Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

thực trạng và hướng hoàn thiện chế định thẩm phán tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.23 KB, 73 trang )

Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2010 – 2014

THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN

Giảng viên hƣớng dẫn:
Nguyễn Nam Phƣơng
Bộ môn: Luật hành chính

Sinh viên thực hiện:
Đào Văn Tài
MSSV: 5105904
Lớp: Luật Thƣơng mại 1-K36

Cần Thơ, tháng 11 năm 2013


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH
THẨM PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN ....................................................... 4
1.1 KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẨM PHÁN ................................... 4
1.1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 4


1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán......................................................................... 5
1.2 NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN.............................................. 6
1.2.1 Độc lập với Hội đồng xét xử .......................................................................... 7
1.2.2 Độc lập với Viện kiểm sát .............................................................................. 8
1.2.3 Độc lập với Tòa án cấp trên............................................................................ 9
1.2.4 Độc lập với cơ quan Nhà nước khác ............................................................ 10
1.3 SƠ LƢỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
THẨM PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM.......................................... 11
1.3.1 Hiến pháp năm 1946 ..................................................................................... 11
1.3.2 Hiến pháp năm 1959 ..................................................................................... 14
1.3.3 Hiến pháp năm 1980 ..................................................................................... 14
1.3.4 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) ...................................................... 15
1.4 TÌM HIỂU VỀ CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN TRONG LUẬT MỘT SỐ
NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI ....................................................................................... 17
1.4.1 Thẩm phán ở nước Hợp chủng quốc Hoa kỳ ............................................... 17
1.4.2 Thẩm phán ở Vương quốc Anh .................................................................... 18
1.4.3 Thẩm phán ở Cộng hòa pháp ........................................................................ 19

CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THẨM PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN ..................................................... 22
2.1 NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN ..... 22
2.1.1 Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán ...................................................... 22
2.1.2 Một số trách nhiệm khác của Thẩm phán..................................................... 23
2.2 TIÊU CHUẨN CỦA THẨM PHÁN ................................................................ 25
2.2.1 Tiêu chuẩn Thẩm phán ................................................................................. 25


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
2.2.2 Tiêu chuẩn riêng của các ngạch thẩm phán .................................................. 26
2.3 TUYỂN CHỌN, BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC

THẨM PHÁN .......................................................................................................... 29
2.3.1 Tuyển chọn, bổ nhiệm .................................................................................. 29
2.3.2 Miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán ............................................................. 38
2.4 TIỀN LƢƠNG VÀ CÁC CHẾ ĐỘ PHỤ CẤP CHO THẨM PHÁN ........... 39
2.4.1 Tiền lương của thẩm phán ............................................................................ 39
2.4.2 Các chế độ Phụ cấp cho thẩm phán .............................................................. 40

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH THẨM PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN .......................................... 45
3.1. VẤN ĐỀ VỀ SỐ LƢỢNG VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA THẨM PHÁN ......... 45
3.1.1. Số lượng Thẩm phán ................................................................................... 45
3.1.2. Chất lượng Thẩm phán ................................................................................ 48
3.2. VẤN ĐỀ VỀ NHIỆM KỲ, QUY TRÌNH TUYỂN CHỌN, BỔ NHIỆM
THẨM PHÁN .......................................................................................................... 53
3.2.1. Về nhiệm kỳ của thẩm phán ........................................................................ 53
3.2.2. Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ............................................... 55
3.3. VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO TÍNH ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CỦA THẨM PHÁN ................................................................................................ 56
3.3.1. Độc lập với Hội đồng xét xử ....................................................................... 56
3.3.3 Độc lập với Viện kiểm sát ............................................................................ 58
3.3.4 Độc lập với Tòa án cấp trên.......................................................................... 60
3.3.5 Độc lập với cấp Ủy, chính quyền địa phương .............................................. 61

KẾT LUẬN................................................................................................ 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy Nhà nước ta, Tòa án nhân dân có vị trí vô cùng quan trọng, theo
Điều 127 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy
định “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự
và các các Tòa án khác do luật quy định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa việt nam”, Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng khẳng định “Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Đây là sở pháp lý để xác định vị trí quan trọng của ngành Tòa án trong hệ thống
các cơ quan Nhà nước. Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ
nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi
biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật, thông qua hoạt động xét xử thì hệ thống ngành Tòa
án đã góp phần to lớn vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hiện nay chúng
ta đang trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung và nâng cao chất lượng cho đội ngũ Thẩm phán ngành
Tòa án nhân dân nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Với việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc
biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong
đó yêu cầu đối với công tác cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách
nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ” và
“Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu
về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực”… ngành Tòa
án nhân dân đã rất chú trọng việc kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ lý luận bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh của đội

ngũ cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Do đó, đội ngũ
Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân đã không ngừng được tăng cường về số lượng và
nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên trong những năm gần đây thì đội ngũ thẩm phán
Tòa án nhân dân các cấp vẫn còn thiếu về số lượng, chất lượng cũng như kinh nghiệm
công tác và đạo đức nghề nghiệp, và nhiều bất cập khác trước yêu cầu của công tác xét

