Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.57 KB, 121 trang )

Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
1


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU


Lý do chọn đề tài



Lịch sử vấn đề



Mục đích nghiên cứu



Phạm vi nghiên cứu



Phương pháp nghiên cứu



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÔN NGỮ THƠ VIỆT
NAM


Quan điểm của Nguyễn Phan Cảnh



Quan điểm của Hữu Đạt



Quan điểm của bùi Công Hùng



Quan điểm của Chim Văn Bé



Hướng tiếp cận của đề tài

CHƯƠNG 2. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HỒ
XUÂN HƯƠNG
I. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN

2


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp văn học
II. Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Hồ Xuân Hương từ góc độ ngôn
ngữ
1. Bánh trôi nước
2. Tự tình
3. Mời trầu
4. Đánh đu
III. Đánh giá chung về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương.

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
3


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu khoa học là một việc làm mới mẻ và đề tài này cũng là một đề
tài hoàn toàn mới và khó khăn đối với người thực hiện đề tài. Luận văn Nghệ

thuật ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương được hoàn thành, ngoài sự cố gắng
của bản thân, tôi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy Chim Văn Bé, các thầy
cô giáo trong tổ ngôn ngữ và sự quan tâm, động viên của gia đình và bạn bè.
Nhân đây cho phép tôi bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn, các
thầy cô giáo trong tổ ngôn ngữ cùng gia đình và bạn bè.
Dù đã cố gắng nhưng do năng lực còn những hạn chế, luận văn không tránh
khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô cùng các
bạn để nay mai khi mở rộng, phát triển đề tài này, vấn đề sẽ được nghiên cứu kỹ
càng, sâu rộng hơn và có thể thu được kết quả cao hơn.

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
4


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

I.

Lý do chọn đề tài…………………………………………………….1

II.

Lịch sử vấn đề……………………………………………………….3


III.

Mục đích nghiên cứu……………………………………………….12

IV.

Phạm vi nghiên cứu………………………………………………...12

V.

Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...12

PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………..14
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÔN NGỮ THƠ VIỆT
NAM……………………………………………………………………………..14
I.

Quan điểm của Nguyễn Phan Cảnh………………………………..14

II.

Quan điểm của Hữu Đạt……………………………………………24

III.

Quan điểm của bùi Công Hùng…………………………………….34

IV.


Quan điểm của Chim Văn Bé………………………………………41

V.

Hướng tiếp cận của đề tài…………………………………………..50

CHƯƠNG 2. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HỒ
XUÂN HƯƠNG………………………………………………………………...52
I. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương………………………….52
1. Cuộc đời………………………………………...………………………52
2. Sự nghiệp văn chương………………………………………………….53
II. Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Hồ Xuân Hương từ góc độ ngôn
ngữ………………………………………………………………………………..54
1. Bánh trôi nước…………………………………………………………54
2. Tự tình………………………………………………………………….63
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
5


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
3. Mời trầu………………………………………………………………..75
4. Đánh đu………………………………………………………………...84
III. Đánh giá chung về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương…92

PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………..95
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..98

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ


SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
6


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
Trong nền thơ ca Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến như một nhà thơ có
nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách tân thơ Việt. Bằng những cách tổ chức ngôn ngữ đầy
sáng tạo, Hồ Xuân Hương đã thực sự tạo nên dấu ấn phong cách nghệ thuật của mình
trên thi đàn. Người ta biết đến Hồ Xuân Hương với những vần thơ khác biệt và có gì đó
rất “ngông”. Hồ Xuân Hương là một hồn thơ giàu giá trị nhân văn, nhân bản, một chất
giọng lạ và giàu sắc thái sáng tạo. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến với một tài năng,
một hiện tượng lạ của văn học Việt Nam, một con người độc đáo mà trước giờ chưa có
một nhà thơ nữ nào sánh bằng. Và điều làm nên sự độc đáo ấy chính là ngôn từ trong thơ
bà.
Nhắc đến Hồ Xuân Hương, có nhiều cách gọi khác nhau như “Thi trung hữu quỷ”
(trong thơ có quỷ), “Bà chúa thơ Nôm” (Tản Đà, Xuân Diệu), “Nhà thơ cách mạng” (Hoa
Bằng)…nhìn chung, những tên gọi đó đều bắt nguồn từ phong cách riêng, rất tài hoa,
khác thường của bà.
Từ trước đến nay, các khía cạnh trong thơ Hồ Xuân Hương được tập trung nghiên
cứu là: nội dung và hình thức, những yếu tố ảnh hưởng đến thơ Nôm Hồ Xuân Hương,
vị trí của Hồ Xuân Hương trong thơ Nôm Đường luật... Nghệ thuật ngôn từ trong thơ Hồ
Xuân Hương tuy được người ta đề cập đến, nhưng chưa thật hệ thống, đầy đủ, thấu đáo
và có những ý kiến cực đoan, trái ngược nhau. Vì vậy, đây là một vấn đề cần được tiếp
tục nghiên cứu. Đó là một trong những lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn thực hiện luận
văn này.


CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
7


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Đến với thơ Hồ Xuân Hương, chúng ta như đến với thế giới của một “người lạ
mặt”. Một nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về thơ Xuân Hương đã nhận xét: “tình
yêu thân xác (trong thơ bà) là tình yêu toàn vẹn. Nó bao gồm cả thiên nhiên trong đó.
Tất cả đầy ăm ắp những thần linh, tất cả đều xoáy về tình yêu” [18; tr. 441].
Trong những năm gần đây, tác phẩm của Hồ Xuân Hương đã được lựa chọn để
đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông nhưng chủ yếu là nghiêng về tìm hiểu
nội dung tác phẩm. Bắt tay vào nghiên cứu về Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương,
chúng tôi mong sẽ góp một tiếng nói nhỏ bé của mình về ngôn ngữ thơ hồ Xuân Hương,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy thơ Hồ Xuân Hương trong nhà trường.
Sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu ra đời trong những năm sóng gió của thời
cuộc và cuộc đời nữ sĩ, bà luôn lớn tiếng đòi hỏi giải phóng phụ nữ, nói lên khát vọng
được sống, được bình đẳng…Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn có cái nhìn cận cảnh
về quá trình vận động của ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương trong hoàn cảnh ấy cũng như
nhìn nhận về thơ Việt Nam đương thời.
Đi vào tìm hiểu những nghệ thuật trong việc sử dụng ngôn từ thơ Hồ Xuân Hương,
chúng tôi muốn tìm thấy quy luật riêng trong các sáng tác của “Bà chúa thơ Nôm”, nhằm
tiếp cận thơ bà một cách có hệ thống, sâu sắc hơn, để từ đó thấy được ý nghĩa mà nó
mang lại, thấy được hồn thơ của nữ sĩ họ Hồ.
Với phong cách thơ không xen lẫn, thơ Hồ Xuân Hương chiếm một vị trí đặc biệt,
làm say mê, rung động bạn đọc bao thế hệ mà trong đó có chúng tôi, số ít trong số nhiều
người ấn tượng với thơ hồ Xuân Hương.
Với ấn tượng sâu sắc ấy cùng với sự yêu mến, khâm phục tài hoa, lòng yêu thơ
văn, với sự đồng cảm sâu sắc, xen lẫn một chút tò mò, chúng tôi bắt tay thực hiện đề tài

Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ nhằm tập vợt kiến thức
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
8


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
khoa học về ngôn ngữ thơ của Hồ Xuân Hương mà còn với hy vọng hướng kết quả tìm
tòi của mình vào mục đích học tập, nâng cao hiểu biết về một tác giả quan trọng trong
nền thơ ca Việt Nam, đồng thời, có thể góp một phần nhỏ công sức của mình vào việc
làm sáng tỏ những đặc trưng trong ngôn từ thơ Hồ Xuân Hương, thỏa mãn chính những
điều chưa biết của mình về nhà thơ “lạ” này cũng như những người cùng yêu mến thơ
văn như chúng tôi.

II. Lịch sử vấn đề
1. Về ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là một vấn đề muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Nhà văn
Goorki đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Mà văn học bao
gồm cả thơ, thế nên khi nói đến văn học không thể không nói đến ngôn ngữ thơ. “Thơ là
hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, những tâm trạng, những xúc cảm mạnh
mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [5; tr. 309].
Trong phạm vi hẹp hơn về thể loại, ngôn ngữ thơ được hiểu là một chùm đặc trưng
về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hoá, khái quát hoá hiện thực khách quan
theo cách tổ chức riêng của thơ ca. Có nhiều ý kiến về ngôn ngữ thơ ca:
Tác giả Hoàng Phê cho rằng “Thơ là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu
hình ảnh và có nhịp điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc” [16; tr. 1478].
Đáng nói nhất trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ là tên tuổi của R.
Jakobson với công trình Thi học và Ngữ học. Tác giả đã nhìn ngôn ngữ thơ trong mối
quan hệ đối lập với ngôn ngữ thông thường. Nếu như Shklovsky xem ngôn ngữ thơ ca

có khả năng làm chấm dứt tính chất máy móc của ý thức, Tynianov coi nó là "con tắc kè
hoa" thay đổi sắc thái và màu sắc tùy theo sự sắp xếp và tổ chức của nhà thơ thì R.

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
9


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Jakobson xác định và chứng minh rằng mỗi chữ trong thơ đều đã bị biến tính, biến dạng,
tức là bị “bóp méo” đi so với ngôn ngữ hằng ngày. Vì thế, ông coi hành động
thơ là hành động cưỡng bức ngôn ngữ, cấu trúc ngôn ngữ thơ là cấu trúc đặc dị,
trái khoáy, khác thường.
Trên lãnh địa của thi ca, Jakobson đã khám phá ngôn ngữ thơ ở nhiều cấp độ, từ
ngữ âm, ngữ pháp đến những thủ pháp chuyển nghĩa. Đề cao thủ pháp trong sáng tạo thơ
ca, R. Jakobson chú ý đến các biện pháp chuyển nghĩa, đặc biệt là phương thức ẩn dụ.
Theo ông, “việc nghiên cứu những phương pháp chuyển nghĩa (tropes) trong thi ca chủ
yếu được hướng vào phép ẩn dụ” [10; tr. 55]. Trong nhiều bài thơ, ẩn dụ “không chỉ là
nét đặc trưng nhất của thủ pháp chuyển nghĩa của thơ ca (tropes poétiques) mà là cốt tử
trong chức năng của nó, vì chúng đứng hàng đầu (préider) trong việc xây dựng
(élaboration) và phát triển chủ đề trữ tình” [10; tr. 243].
Khi tìm hiểu về thơ, R. Jakobson chú ý đến sự lặp lại của “hình tượng âm thanh”.
Trên cơ sở của sự lặp lại ấy, ông chỉ ra sự đối lập giữa âm tiết có trọng âm và âm tiết
không có trọng âm, âm tiết dài và âm tiết ngắn, âm tiết có chuyển giọng và âm tiết không
có chuyển giọng, âm tiết tính có thanh cao và âm tiết tính có thanh thấp.
Bàn về ngữ pháp của thi ca, R. Jakobson nhấn mạnh rằng: “Những khả năng thi
ca ẩn dấu trong cấu trúc hình thái học và cú pháp học của ngôn ngữ, nói tóm lại tức là
chất thơ (poésie) của ngữ pháp và sản phẩm văn chương của nó” [10; tr. 5]. Theo
ông, “vấn đề quan hệ giữa ngữ pháp và thơ đòi hỏi cấp thiết việc soi sáng một cách hệ

thống” và “vai trò của “hình tượng ngữ pháp” trong thơ ca thế giới ở mọi thời đại vẫn
làm các nhà nghiên cứu văn học ngạc nhiên” [10; tr. 135].

