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của bộ
máy tư pháp hoặc đáp ứng yêu cầu về tính nhân đạo của pháp luật hoặc yêu cầu về tôn trọng
cam kết của các bên.

8

Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2005, tr. 234.

GVHD: Trương Thanh Hùng

13

SVTH: Nguyễn Quốc Huy



QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

► Vụ án chưa được Tòa án giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực
pháp luật
Theo khoa học lý luận thì về nguyên tắc một vụ án đã được Tòa án giải quyết bằng một
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện lại đối
với các vụ án đó nữa. Nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của các bản án, quyết định mà Tòa án
đã ra, thông qua đó đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội, tránh tình trạng chồng chéo,
cùng một sự việc mà có nhiều cơ quan cùng giải quyết và ra bản án, quyết định thì cách quy
định trên hoàn toàn phù hợp. Vấn đề đặt ra là khi Tòa án đã ra bản án, quyết định bác đơn
xin ly hôn; yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt
hại…v.v, mà người có quyền lợi bị vi phạm còn nhu cầu khởi kiện lại để bảo vệ đúng mức
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với trường hợp trên thì nguyên tắc một vụ án đã
được Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự
không có quyền khởi kiện lại đối với các vụ án đó nữa tỏa ra khá cứng nhắc và thiếu tính
mềm dẻo. Do đó, quyền khởi kiện của đương sự được tôn trọng và đảm bảo đúng mức hơn
khi pháp luật có những quy định về các trường hợp ngoại lệ mà người có quyền lợi bị vi
phạm vẫn có thể có quyền khởi kiện lại. Chính ngoại lệ này tạo điều kiện cho họ thực hiện
tốt hơn quyền khởi kiện của mình và qua đó khả năng bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của họ bằng con đường tố tụng được nâng lên. Việc ghi nhận quyền khởi kiện lại của đương
sự trong những trường hợp nhất định cũng chính là một trong những phương thức tốt nhất
bảo đảm quyền khởi kiện hữu hiệu.
► Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện
Trong các giao dịch dân sự, chủ thể tham gia quan hệ dân sự được hưởng các quyền và
thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Sự ổn định của các quan hệ dân sự là một trong những mục
đích điều chỉnh của pháp luật dân sự. Xét về góc độ pháp luật tố tụng thì một sự việc xảy ra
trên thực tế đã quá lâu, khi phát sinh tranh chấp, khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để giải
quyết thì vấn đề xác minh sự thật khách quan sau đó không hề đơn giản và việc giải quyết sẽ

vô cùng khó khăn và phức tạp. Do vậy, không riêng gì pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
quy định thời hiệu khởi kiện mà pháp luật của các nước khác đều có các quy định về thời
hiệu này. Nếu các quy định về thời hiệu khởi kiện có tính hợp lý thì quyền khởi kiện của
đương sự cũng được đảm bảo. Như vậy, việc ghi nhận thời hiệu khởi kiện không chỉ nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm mà còn đòi hỏi các
chủ thể này tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong thời hạn nhất định.
Vấn đề đặt ra là đối với các trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện theo luật định nhưng
người có quyền khởi kiện có lý do chính đáng được pháp luật thừa nhận hoặc theo sự thỏa
GVHD: Trương Thanh Hùng