1


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
xử… điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác xét xử. Để nhằm
tìm ra những nguyên nhân và khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt động của
thẩm phán thì người viết đã chọn đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Ngay từ ngày thành lập ngành Tòa án nhân dân cho đến nay thì Nhà nước ta đã
luôn quan tâm và chú ý đến việc xây dựng đội ngũ các cơ quan tư pháp đặc biệt là chế
định thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân, hàng loạt các văn bản điều chỉnh về chế
định thẩm phán được ban hành theo thời gian ngày càng được củng cố và hoàn thiện
hơn. Những chính sách của Đảng, Nhà nước và pháp luật nước ta đã tạo điều kiện cho
việc chuyển hóa đội ngũ thẩm phán ngày càng bản lĩnh hơn. Song song đó, thì cũng có
khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề liên quan đến chế định thẩm phán
Tòa án nhân dân cụ thể như: Việc xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện
nay; phân tích chế định Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong ngành Tòa án nhân
dân; phân tích nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật…
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Đề tài hướng đến mục đích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về chế định
thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân cụ thể như vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn

và trách nhiệm, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức…
Bên cạnh đó, người viết cũng đưa ra những thực trạng và những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của chế định thẩm phán, đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện và năng cao hiệu quả hoạt động của Thẩm phán trong công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong đề tài này người viết chỉ tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật về chế định thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân cụ thể như: khái niệm,
vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, tiền lương và chế độ khác của Thẩm phán. Còn những
nội dung khác do kiến thức người viết còn hạn hẹp nên chưa thể nghiên cứu hết được
một cách trọn vẹn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

2


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Trong quá trình nghiên cứu luận văn thì người viết đã vận dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu cụ thể như so sánh, phân tích tổng hợp, thống kê... nhằm làm sáng tỏ
những quan điểm của Đảng, Nhà nước và những quy định của pháp luật về chế định
thẩm phán.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Chương 2: Nội dung cơ bản và thực tiễn áp dụng những quy định của chế định
Thẩm phán Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành
Chương 3: Giải pháp và hướng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

Mặc dù đã cố gắng nhưng do kinh nghiệm của bản thân cũng như thời gian còn
hạn chế nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báo của quý thầy cô, các bạn sinh viên và
tất cả những ai quan tâm về “Chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân”, để đề tài nghiên
cứu ngày càng hoàn thiện hơn.

3


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1 KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẨM PHÁN
1.1.1. Khái niệm
Theo từ điển Luật học và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm năm 2002 có định
nghĩa: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án”. 1
Như vậy, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án, nhân
danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là một hoạt động
nghề nghiệp đặc thù so với các nghề nghiệp khác ở chổ hoạt động xét xử của Thẩm
phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã
hội. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán thay mặt
cho Tòa án tiến hành xem xét, đánh giá, ra các quyết định đúng đắn nhằm bảo vệ lợi
ích của công dân.
Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ cấp Trung ương đến địa
phương và các Tòa án quân sự các cấp được quy định cụ thể tại Điều 2 Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2011), gắn với
mỗi cấp thì có một ngạch Thẩm phán khác nhau. Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Thẩm phán trung cấp;
- Thẩm phán sơ cấp;
- Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương
đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ
cấp.
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương có Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Tòa
án nhân dân cấp tỉnh), Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là Tòa án nhân dân cấp huyện), Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa
án quân sự khu vực có Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.

1

Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

4


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Hiệu quả hoạt động của Tòa án thể hiện cụ thể ở việc thực hiện nhiệm vụ xét xử
của Tòa án. Chính vì vậy, việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử đang là
vấn đề được đặt lên hàng đầu.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán
Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt
động tố tụng. Trong Hội đồng xét xử, Thẩm phán là người giữ vai trò rất quan trọng.
Ngay từ thời La Mã các nhà luật học đã khẳng định: “Ở đâu có pháp luật thì ở đó có
Thẩm phán”. Điều đó cho thấy sự ra đời của Tòa án là yêu cầu cần thiết và tất yếu. Là