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
10


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Jakobson đã chứng minh rằng có quan hệ giữa âm và nghĩa, chứ không phải là võ
đoán. Mặt khác ông nhấn mạnh đến “sự trật khấc giữa cái biểu đạt (signfiant) và cái
được biểu đạt (signifié)” [10; tr. 377].
R. Jakobson cũng đề cập đến điểm khác nhau trong việc xây dựng hình ảnh giữa
thơ và văn xuôi nghệ thuật. Ông cho rằng hình ảnh của thơ được xây dựng trên phương
pháp ẩn dụ, trong khi đó hình ảnh của văn xuôi được thành lập bằng phương pháp hoán
dụ. Ông viết: “Chính trên sự liên tưởng giống nhau (association par similarité) mà các
câu thơ được xây dựng. Hiệu lực của chúng được quy định một cách khẩn thiết do sự
giống nhau của nhịp điệu (similarité rythmique), và thứ song hành nhịp điệu này càng
cần thiết hơn nếu nó kéo theo sự giống nhau (hoặc sự tương phản) giữa các hình
ảnh” [10; tr. 249]. Trong khi đó, “sự liên tưởng gần nhau (association par contiguité)
mới mang đến cho văn xuôi trần thuật sự xung động cơ bản của nó; chuyện kể chuyển từ
một đối tượng này sang một đối tượng khác, do chỗ lân cận nhau (par voisinage) bằng
cách tuân thủ những cuộc hành trình (parcours) của trật tự nhân quả hay trật tự không
- thời gian” [10; tr. 249].
Tất nhiên, điều này không phải là tuyệt đối, bởi lẽ, “Có những bài thơ theo kết
cấu hoán dụ (texture métonimique) và có những chuyện kể văn xuôi được tô điểm bằng
những ẩn dụ” [10; tr. 249], hơn nữa ẩn dụ và hoán dụ còn mang tính nhập nhằng, nước
đôi: “Trong thi ca, nơi mà sự tương tự (similarité) được chiếu lên sự kế tiếp, mọi hoán
dụ (métonymie) đều phảng phất mang tính ẩn dụ (légèrement métaphorique), và mọi ẩn

dụ đều có sắc màu hoán dụ” [10; tr. 47]. Sự lưỡng phân ấy góp phần đẩy tính chất đa
nghĩa của ngôn ngữ thơ ca đi xa hơn và mở ra nhiều ngã rẽ cho người đọc trên con đường
tiếp nhận.
Như vậy, khi nói về phương diện ngôn ngữ, Jakobson xem ngôn ngữ thơ là ngôn
ngữ đã bị “biến tính”, đã bị “bóp méo” đi so với ngôn ngữ thông thường. Thơ ca đưa
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
11


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
ngôn ngữ thoát ra khỏi sự cứng nhắc, rập khuôn, mòn sáo của ngôn ngữ phổ thông bằng
những cấu trúc đặc biệt, khác thường, mang lại sự mới lạ, bất ngờ cho người tiếp nhận.
Nghiên cứu thơ, Jakobson quan tâm đến các yếu tố âm vị, các thủ pháp chuyển nghĩa,
nhất là thủ pháp ẩn dụ và không bỏ qua chất thơ của ngữ pháp. Với ông, thơ ca là vùng
đất mà mối liên hệ giữa âm thanh và ý nghĩa được biểu hiện rõ rệt và đậm đà nhất, đó
cũng là nơi mà mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là mối quan hệ có lí
do chứ không phải là võ đoán. Sự lưỡng phân, nhập nhằng trở thành đặc tính nội tại, đặc
tính tự nhiên, căn bản không thể tước bỏ được của mọi thông điệp tập trung vào bản thân
nó.
Phan Ngọc đã nhận xét ngôn ngữ thơ “Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết
sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính
hình thức tổ chức ngôn ngữ này” [13; tr. 132]. Theo ông thì rõ ràng ngôn ngữ thơ khác
với lời nói thường và khác với cả ngôn ngữ văn xuôi ở cấu trúc của nó, lời thơ ít nhưng
cảm xúc và ý nghĩa rất phong phú có sức gợi cảm lớn. Ngôn ngữ thơ mang tính hình
tượng rất rõ nét.
Trong "Lý luận văn học", Phương Lựu lại tập trung hai vấn đề chính khi bàn đến
ngôn ngữ thơ trữ tình là: ngôn ngữ bão hòa cảm xúc và ngôn ngữ giàu tính nhạc. Thật ra
khi nói đến một ngôn ngữ nào, chúng ta cũng phải đề cập trên ba phương diện: ngữ âm,

từ vựng, ngữ pháp. Riêng với thơ, với ngôn ngữ thơ, những điều ấy vẫn chưa đủ.
Trong công trình Ngôn ngữ thơ, tác giả Nguyễn Phan Cảnh đã khảo sát cấu trúc
thơ trên hai trục: ẩn dụ (trục lựa chọn) và hoán dụ (trục kết hợp) dựa vào sức liên tưởng
của ngời đọc "nhằm sử dụng một cách mỹ học chiều dày của chất liệu ngôn ngữ thơ" [2;
tr. 92]. Từ đó tác giả đa ra hai thao tác cơ bản của hoạt động ngôn ngữ đó là thao tác lựa
chọn và thao tác kết hợp. Thao tác lựa chọn dựa trên một khả năng của ngôn ngữ là "các