14

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

thuận của các bên thì thời hiệu khởi kiện của người có quyền khởi kiện trên có thể được kéo
dài hoặc được bắt đầu lại. Đây là những trường hợp thời hiệu khởi kiện bị gián đoạn khi xảy
ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc các bên có thỏa thuận lại. Ngoài ra,
trong một số trường hợp thì việc quy định về thời hiệu khởi kiện sẽ là một sự bất hợp lý,
không đảm bảo được quyền khởi kiện của đương sự. Do vậy, pháp luật tố tụng cần ghi nhận
mở rộng thời hiệu khởi kiện cho đương sự trong những trường hợp này, nâng cao hiệu quả
của pháp luật tố tụng trong việc đảm bảo quyền khởi kiện. Điển hình trong các vụ án liên
quan đến quyền nhân thân như quyền khởi kiện ly hôn. Điều này là hoàn toàn hợp lý, bởi vì
các quyền nhân thân luôn tồn tại lâu dài và đôi khi gắn bó cả đời với một cá nhân. Việc ghi
nhận quyền khởi kiện tuyệt đối của đương sự, không giới hạn thời gian là một phương thức
đảm bảo quyền khởi kiện một cách hợp lý và chặt chẽ. Ghi nhận những ngoại lệ nói trên về
thời hiệu khởi kiện sẽ giúp pháp luật tố tụng dân sự phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu nhất
đảm bảo quyền khởi kiện của đương sự.

1.1.3. Ý nghĩa của quyền khởi kiện
Trong đời sống hằng ngày, sự tham gia vào các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân, cơ
quan, tổ chức diễn ra liên tục và phức tạp, nhất là các quan hệ pháp luật dân sự. Tranh chấp
phát sinh khi quyền và lợi ích hợp pháp của một trong các bên tham gia vào quan hệ xã hội
đó là điều khó tránh khỏi. Pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận việc khởi kiện đến Tòa án trở
thành quyền của đương sự và kèm theo đó là cơ chế đảm bảo quyền này khi quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự bị vi phạm là một phương thức văn minh thay thế cho việc tự do
hành xử của các chủ thể trong quan hệ dân sự có phát sinh tranh chấp đã tồn tại trong lịch
sử. Quyền khởi kiện chính là quyền mà pháp luật trao cho các bên trong quan hệ pháp luật
nội dung sử dụng để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự
xâm hại của các chủ thể khác.
Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự. Không có việc khởi kiện của người có quyền khởi kiện bằng việc nộp
đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thì không có các giai đoạn tiếp theo của quá
trình tố tụng dân sự. Chỉ khi có đơn khởi kiện của các chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại
gửi đến thì Tòa án mới thụ lý giải quyết. Hành vi gửi đơn khởi kiện đến Tòa án của chủ thể
có quyền thể hiện ý chí tuyệt đối đòi lại quyền lợi hợp pháp vốn có của mình. Đặc trưng của
phương thức khởi kiện là trao cho đương sự quyền tự do hành động cùng với quyền tự định
đoạt của các chủ thể khởi kiện làm cơ sở cho quá trình tố tụng tiếp theo. Theo đó, khởi kiện
là phương thức để các chủ thể có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ quyền dân sự
GVHD: Trương Thanh Hùng

15

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN


của mình tránh nguy cơ xâm phạm xảy ra, như khởi kiện để đòi lại tài sản, khởi kiện để yêu
cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với thực hiện quyền dân sự hoặc kiện để yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Cùng với hành vi khởi kiện kịp thời, các cơ quan tố tụng sẽ dùng
sức mạnh pháp lý tương ứng, hành động nhằm can thiệp kịp thời, các quyền và lợi ích hợp
pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp
luật và sớm khôi phục lại mối quan hệ thiện chí, cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời
sống dân sự.
Bằng công cụ pháp lý, Tòa án xét xử công bằng, minh bạch góp phần bảo vệ và củng
cố pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời nâng cao hiệu quả xét xử, xác lập chế độ trách nhiệm
cao đối với nhân dân và tạo môi trường pháp lý an toàn. Qua đó, quyền công dân được đảm
bảo góp phần phát triển an sinh xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ. Khi hoạt
động xét xử của Tòa án kết thúc bằng một bản án thì bản án đó phải được mọi người tuyệt
đối tôn trọng, các bên liên quan phải có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành. Có như vậy thì
kỷ cương phép nước mới được đề cao và phát huy hiệu quả. Không những có ý nghĩa tác
động pháp lý đến các đương sự trong vụ án mà thông qua phiên tòa công khai và bản án Tòa
án tuyên có căn cứ thiết phục mà còn có giá trị giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội. Với
người thật, việc thật được bản án kết luận chính xác, khách quan, nó dễ di vào lòng người và
dễ được nhân dân chấp nhận hơn là việc thuyết giáo suông về pháp luật. Lòng tin vào chế
độ, vào pháp luật thì pháp luật sẽ trở thành công cụ hữu hiệu nhất mà nhân dân sử dụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một khi bị xâm hại hay vi phạm và chính pháp
luật đã đi vào lòng người như vậy nó trở thành sức mạnh đảm bảo cho pháp luật được tôn
trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và tăng cường.
1.2. Lý luận chung về cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện
Một số khái niệm liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự
như khái niệm bảo đảm quyền khởi kiện, cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện, làm cơ sở lý luận
nghiên cứu những nội dung liên quan. Việc khởi kiện của nguyên đơn làm phát sinh VADS
tại Tòa án. Theo đó, những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết VADS nào là chủ thể
có quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. Hoạt động nghiên cứu quyền khởi kiện và
cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện có ý nghĩa quan trong trong hoạt động tiến hành tố tụng,
cũng như trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.