người đại diện cho Tòa án trong công tác xét xử thì Thẩm phán đã trực tiếp góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng tài sản, tự do
Tòa án giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Với vị trí quan trọng đó, những
người làm công tác xét xử mà tiêu biểu là Thẩm phán cũng được đặt lên hàng đầu, là
người “cầm cân nảy mực”, đại diện công lý, nhân danh Nhà nước để ra phán quyết,
quyết định đến vận mệnh con người. Và để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, giải
quyết các tranh chấp đúng pháp luật, công bằng, đúng lẽ phải… thì đòi hỏi Thẩm phán
phải có đủ bản lĩnh, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng. Đồng thời, Thẩm
phán còn phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống
lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ
biến pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng, họ có vai trò gần
như là có thể quyết định đến chất lượng của quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Mặc dù,
Thẩm phán không trực tiếp tham gia phiên tòa với tư cách là một chủ thể, hay là một
bên trong quá trình tranh tụng nhưng với tư cách là người đại diện cho Nhà nước thực
thi công lý, với vị trí là trọng tài, là người hướng dẫn cho các bên đương sự trong việc
thực hiện quyền tranh tụng đúng pháp luật. Thẩm phán là người điều khiển, dẫn dắt
việc tranh tụng tại phiên tòa để việc tranh tụng được diễn ra một cách có trật tự, đi
đúng trọng tâm vào những vấn đề mấu chốt, những điểm còn mâu thuẫn, cần làm rõ
của vụ kiện. Và thông qua kết quả tranh tụng, Thẩm phán đánh giá nội dung thực chất
của vụ án, các chứng cứ, các lập luận, lý lẽ của mỗi bên… trên cơ sở đó, căn cứ vào
quy định của pháp luật để ra những phán quyết đúng đắn.
Ngoài ra Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua các phiên xét xử tại cơ quan Tòa án
hay các phiên xét xử lưu động tại các địa phương… theo đó, Thẩm phán bằng hoạt
động xét xử của mình giúp cho những người tham gia tố tụng, những người tham dự
5



Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
phiên xét xử… có thể hiểu rõ được những quy định của pháp luật được áp dụng để giải
quyết vụ án; giúp họ hình thành được cảm xúc về sự công bằng, tính nghiêm minh của
pháp luật… từ đó củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp luật. Hơn nữa thông qua
hoạt động xét xử các phiên tòa lưu động cũng mang ý nghĩa răn đe tội phạm vừa có tác
dụng đấu tranh chống các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết
các dân tộc của Đảng và nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân, đặc biệt là đồng
bào dân tộc thiểu số.
Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng Thẩm phán có một vị trí, vai trò quan trọng
trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động Tòa án nhân dân nói riêng. Với
sứ mệnh cao cả này, pháp luật cũng tạo cho Thẩm phán một vị thế tương ứng trong xã
hội là người “cầm cân nảy mực” đại diện cho cái thiện chống lại cái ác, là nơi mà mọi
người dân đặt niềm tin về công lý và công bằng xã hội.
1.2 NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN
Nguyên tắc độc lập xét xử là một nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền, nó là một giá trị phổ biến khi
nói về một nền Tư pháp công bằng. C.Mác từng nói: “Đối với Thẩm phán thì không có
cấp trên nào khác ngoài luật pháp”.2 Chính từ tầm quan trọng của nguyên tắc này nên
Nhà nước ta đã ghi nhận ngay nguyên tắc này tại Điều 69 Hiến pháp năm 1946:
“Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không được can thiệp”. Và điều đó tiếp tục được ghi nhận tại Điều 100 Hiến pháp
1959: “Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Nhận thức rằng Thẩm phán và Hội thẩm là những người trực tiếp xét xử và chịu trách
nhiệm về phán quyết của mình. Đến Hiến pháp năm 1980 (Điều 131) và Hiến pháp
năm 1992 (Điều 130) đã quy định rõ ràng, cụ thể: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Và ngay cả trong Luật tổ chức Tòa án nhân
dân được ban hành vào các năm 1960, 1981, 1992, và 2002, nguyên tắc này đã luôn
được khẳng định.
Tính độc lập của Thẩm phán cũng đã chứng minh cho sự độc lập trong hệ thống
quyền lực Nhà nước giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều đó chứng tỏ

Tư pháp không hề bị phụ thuộc vào lập pháp và hành pháp. Trong tác phẩm “Tinh thần
luật pháp”, Mông-téx-ki-ơ viết: Khi quyền lập pháp được sát nhập với quyền hành
pháp và tập trung vào trong một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được.
Bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật
độc đoán để thi hành một cách độc đoán.
2

Các Mác: Các Mác Toàn tập (tập I), Nxb chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.137.