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
12


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
đơn vị ngôn ngữ có thể luân phiên cho nhau nhờ vào tính tương đồng giữa chúng" [2; tr.
16]. Thao tác kết hợp lại dựa trên khả năng khác của hoạt động ngôn ngữ là "các yếu tố
ngôn ngữ có thể đặt bên cạnh nhau nhờ vào mối quan hệ tương cận giữa chúng" [2; tr.
24]. Cũng theo tác giả nếu như văn xuôi làm việc trước hết bằng thao tác kết hợp và trong
văn xuôi lặp lại là một điều tối kỵ thì ngợc lại "chính cái điều văn xuôi rất tối kỵ ấy lại
là thủ pháp làm việc của thơ: trong thơ, tính tương đồng của các đơn vị ngôn ngữ lại
được dùng để xây dựng các thông báo". Nếu như thao tác lựa chọn cho phép nhà thơ
chọn một đơn vị trong một loạt đơn vị có giá trị tương đương với nhau có thể thay thế
cho nhau trên trục dọc, thì thao tác kết hợp lại cho phép nhà nghệ sĩ, sau khi đã lựa chọn
có thể tạo ra những kết hợp bất ngờ, sáng tạo dựa trên những tiền đề vật chất mà ngôn
ngữ dân tộc cho phép. Người nghệ sĩ khi sáng tác phải biết chọn lấy một đơn vị nào đó
thật phù hợp, có khả năng diễn tả được cảm xúc, sự đánh giá của mình trước đối tượng.
Bàn về đặc trưng của ngôn ngữ thơ, Hữu Đạt qua công trình Ngôn ngữ thơ Việt
Nam khẳng định một số tính chất và đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ là: tính tương
xứng, tính nhạc và đặc điểm phong cách của nhà thơ.
Bùi Công Hùng với công trình Tiếp cận nghệ thuật thơ ca đã đề cập đến khá nhiều

phương diện của nghệ thuật thơ ca, trong đó có hệ thống ngôn ngữ và các thành phần
của câu thơ… Tuy vậy, công trình này còn bộc lộ nhiều hạn chế, sai sót và chưa làm sáng
tỏ vấn đề đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca.
Đáng nói hơn là công trình Ngôn ngữ văn chương Việt Nam của tác giả Chim Văn
Bé. Với tầm kiến thức sâu rộng và thật sự uyên bác, tác giả đã đưa chúng ta từng bước
tiếp cận ngôn ngữ thơ ca một cách hệ thống và toàn diện nhất từ các phương thức biểu
đạt và các đặc trưng của ngôn từ thơ trữ tình.

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
13


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Nếu nhìn nhận một cách tổng quan thông qua lời nhận định của các nhà nghiên
cứu văn học về ngôn ngữ thơ ta có thể thấy có nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung
có thể khẳng định ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức
cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm.

2. Về ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương.
Đi vào tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương, Jăng Ruxtal đã nói Hồ Xuân
Hương là: “một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ,
là một trong những nữ sĩ hàng đầu của châu Á” [18; tr. 454]. Một trong những yếu tố
làm nên một Hồ Xuân Hương được đánh giá cao như thế chính là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương đã được đánh giá rất cao. Các nhà
nghiên cứu số đông đều khẳng định cái tài của Hồ Xuân Hương trong việc sử dụng ngôn
ngữ. Nói đến “tên tuổi lớn” ấy, chúng ta có thể bắt gặp nhiều ý kiến, nhận định khác
nhau, thậm chí trái chiều nhau.
Đỗ Lai Thúy trong bài viết Đi tìm phong cách thơ Hồ Xuân Hương đã viết: “Thơ

Hồ Xuân Hương là một kiến trúc ngôn từ khác lạ, một ngôn ngữ khác lạ. Đọc thơ bà
hoặc bằng sự mẫn cảm, hoặc bằng phương pháp thống kê, có thể chỉ ra được những nét
đặc biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ” [6; tr. 89]. Ông còn nói thêm rằng “Hồ Xuân
Hương không chỉ Việt hóa, hoàn thiện mà quan trọng hơn còn làm mới thể thơ luật
Đường. Việc thi nhân đưa vào cái cấu trúc đã hoàn chỉnh của nó những yếu tố dị biệt,
những nghịch âm, chất liêu trai mà không làm sụp đổ thể loại, ngược lại, còn nâng nó
lên một chất lượng mới, quả thật rất lạ lùng. Có lẽ ở mỗi bài của Xuân Hương, đằng sau
ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng phồn thực, đằng sau cái con người xã hội chính là con người
vũ trụ” [6; tr. 98].