GVHD: Trương Thanh Hùng

16

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN

1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền khởi kiện và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện
Theo từ điển Tiếng Việt, thì “bảo đảm” nghĩa là “làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”9. Như vậy, bảo đảm là làm cho vấn đề đó
được thực thi trên thực tế. Để làm cho một vấn đề nào đó có tính khả thi thì đòi hỏi phải có
một cơ chế phù hợp và vận động hài hòa các cơ chế ấy với từng vấn đề cần thực hiện.
Như vậy, bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự nghĩa là làm cho các chủ thể
có quyền khởi kiện có đủ những điều kiện cần thiết, chắc chắn thực hiện được quyền khởi
kiện của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án khi bị xâm hại hay vi
phạm bằng những cơ chế cụ thể được xác định.
Cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự được hiểu là tổng thể các biện
pháp, các giải pháp hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cần thiết cho đương sự có thể thực hiện được
quyền khởi kiện của mình như hoạt động trợ giúp pháp lý cho đương sự, đơn giản và minh
bạch hóa về thủ tục khởi kiện, miễn, giảm án phí…Mặt khác, việc bảo đảm này còn đòi hỏi
sự vận động đồng thời bởi các hoạt động của cơ quan tư pháp tiến hành tố tụng như Tòa án,
Viện kiểm sát. Chính các biện pháp và cơ chế này là cơ sở bảo đảm tính khả thi của quyền
khởi kiện, là cơ sở để quyền khởi kiện được thực hiện một cách có hiệu quả trên thực tế
nhằm bảo vệ các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động đã được pháp
luật ghi nhận và bảo hộ khi các quyền này bị xâm hại hay vi phạm.
Như vậy, cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự là hệ thống các biện
pháp, các giải pháp hỗ trợ cụ thể được xác định hoặc tạo điều kiện cần thiết cho đương sự

thực hiện quyền khởi kiện của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm hay
tranh chấp được thực thi một cách có hiệu quả.
1.2.2. Chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện
► Các chủ thể có quyền khởi kiện
Việc xác định chủ thể nào có quyền khởi kiện là yêu cầu tất yếu đối với pháp luật tố
tụng dân sự. Một chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự mà quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm hại trong các mối quan hệ xã hội dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
thương mại…thì họ đều có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Vậy những chủ thể này có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Quyền khởi kiện bao hàm cả
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tố của bị đơn, quyền
đưa ra yêu cầu độc lập của người thứ ba - người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

9

Hồ Ngọc Đức, Từ điển Tiếng Việt, [ngày truy cập 12/09/2014].

GVHD: Trương Thanh Hùng

17

SVTH: Nguyễn Quốc Huy


×