6


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sát nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không
có tự do. Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành
những kẻ áp bức”.3 Tính độc lập của Thẩm phán được thể hiện trong nhiều mối quan
hệ.
1.2.1 Độc lập với Hội đồng xét xử
1.2.1.1. Độc lập với Hội thẩm nhân dân
Ở Việt Nam chức năng xét xử không chỉ riêng của Thẩm phán mà đó còn là chức
năng của Hội thẩm nhân dân. Vì vậy, nguyên tắc xét xử độc lập không chỉ có ở nơi
thẩm phán mà còn có ở cả Hội thẩm nhân dân: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Theo Từ điển tiếng Việt:“Độc lập là
đứng một mình, không dựa vào ai, không nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”.4 Nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được thể
hiện dưới hai khía cạnh là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố
bên trong:
Độc lập với các yếu tố bên ngoài được hiểu là, khi xét xử bất kỳ một vụ án nào, ở
bất kỳ cấp xét xử nào, khi được phân công làm chủ toạ hay tham gia Hội đồng xét xử,

Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc vào bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào
trong việc đưa ra ý kiến hay phán quyết đối với nội dung vụ án. Tuy Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào hay có thể nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi ban hành các quyết
định tố tụng hoặc bản án thì Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên
ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án.
Độc lập với các yếu tố bên trong được hiểu là căn cứ duy nhất mà Thẩm phán,
Hội thẩm dựa vào để ra phán quyết trong vụ án là các căn cứ pháp luật. Nghĩa là khi
xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ
sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành
viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được
tham gia nghị án. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng.
Các vấn đề cần giải quyết của vụ án phải được thảo luận và biểu quyết theo đa số.
Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu
trong hồ sơ vụ án.

3

Mông-téx-ki-ơ: Tinh thần luật pháp, Nxb Sài Gòn, 1967, tr 84.
Từ điển tiếng việt, [ngày truy cập 01-10-2013].

4

7


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Hai nội dung của nguyên tắc này có quan hệ biện chứng với nhau. Chỉ khi Thẩm
phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc thì họ mới có điều kiện để tuyệt đối tuân thủ

pháp luật và ngược lại, chỉ khi Thẩm phán và Hội thẩm tuyệt đối tuân thủ pháp luật,
lấy pháp luật là căn cứ duy nhất để xét xử thì họ mới độc lập, không bị phụ thuộc vào
ai.
Có thể nói: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của các hình thức tố tụng, nó
cũng là một trong những điều kiện bảo đảm công tác xét xử đạt hiệu quả.
1.2.1.2. Độc lập giữa các Thẩm phán
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, đồng thời là một nghề nghiệp đặc biệt, nghề
xét xử. Sự độc lập ở đây không chỉ là độc lập đối với các cơ quan tố tụng, người tiến
hành tố tụng… mà còn là sự độc lập giữa các Thẩm phán trong cùng vụ án (vụ án có
hai Thẩm phán trở lên). Khi xét xử thì các Thẩm phán không nên vì sự ảnh hưởng bởi
quan điểm, ý kiến của nhau mà đưa ra những phán quyết sai lệch với công lý, lẽ
phải… Họ phải giữ vững lập trường, quan điểm của mình và chỉ tuân theo một điều đó
là pháp luật vì chỉ có pháp luật mới là cấp trên của họ. Và chỉ khi nào họ thật sự chỉ
tuân theo pháp luật thì họ mới thật sự độc lập và ngược lại.
1.2.2 Độc lập với Viện kiểm sát
Độc lập xét xử không có nghĩa là không có sự kiểm sát. Hoạt động xét xử
của Toà án luôn chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân nằm
trong hệ thống các cơ quan tư pháp với chức năng là: “Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp”, được cụ thể hóa bằng việc quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ở Điều 36 và 37 Luật Tố tụng hình sự
năm 2003.
Sự độc lập giữa Thẩm phán và Viện kiểm sát được thể hiện rõ nét nhất là ở sự độc
lập giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên (người được Viện trưởng phân công thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử trong quá trình tố tụng), sự độc lập
ấy được thể hiện từ giai đoạn khởi tố, điều tra cho đến xét xử, và sự độc lập ấy được
thể hiện rõ nhất là ở giai đoạn xét xử. Khi xét xử Kiểm sát viên đưa ra bản cáo trạng
truy tố dựa trên những tài liệu, chứng cứ… theo quan điểm của Kiểm sát viên, nhưng
Thẩm phán không có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân theo bản cáo trạng đó, mà Thẩm
phán căn cứ vào những chứng cứ cụ thể và các tình tiết của vụ án diễn ra tại phiên xét

xử, tuân theo những quy định của pháp luật cụ thể có liên quan mà đưa ra phán quyết
cuối cùng. Khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án thì Kiểm sát viên có quyền giữ vững