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
14


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Trong công trình nghiên cứu khá công phu khác là Hồ Xuân Hương hoài niệm
phồn thực tác giả Đỗ Lai Thuý đi sâu vào những biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân
Hương, phân tích và chỉ ra những ý nghĩa sâu xa của nó. Như các biểu tượng liên quan
đến các bộ phận của cơ quan sinh sản, hành vi tính giao, thân thể phụ nữ. Tác giả chứng
minh sự gắn bó mật thiết giữa biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương với những biểu
tượng của tín ngưỡng phồn thực trong dân gian. Sự trở về với những biểu tượng phồn
thực cổ xưa và dân gian trong thơ "Bà chúa thơ Nôm" cho thấy "Bà là người rất yêu sự
sống". Bên cạnh những biểu tượng gốc, Đỗ Lai Thuý phát hiện trong thơ Hồ Xuân Hương
còn có những biểu tượng phái sinh. Đó là sáng tạo riêng của nhà thơ, tạo nên phong cách
độc đáo của nữ sĩ.
Lê Hoài Nam trong bài viết Hồ Xuân Hương đã nhận xét: “Xuân Hương có một
vốn từ ngữ rất phong phú, rất chính xác nhưng đồng thời cũng rất độc đáo. Điều đó
không phải chỉ chứng tỏ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc mà còn biểu hiện cá

tính mạnh mẽ của xuân Hương. Có những tiếng như: hõm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín
mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật… Phải là một người có bản lĩnh vững vàng
như Xuân Hương mới có thể đưa vào văn học, nhất là vào thi ca được. Nói chung thì
ngôn ngữ của Xuân Hương có một sức biểu hiện rất mạnh, bao giờ cũng súc tích, hình
ảnh sinh động, nói như ngày xưa thì nói một tiếng là đắt một tiếng” [22; tr. 171 – 172].
Tác giả còn nói “phải nói thêm rằng một đặc sắc thuộc thơ Hồ Xuân Hương: lần đầu
tiên và cũng là lần hiếm hoi, chúng ta nghe được tiếng nói duyên dáng của phụ nữ trong
văn học. Những tiếng “thân em”, “của em”, “duyên em”…tuy vẫn mang cái nội dung
tinh nghịch, châm biếm thường lệ của Xuân Hương, nhưng mặt khác cũng có cái gì đằm
thắm, dịu dàng riêng của phụ nữ” [22; tr. 172 – 173].
Nguyễn Lộc trong bài Hồ Xuân Hương, nhà thơ độc đáo vô song cũng đã khen
ngợi: “Sáng tác của Hồ Xuân Hương số lượng không nhiều nhưng chắc chắn nếu Hồ
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
15


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Xuân Hương không phải là một bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc thì nhà thơ không thể nào
viết phóng khoáng, tự nhiên, hóm hỉnh, dí dỏm một cách đặc sắc đến thế. Ngôn ngữ dân
tộc bằng ngòi bút của Hồ Xuân Hương vừa súc tích, chính xác, lại vừa uyển chuyển, linh
hoạt, phong phú về nghĩa, đặc sắc về tạo hình, dồi dào về âm thanh, nhịp điệu. Thể thơ
Đường luật trong bàn tay của bà không còn cái vẻ đài các vốn có của nó, mà trở nên
dung dị, bình dân, trong nhiều trường hợp được chế tạo như những nắm đấm rắn chắc
để quật vào mặt kẻ thù những cú đích đáng” [22; tr. 192 – 193].
Hà Như Chi trong bài viết Tính chất trào lộng và giá trị nghệ thuật trong thơ Hồ
Xuân Hương cho rằng thơ Hồ Xuân Hương “thoát ra ngoài khuôn sáo, không dùng điển
cố Hán Văn, lời thơ có khi đặt nôm na mà lại thường dùng những chữ trong ca dao, tục
ngữ” [6; tr. 73]. Ở một trang khác, tác giả nói thêm “thơ Hồ Xuân Hương có một lối dùng

chữ đặt câu rất đặc sắc, bất luận là tả cảnh, tả tình hay trào phúng. Xuân Hương dùng
chữ rất bạo dạn, không đắn đo rụt rè, lựa ngay những chữ đập mạnh vào óc ta và thường
thường lại phù hợp với tình cảm của tác giả” [6; tr. 77].
Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã có bài viết về Hồ Xuân Hương, ông nhận định “Thơ
Xuân Hương đã làm cho chữ “nôm na” không đồng nghĩa là với “mách qué” nữa, mà
nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo, tuyệt vời” [3; tr. 486]. Ông tóm lại “Cái
ngôn ngữ của Bà chúa thơ Nôm độc đáo lạ lùng, ngâm thơ Xuân Hương như có một vị
trái cây chín mọng” [3; tr. 505].
Tác giả Đặng Thanh Hòa trong bài viết Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm Hồ
Xuân Hương cũng như tiếp ý cho Xuân Diệu: "Người ta thường bảo "nôm na là cha
mánh khóe" thế nhưng đến với thơ Hồ Xuân Hương thì đó là một ngoại lệ, bởi vì người
đọc nhớ đến Hồ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái "mánh qué" ấy. Nếu
không có chất "nôm na", "mánh qué", "xỏ xiên" đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có
một Hồ Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh bà thành bà chúa thơ
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
16


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của bà đã tạo nên một
chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá
với cái thứ ngôn ngữ "nhà quê", "mánh qué"...Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với
sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ". [7;
tr. 22].
Lê Trí Viễn nói về ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương trong công trình Nghĩ về thơ
Hồ Xuân Hương: “Ngôn ngữ phong phú và tài tình của bà còn là câu trả lời cho kẻ không
tin vào dân tộc mà cho tiếng mẹ đẻ là nghèo nàn, thô lậu. Ngôn ngữ ấy không chỉ giàu
có về từ mà còn có màu sắc dân tộc đặc biệt vì nó không quên lợi dụng những tiểu thuật