8


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
hoặc thay đổi quan điểm đã nêu ở bản cáo trạng và quyết định cuối cùng vẫn phụ
thuộc vào các thành viên của Hội đồng xét xử.
1.2.3. Độc lập với Tòa án cấp trên
Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp Toà án với
nhau. Theo yêu cầu của nguyên tắc độc lập thì Tòa án cấp dưới khi xét xử phải không
lệ thuộc vào sự chỉ đạo cũng như dựa dẫm vào ý kiến chỉ đạo của cơ quan Tòa án cấp
trên. Mặc dù về mặc tổ chức thì các tòa án địa phương phải chịu sự quản lý của Tòa án
nhân dân tối cao, nhưng về mặt xét xử thì tòa án cấp dưới phải hoàn toàn độc lập với
Tòa án cấp trên. Theo quy định thì về mặt chuyên môn Tòa án nhân dân tối cao có
thẩm quyền “hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh
nghiệm xét xử của các Toà án” và Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền tổng kết
kinh nghiệm xét xử. Trên cơ sở đó, các Tòa án cấp dưới sẽ vận dụng để giải quyết các
vụ án chính xác và đúng pháp luật hơn. Đối với từng vụ án cụ thể thì Tòa án phải căn
cứ vào các quy định của pháp luật và những gì diễn ra tại phiên tòa để ra phán xét.
Trong trường hợp nếu thấy vướng mắc về vấn đề tố tụng, đánh giá chứng cứ... Tòa án
cấp dưới có quyền làm văn bản xin ý kiến của Tòa án cấp trên để được hướng dẫn.
Trong thẩm quyền của mình, nếu thấy có sự xung đột pháp luật hay mâu thuẫn trong
văn bản áp dụng mà Tòa án cấp trên chưa hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa đầy đủ thì
Tòa án cấp trên phải hướng dẫn cho Tòa án cấp dưới cách áp dụng pháp luật sao cho
chuẩn xác nhất. Tuyệt đối, Tòa án cấp trên không được phép “chỉ đạo” Tòa cấp dưới
phải xử như thế này hoặc như thế kia.5
Đối với những vụ án phức tạp để xét xử đúng vụ án Hội đồng xét xử có thể tham
khảo ý kiến lãnh đạo Tòa án, Tòa án cấp dưới có thể tham khảo ý kiến Tòa án cấp trên

về việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật giải quyết vụ án nhưng không nhất thiết
phải phụ thuộc vào các ý kiến đó mà vẫn phải căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu của vụ
án và diễn biến của vụ án tại phiên Tòa để xét xử. Lãnh đạo của Tòa án không thể áp
đặt ý kiến về việc giải quyết vụ án cho Tòa án cấp dưới, các thành viên của Hội đồng
xét xử cũng phải độc lập với nhau, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Mọi hành vi
can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm,
nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm đề cao trách
nhiệm xét xử của những con người cầm cân nảy mực, đồng thời quy định này cũng

5

Đinh Thanh Phương: Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân, Tạp chí Khoa học, 2012, tr.
153 - 161, tr. 156.

9


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
khẳng định rõ nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng sự độc lập của Hội
đồng xét xử trong công tác xét xử.6
Như vậy, trong hoạt động nghiệp vụ xét xử, mối quan hệ giữa Toà án cấp trên
và Toà án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng, Toà án cấp trên hướng dẫn Toà án cấp dưới
về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không được quyết định hoặc
gợi ý cho Toà án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Tòa án cấp dưới có
quyền tham khảo ý kiến của Tòa án cấp trên nhưng trong quá trình xét xử và khi đưa
ra phán quyết sau cùng thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và căn cứ vào
những gì diễn ra tại phiên Tòa đối với từng vụ án cụ thể chứ tuyệt đối không được căn
cứ vào ý kiến chỉ đạo của Tòa án cấp trên một cách máy móc.
1.2.4 Độc lập với cơ quan Nhà nƣớc khác
Theo Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2011) của nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
tất cả các quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân’. Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự phân công, phân nhiệm rành mạch và có sự
phối hợp ba quyền đó. Đây là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đối với các cơ quan Đảng thì mặc dù, về nguyên tắc, trong hoạt động của mình
Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Nhà nước của chúng ta là Nhà
nước pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chế và mọi hoạt động của Đảng, kể
cả hoạt động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vì lẽ đó, trong hoạt
động xét xử, Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật và làm đúng theo các quy định của pháp
luật; nghĩa là, Tòa án phải độc lập với các cơ quan khác.7
Trong hoạt động xét xử thì Tòa án phải không bị lệ thuộc, bị áp lực từ phía các cơ
quan khác kể cả cơ quan nhà nước và cơ quan Đảng. Kim chỉ nam duy nhất để Tòa án
căn cứ vào khi xét xử là các quy định của pháp luật có liên quan. Tòa án không phải
chịu sự chỉ đạo của bất kì cơ quan nào khác. Đối với các cơ quan Nhà nước thì rõ ràng
các cơ quan này không có trách nhiệm và quyền hạn trong việc xét xử, đây là chức
năng của Tòa án. Mỗi cơ quan đều có một chức năng riêng tương ứng, và mối liên hệ
giữa các cơ quan Nhà nước là sự phối hợp với nhau để tạo nên sự đồng bộ nhằm thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Yêu cầu về sự phối hợp không có
6

Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên): Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự,
Nxb Lao Động, Hà Nội, 2011, tr. 18.
7
Đinh Thanh Phương: Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân, Tạp chí Khoa học, 2012, tr.
153 - 161, tr. 155 - tr. 156.

10



Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
nghĩa là các cơ quan Nhà nước khác có quyền gây áp lực và tác động lên hoạt động xét
xử cả Tòa án. Mà ngược lại, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước khác là phải thực
hiện đúng và tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm góp phần giúp Tòa án thực hiện
chức năng xét xử.
1.3 SƠ LƢỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẨM
PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.3.1 Hiến pháp năm 1946
Lịch sử ra đời của Thẩm phán nước ta gắn liền với sự hình thành và phát triển của
ngành Tòa án. Nhận thức đúng đắn về vai trò của Tòa án trong bộ máy Nhà nước, kể
từ tháng 9 năm 1945, ngay sao khi Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm
pháp luật về tổ chức Tòa án cụ thể như: Tòa án quân sự theo sắc lệnh số 33C ngày
13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ; Tòa án đặc biệt theo sắc lệnh 64/SL ngày
23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ… Trong đó tiêu biểu nhất là Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán. Theo
Sắc lệnh này, hệ thống Tòa án có hai ngạch Thẩm phán là ngạch sơ cấp và ngạch đệ
nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc tại Tòa án sơ cấp; Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc
tại Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm (Điều 48). Ngạch đệ nhị cấp lại được chia
làm hai chức vị, các Thẩm phán xử án do Chánh nhất Tòa thượng thẩm đứng đầu và
Thẩm phán của Công tố viện (Thẩm phán buộc tội) do Chưởng lý đứng đầu (Điều 49).
Các ngạch Thẩm phán lại được chia thành các hạng. Ngạch đệ nhị cấp gồm bảy hạng,
từ hạng bảy đến hạng nhất, ngạch sơ cấp gồm sáu hạng từ hạng năm đến ngoại hạng
(Điều 52).8 Cụ thể là:

8

Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, 2004, tr 153-157.


11


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Hạng
Nhất

Ngạch Thẩm phán Tòa án đệ nhị cấp:
Thẩm phán xử án

Thẩm phán buộc tội

Chánh nhất Tòa Thượng Thẩm

Chưởng lý Tòa Thượng
thẩm

Bậc nhất: Chánh án phòng Tòa Thượng Bậc nhất: Phó trưởng lý Tòa
thẩm
Hai

Thượng thẩm

Bậc nhì: Chánh án Tòa Đệ nhị cấp Hà Bậc nhì: Biên lý Tòa Đệ nhị
Nội, Hải phòng. Sài Gòn.
cấp Hà Nội, Hải phòng. Sài
Gòn

Ba


Hội thẩm Tòa Thượng thẩm

Thẩm lý Tòa Thượng thẩm

Chánh án Tòa đệ nhị cấp hạng nhất

Biện lý Tòa đệ nhị cấp hạng
nhất



Dự thẩm và Thẩm phán các Tòa Đệ nhị Phó biện lý các Tòa án đệ
nhị cấp Hà Nội, Hải phòng.
cấp Hà Nội, Hải phòng, Sài Gòn.
Sài Gòn.
Chánh án Tòa đệ nhị cấp hạng nhì

Năm

Sáu

Biện lý Tòa đệ nhị cấp hạng
nhì

Dự thẩm và Thẩm phán các Tòa Đệ nhị Phó biện lý các Tòa án đệ
nhị cấp hạng nhất.
cấp hạng nhất.
Chánh án Tòa đệ nhị cấp hạng ba và Biện lý Tòa đệ nhị cấp hạng
hạng tư

ba và hạng tư
Dự thẩm Tòa đệ nhị cấp hạng nhì.
Thẩm phán dự khuyết

Bảy

Tham lý Tòa Đệ nhị cấp

Dự thẩm Tòa đệ nhị cấp hạng ba và hạng

Thẩm phán tập sự.

Bảng 1: Ngạch Thẩm phán Tòa án đệ nhị cấp

12


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
- Ngạch Thẩm phán Tòa án Sơ cấp:
Hạng

Chức việc

Hạng ngoại

Chánh Tòa sơ cấp các thành phố to

Nhất

Chánh Tòa sơ cấp hạng nhất


Nhì

Chánh Tòa sơ cấp hạng hai.

Ba

Chánh Tòa sơ cấp hạng ba.



Chánh Tòa sơ cấp hạng tư.

Năm

Thẩm phán tập sự.