lạ lùng của tiếng Việt: nói ví, nói bóng, nói lái rất nhiều, làm cho thơ văn kì diệu thêm,
có tính chất Việt Nam nhiều thêm” [22; tr. 128]. Và “sử dụng ngôn ngữ phong phú như
thế để lột tả ý tứ, Xuân Hương đã thể hiện một văn phong thực sự sắc sảo. Phạm vi tác
phẩm hẹp, đối tượng của sáng tác dễ gay cấn nên giới hạn rất nhiều cảm hứng, Xuân
Hương vẫn tìm được phóng túng cho ngòi bút bằng cách vạch cho mình một cách thức
miêu tả riêng biệt” [22; tr. 135].
Tác giả Tam Vị trong bài Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương viết
“Hồ Xuân Hương đã đưa vào văn học một vỉa ngôn ngữ trào lộng, suồng sả, dân gian”
[21; tr. 361]. Ở một trang khác tác giả cũng nói thêm “Ngôn ngữ của Xuân Hương là
ngôn ngữ của tục ngữ, ca dao, ngay cả cách nói của Xuân Hương, lối so sánh ví von
cũng là cách nói của nhân dân qua tục ngữ, ca dao” [21; tr. 134].
Tác giả Nguyễn Lộc trong bài Hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương đã nhận định
“Xuân Hương vận dụng ngôn ngữ không câu nệ ở hình thức. Xuân Hương khống giống
những nhà thơ bác học có xu hướng muốn dùng ngôn ngữ đài các, quý phái, thích chất
đống những từ Hán Việt, những điển cố trong tác phẩm, Xuân Hương đã đưa vào thơ
một loạt ngôn ngữ “đầu đường xó chợ” miễn là những từ ấy nói đúng được đời sống tình
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
17


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
cảm” [18; tr. 269] và “Ngôn ngữ của Xuân Hương là ngôn ngữ của đời sống được sử
dụng một cách có nghệ thuật” [18; tr. 270]. Ông khẳng định “Về ngôn ngữ, có thể nói
trong văn học cổ không ai giản dị, dễ hiểu và mộc mạc như Xuân Hương. Ngôn ngữ của
Xuân Hương không khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ” [18; tr. 268].
Trương Tửu trong bài viết Hồ Xuân hương – Thiên tài huê nguyệt nhận xét: “Về
ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương còn có đặc điểm nữa là hay dùng những chữ tục, nạc, ngọt
sớt, người bình dân ưa nói (Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả

tiền…Đầu sư há phải gì bà cốt, Bá ngọ con ông bé cái nhầm…Quân tử có thương thì
bóc yếm, Xin đừng ngó ngoái lỗ trôn tôi…Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏ buồn
sừng húc giậu thưa…Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông…Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ
không…Kìa cái diều ai nó lộn lèo…Xoạc cẳng dò xem đất vắn dài…Gan nghĩa giải ra
cùng chị Nguyệt…Khối tình cọ mãi với non sông, mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo…)
và hay dùng tục ngữ, phương ngôn trong thơ (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, Cầm bằng làm
mướn, mướn không công…Nỗi này ví biết dường này nhỉ, Thà trước cam đành ở vậy
xong…Ta còn có thể nói nhiều về cách dùng chữ, đặt câu, xếp ý của Hồ Xuân Hương để
trào phúng thói đời hay bộc lộ tình tự” [18; tr. 111 – 112].
Tác giả Đỗ Đức Hiểu cũng nhận xét về thơ Hồ Xuân Hương: “Hồ Xuân Hương
sáng tạo một phong cách thơ Đường luật mới, một thế giới thường thắm tươi, một thiên
nhiên tràn đầy sức sống, một triết lý tự nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác, cảm
giác, bản năng, của say mê, một cái đẹp góc cạnh và vui tươi của sự vận động hối hả,
căng thẳng với những nhịp điệu vanxơ chóng mặt” [6; tr. 114]. Ông còn nói “Hồ Xuân
Hương là nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để sáng tác nhạc, là nghệ sĩ tạo hình, bà còn là nhà
điêu khắc, và cả nhà kiến trúc nữa, nhà kiến trúc của “lâu đài âm vang”” [6; tr. 118].

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
18


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Trong công trình Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, tác giả Nguyễn
Đăng Na đã phân tích cấu trúc ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương, làm nổi bật tính dân
tộc và gần gũi của hệ thống ngôn ngữ.
Nhận xét về ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, tác giả Lã Nhâm Thìn lưu ý đến ngôn
ngữ đời sống, ngôn ngữ dân tộc trong thơ bà, coi đó là thành tựu xuất sắc tạo cá tính sáng
tạo, bản lĩnh độc đáo của Hồ Xuân Hương. Tác giả cho rằng “thành ngữ, tục ngữ, ca dao

trong thơ Hồ Xuân Hương là phương tiện để thể hiện tình cảm, làm chức năng để biểu
đạt tâm trạng” [19; tr. 170]. Và khẳng định “Hồ Xuân Hương là người sử dụng thành
ngữ, tục ngữ, ca dao với tỉ lệ cao nhất. Hồ Xuân Hương đúng là thi sĩ của dân gian” [19;
tr. 168].
Trương Xuân Tiếu trong Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương cũng đã nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương về từ loại, ngoa ngữ, tục
ngữ, ca dao…phát hiện ra những đặc sắc riêng trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương cũng
như điểm kế thừa từ văn học dân gian. Và ở một bài viết khác ông khẳng định rằng “Hồ
Xuân Hương là nhà thơ đã tiếp thu đến mức tối đa và vận dụng đến độ thành thục điêu
luyện nhất những chất liệu, yếu tố của tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt vào cấu trúc ngôn
từ nghệ thuật trong tác phẩm của mình” [18; tr. 569].
Nhìn chung, ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, các nhà nghiên cứu phê bình đã có đóng góp nhất định trong việc phát hiện
những nét đặc sắc trong nghệ thuật ngôn ngữ thơ của Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, những
bài viết đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một vài khía cạnh riêng lẻ chứ chưa có
một hệ thống hoàn chỉnh nào. Các nhà nghiên cứu đều có tiếng nói chung là thống nhất
với nhau trên những vấn đề cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn, đồng thời tài năng
ngôn ngữ của nữ sĩ là điều không thể bác bỏ nhưng ở một mức độ nào đó vẫn còn thái độ
khen chê khác nhau, thậm chí còn có một số ý kiến trái ngược nhau đến nay chưa giải
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
19


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
quyết được. Đây sẽ là vấn đề nóng hổi thu hút nhiều công trình tham gia nghiên cứu giành
cho những ai đam mê, muốn khám phá thơ bà chúa thơ Nôm.

III. Mục đích nghiên cứu.

Nhiệm vụ chúng tôi đặt ra trong luận văn này là tìm hiểu về ngôn ngữ thơ, tìm
hiểu những nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, từ đó nhận diện phong cách
ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và những đóng góp của bà đối với nền văn học Việt Nam.
Qua khảo sát một số tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ ngôn ngữ, đề tài
mong góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, một phong cách thơ
lạ.

IV. Phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân
Hương qua việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ.
Chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu những bài viết đề cập đến ngôn ngữ thơ
Hồ Xuân Hương để hệ thống lại những đặc trưng tiêu biểu về ngôn ngữ thơ của tác giả.
Qua đó, chúng tôi hy vọng rằng tự mình có thể nhìn nhận về vấn đề một cách toàn diện
và đúng đắn nhất.

V. Phương pháp nghiên cứu.
Chúng tôi đã phối kết nhiều phương pháp khác nhau:
Phương pháp thống kê, phân loại: chúng tôi khảo sát một số tư liệu và phận loại
những tư liệu chứa đựng nội dung đang nghiên cứu, từ đó đưa ra các khía cạnh ngôn ngữ
thơ Hồ Xuân Hương.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: chúng tôi tiến hành chia tách đối tượng nghiên
cứu, tức các tác phẩm thơ tiêu biểu cho ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương ra nhiều thành tố
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
20


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
để nghiên cứu, nhận xét, đánh giá và từ đó tổng hợp lại những kết luận chung nhất, hợp

lí nhất của đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp trực giác: sử dụng phương pháp này nhằm đưa ra nhận định, ý kiến
đánh giá xung quanh các bài thơ về phương diện ngôn ngữ nhằm khẳng định những đóng
góp về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của Hồ Xuân Hương.
Trên đây là một số phương pháp cơ bản mà chúng tôi đã sử dụng nhằm làm rõ lên
vấn đề đang nghiên cứu.

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
21


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÔN NGỮ THƠ VIỆT NAM
I. Quan niệm của Nguyễn phan Cảnh:
Trong công trình nghiên cứu Ngôn ngữ thơ, Nguyễn Phan Cảnh đã đề cập đến
nhiều nội dung lớn của ngôn ngữ thơ như: Ngôn ngữ giao tế và ngôn ngữ nghệ thuật,
ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi, nghệ thuật ngôn ngữ và các loại hình nghệ thuật,
các tín hiệu đơn, cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa, lắp ghép... và nhiều nội dung
khác.
Trong giới hạn luận văn, trong công trình này của Nguyễn Phan Cảnh, chúng tôi
xin điểm qua một số nội dung sau: Thao tác cơ bản của ngôn từ nghệ thuật, phương thức
nghệ thuật ngôn từ, tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa, lắp ghép hay bản chất của các
phương thức chuyển nghĩa có tính chất hoán dụ và nhạc thơ.

1. Về thao tác cơ bản của ngôn từ nghệ thuật

Theo tác giả Nguyễn Phan Cảnh, một lới nói muốn tiếp tục phát triển, bao giờ
cũng phải thực thiện được một trong hai điều kiện: hoặc nhờ vào mối quan hệ giống nhau
hoặc nhờ vào mối quan hệ gần nghĩa. Và nhằm thỏa mãn hai điều kiện trên, ngôn ngữ đã
dần hình thành và cố định hai thao tác cơ bản: thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp.

1.1. Thao tác lựa chọn

CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
22


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
Nguyễn Phan Cảnh giải thích: “thao tác lựa chọn là các đơn vị ngôn ngữ có thể
luân phiên cho nhau nhờ vào tính tương đồng giữa chúng” [2; tr. 11 - 12]. Bằng sự liên
tưởng, thao tác này giúp chúng ta tổ chức các đơn vị ngôn ngữ có thể xuất hiện trên cùng
một đoạn của dòng ngôn ngữ, tập hợp các vế vắng mặt xung quanh một tín hiệu ngôn
ngữ.
Tác giả đã dùng sơ đồ chỉ mối quan hệ giữa từ “ĂN” với “chén”, “xơi” để giải
thích rõ thêm:
xơi

b

chén

a

ĂN


n

n

Thông qua ví dụ trên, tác giả cho rằng chính thao tác lựa chọn trong khi tổng hợp
các vế vắng mặt lại trong mối quan hệ tương đồng đã làm bật dậy sự đối lập giữa các vế
đó, tạo nên sắc thái cho các từ.
Khi nói về tiền đề vật chất của thao tác lựa chọn, tác giả cho rằng ở cấp độ âm vị
thì các âm vị tồn tại trong các biến thể, còn ở cấp độ hình vị thì các hình vị cũng tồn tại
trong các tha hình – những sự biến dạng – đặt ra về sự phân bố bề mặt ngôn ngữ học. Với
các tình hình phân bố ở những bối cảnh nhất định sẽ làm nảy sinh sắc thái ý nghĩa – nảy
sinh khả năng thay thế.
Còn khi nói về phạm vi hoạt động của thao tác lựa chọn, tác giả cho rằng nếu “xét
vấn từ phía tác giả thì hiện tượng lựa chọn diễn ra giữa vốn ngôn ngữ và cá nhân tác
giả” [2; tr. 17]. Công việc này giúp cho tác giả nói được ý mình. Tác giả càng thành thạo
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
23


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
thao tác lựa chọn thì khả năng phù hợp giữa ý định và sự thực hiện ngôn ngữ càng cao.
Còn “xét vấn đề về phía người đọc thì hiện tượng lựa chọn diễn ra giữa vốn ngôn ngữ
và cá nhân người đọc” [2; tr. 18]. Công việc này giúp cho người đọc hiểu được ý tác giả.
Người đọc càng thành thạo thao tác lựa chọn thì khả năng rút ngắn khoảng cách giữa tác
phẩm và sự tái hiện tác phẩm càng lớn.
Tác giả tóm lại “Trong hoạt động ngôn ngữ, thao tác lựa chọn liên quan đến vốn
ngôn ngữ, tức đến vốn ngôn ngữ tồn tại trong óc các cá nhân, vân dụng năng lực liên

tưởng để cung cấp sự lựa chọn những đơn vị ngôn ngữ cần thiết” [2; tr. 18 - 19].

1.2. Thao tác kết hợp
Theo tác giả, “Thao tác kết hợp dựa trên một khả năng khác của hoạt động ngôn
ngữ, là các yếu tố ngôn ngữ có thể đặt bên cạnh nhau nhờ vào mối quan hệ tương cận
giữa chúng” [2; tr. 19]. Khi đặt yếu tố ngôn ngữ này cạnh yếu tố ngôn ngữ khác, cái quan
hệ tương cận của thao tác kết hợp được dùng để thể hiện nội dung phát ngôn.
Thao tác kết hợp cũng là việc kết hợp các từ tạo nên câu nói, một việc làm bình
thường trong thực tiến nói năng.
Nói về tiền đề vật chất của thao tác kết hợp, tác giả nhận định rằng “trong cách tổ
chức ngôn ngữ để giao tế, ngoài tính biến dạng còn có một tính chất hết sức quan trọng
nữa, đó là tính hình tuyến hiểu theo nghĩa hình tượng của từ này” [2; tr. 21]. Đặc trưng
này đưa tới hệ quả quan trọng là vấn đề trật tự cái trước cái sau của các đơn vị ngôn ngữ,
xuất hiện thêm một khả năng trong việc cấp nghĩa cho các yếu tố ngôn ngữ học: dựa vào
hai hoặc nhiều vế đầu cùng có mặt trên lời nói để thuyết minh lẫn cho nhau.
Nói về phạm vi hoạt động của thao tác kết hợp, tác giả “xét về phía tác giả, hiện
tượng kết hợp diễn ra giữa tác giả và tác phẩm” [2; tr. 23]. Với thao tác này, tác giả có
thể nói lên ý mình. Người thành thạo thao tác kết hợp sẽ nhanh chóng tìm ra được cách
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
24


Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương
kết hợp tốt nhất, làm cho lời nói đạt hiệu quả cao. Còn nếu “xét từ phía người đọc thì
hiện tượng kết hợp diễn ra giữa tác phẩm và cá nhân người đọc” [2; tr. 23]. Công việc
này giúp người đọc hiểu được ý tác phẩm. Người đọc càng thành thạo thao tác kết hợp
thì năng lực phân tích các kết hợp ngôn ngữ trong tác phẩm càng lớn.
Tác giả tóm lại: “Trong hoạt động ngôn ngữ, thao tác kết hợp liên quan đến lời

nói ra, tức đến những đơn vị ngôn ngữ trong tiếng nói bằng âm thanh, vận dụng năng
lực bao quát sự kết hợp các mảnh hiện thực nhằm tạo ra các kết hợp để giao tế” [2; tr.
24].
Chính thao tác lựa chọn và kết hợp đã cấp cho mỗi đơn vị ngôn ngữ hai nhóm yếu
tố thuyết minh: các đơn vị có thể thay thế nhau và những đơn vị ngôn ngữ được đưa ra
cùng một lúc với nhau. Chính hai thao tác này đã giúp cho âm thanh “tự nó” có nghĩa,
thể hiện một khả năng nói về đối tượng hết sức to lớn.

2. Về phương thức của nghệ thuật ngôn từ
Theo tác giả Nguyễn Phan Cảnh, trong bất kì hoạt động nghệ thuật nào của con
người nhằm tái hiện hiện thực cũng luôn có hai mặt gắn liền nhau: phản ánh hiện thực
và thể hiện sức sáng tạo của con người. Thế nên nghệ thuật ngôn từ bao gồm hai phương
thức cơ bản là phương thức tạo hình và phương thức biểu hiện.

2.1. Phương thức tạo hình
Tác giả cho rằng “nét nổi bật của phương thức tạo hình trong nghệ thuật là trực
tiếp miêu tả các hiện tượng của hiện thực, vẽ nên bức tranh về cuộc sống, mở ra trước
mắt người xem những tác phẩm giống với các đối tượng trong thực tế” [2; tr. 28]. Chính
nhờ khả năng này, ngôn ngữ đã hoàn thành nhiệm vụ của một chất liệu của hình thái nghệ
thuật tạo hình: “nhờ khả năng nói về đối tượng, ngôn ngữ có thể phản ánh hiện tượng
trong tất cả tính cụ thể và tầm rộng lớn của nó” [2; tr. 30].
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
25


×