Bảng 2: Ngạch Thẩm phán Tòa án sơ cấp 9
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 cũng quy định cụ thể tiêu chuẩn, cách thức bổ
nhiệm Thẩm phán. Để được làm Thẩm phán thì phải đầy đủ các tiêu chuẩn như: Có
quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn bà, đàn ông, hạnh kiểm tốt, chưa can án bao
giờ. Việc bổ nhiệm Thẩm phán được phân cấp tương ứng với hai ngạch Thẩm phán.
Các Thẩm phán đệ nhị cấp sẽ do một sắc lệnh của vị Chủ tịch nước Việt Nam bổ
nhiệm, còn các Thẩm phán sơ cấp sẽ do nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.10
Do đó, để đảm bảo cho các Thẩm phán yên tâm “phụng công thủ pháp”, Sắc lệnh số
13 còn quy định “Không ai có thể bắt bớ, giam cầm một Thẩm phán bất cứ vì lẽ gì,
nếu không được Bộ trưởng Bộ Tư pháp thỏa thuận trước”.11
Ngày 9/11/1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ra đời và bắt đầu đi vào cuộc
sống. Theo Hiến pháp 1946 hệ thống Tòa án được điều chỉnh gồm có: Tòa án tối cao,
Tòa án phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và Sơ cấp.12 Hiến pháp quy định các viên Thẩm

phán đều do Chính phủ bổ nhiệm với nhiệm kỳ làm việc suốt đời. Cùng với nguyên tắc
độc lập thì các Thẩm phán chỉ trọng pháp luật và công lý.
Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh chính quyền mới được thành lập và đất nước vẫn
còn những khó khăn nhất định…, nhưng Tòa án đã góp phần vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, thì hệ thống các văn bản quy định về tổ chức và hoạt

9

Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 Về việc tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
Điều 53, 54, 55, 57 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 Về việc tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
11
Điều 75 Mục B: Đặc quyền tư pháp Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 Về việc tổ chức Tòa án và các ngạch
Thẩm phán.
12
Điều 63 Hiến pháp năm 1946 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10

13


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
động của Tòa án nói chung và của Thẩm phán nói riêng là khá chặt chẽ và hoàn thiện
đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn bấy giờ.
1.3.2 Hiến pháp năm 1959
Ngày 31 tháng 12 năm 1959 Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 11, đã thông qua
Hiến pháp sửa đổi, nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước
nhà. Theo Hiến pháp 1959 ra đời quy định Hệ thống Tòa án gồm có Tòa án nhân dân
tối cao, các Tòa án địa phương và Tòa án quân sự các cấp.
Nguyên tắc xét xử hai cấp được ghi nhận tại Điều 9 trong Luật tổ chức Tòa án

nhân dân năm 1960. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán được thay thế bằng nguyên tắc
bầu Thẩm phán. Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Thẩm phán Tòa án
nhân dân các cấp ở địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.
Nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh là bốn năm, nhiệm kỳ của Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp huyện là ba năm. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy
ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Đặc biệt, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 còn quy định
nguyên tắc xét xử tập thể với thành phần đa số Hội thẩm nhân dân. Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 1960 quy định về điều kiện để được bầu làm Thẩm phán: Công dân
có quyền bầu cử và ứng cử, từ 23 tuổi trở lên có thể được bầu làm Thẩm phán hoặc
Hội thẩm nhân dân.13 Kể từ năm 1961 thì Bộ Tư pháp giải thể, Tòa án nhân dân tối cao
được giao nhiệm vụ quản lý Tòa án nhân dân địa phương.14
Như vậy, về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án và sự thay đổi cách thức
tuyển chọn Thẩm phán từ việc bổ nhiệm Thẩm phán ở Hiến pháp 1946 sang phương
pháp bầu Thẩm phán trong Hiến pháp 1959 là hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ cách
mạng mà Nhà nước ta đang thực hiện, đáp ứng cơ bản được nguyện vọng và tính dân
chủ cho nhân dân lao động cùng tham gia vào công cuộc này.
1.3.3 Hiến pháp năm 1980
Về cơ bản, trong giai đoạn này, hệ thống Tòa án nhân dân không khác nhiều với
hệ thống Tòa án nhân dân trong giai đoạn trước đó. Nguyên tắc tổ chức Tòa án theo
đơn vị hành chính lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền xét xử và nguyên tắc bầu cử Thẩm
phán ở các Tòa án địa phương được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp năm 1980 và
Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 3 tháng 7 năm 1981. Vẫn duy trì chế độ xét xử hai
cấp; Thẩm phán toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử theo đề nghị của
13

Điều 9, 12, 25, 26, 27, 28 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960.
Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 161-164.
14


14


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện thì
phải do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ họp Hội
đồng nhân dân. Số thẩm phán của toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước quy
định, theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; số thẩm phán của các Toà án
nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định, sau khi thoả thuận với
Chánh án toà án nhân dân tối cao.15 Tuy nhiên, mô hình tổ chức Tòa án trong giai đoạn
này có một số điểm mới, cụ thể như:
 Nhiệm kỳ của Thẩm phán theo luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 được
quy định rõ thời hạn nhất định, còn trong nhiệm kỳ của Thẩm phán theo Luật tổ chức
Tỏa án nhân dân năm 1981 là theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình;


Trong Tòa án tối cao không còn chức danh Thẩm phán dự khuyết;

Rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
1960, học tập kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, Nhà nước ta đã tái lập Bộ Tư
pháp. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 đã trao quyền quản lý các Tòa án địa
phương về mặt tổ chức cho Bộ Tư pháp.16 Tiếp đó Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981
cũng quy định tiêu chuẩn chung để được bầu làm thẩm phán đó là: Công dân Việt
Nam trung thành với tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lý cần thiết, có
tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được bầu làm Thẩm
phán Tòa án nhân dân.17
Như vậy, giai đoạn này Nhà nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội, có thể thấy rằng về tổ chức hệ thống Tòa án thời kỳ này là tương đối phù hợp.
1.3.4 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)

Năm 1986, Đảng và Nhà nước ta thực hiên công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý về tổ chức và hoạt động của Tòa án qua các
bản Hiến pháp. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, cuộc cải cách tư pháp lần thứ
ba được thực hiện, Tòa án nhân dân có những thay đổi về mô hình tổ chức phù hợp với
nhiệm vụ xét xử trong tình hình mới. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.18 Trong giai đoạn này, tổ chức hoạt
động của Tòa án có những đặc điểm cơ bản như sau:
15

Điều 11, 41, 42, 43 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981.
Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 165.
17
Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981.
18
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
16

15


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Thứ nhất: Chế độ xét xử hai cấp trước đây được quy định trong Điều 9 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1960, Điều 11 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 đã
không còn được quy định như là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án
trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992;
Thứ hai: Việc thực hiện chế độ bầu cử mặc dù mang tính dân chủ cao nhưng nó
cũng bộc lộ những hạn chế, cụ thể như: Việc bầu Thẩm phán phải do tập thể quyết

định nên trong công tác xét xử thì Thẩm phán sẽ bị lệ thuộc vào nhiều người (những
người đã bầu ra họ…). Chính vì vậy, điểm đổi mới đầu tiên trong Hiến pháp 1992 là
sự thay thế chế định bầu Thẩm phán trong giai đoạn trước bằng chế định bổ nhiệm
Thẩm phán làm việc theo nhiệm kỳ 5 năm. Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
1992, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương do
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán Tòa án nhân dân địa
phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân
cấp huyện, các Tòa án quân sự là năm năm kể từ ngày bổ nhiệm.19
Ngày 25 tháng 12 năm 2001, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị
quyết số 51/2001/QH10 về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Tiếp đó, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 11 ngày 02 tháng 04
năm 2002 đã thông qua Luật số 33/2002/QH10 về tổ chức Tòa án nhân dân. Theo Luật
này, hệ thống Tòa án Việt Nam vẫn được thành lập theo đơn vị hành chính lãnh thổ,
tuy nhiên có những điểm mới quan trọng so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
1992, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Khôi phục quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo đó, Bản án, quyết
định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật
tố tụng; bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do
pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định.20 Như vậy, về cơ
bản thì quy định này giống với Điều 9 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và
Điều 11 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, nhưng rõ ràng hơn, đồng thời vẫn
đảm bảo tính khái quát cao.
19
20


Điều 38 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992.
Điều 11 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

16


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Thứ hai: Bãi bỏ thiết chế Ủy ban Thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân tối cao. Theo
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao
gồm có: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án quân sự trung ương,
Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc.21
Thứ ba: Việc Bổ nhiệm Thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp được phân cấp
hợp lý. Theo Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thẩm quyền bổ nhiệm
Thẩm phán của Tòa án các cấp được phân cấp như sau: Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức; Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân
khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân địa
phương, Tòa án quân sự là năm năm. Thật ra việc phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán
không phải là vấn đề mới ở nước ta, cách phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán như trên đã
được quy định rất rõ trong Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946 của Chủ tịch
Chính phủ về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán. Theo đó, Chủ tịch nước bổ nhiệm
Thẩm phán ngạch đệ nhị cấp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán ngạch sơ
cấp.22
Như vậy, qua các thời kỳ phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam, quy chế pháp

lý của Thẩm phán ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Điều này có thể khẳng định
rằng vị trí, vai trò của Thẩm phán ngày càng được coi trọng hơn.
1.4 TÌM HIỂU VỀ CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN TRONG LUẬT MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1 Thẩm phán ở nƣớc Hợp chủng quốc Hoa kỳ
Hiến pháp Mỹ quy định chế độ bổ nhiệm Thẩm phán. Theo khoản 2 Điều II Hiến
pháp Hoa kỳ, Tổng thống bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao liên bang với sự phê
chuẩn của Thượng nghị viện. Quốc hội cũng quy định thủ tục như vậy đối với việc lựa
chọn Thẩm phán cho các Tòa án liên bang khác. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán là một
trong những yếu tố đặc biệt quan trọng đối với việc đảm bảo sự độc lập của quyền Tư
pháp. Ngoài chế định bổ nhiệm Thẩm phán như trên, còn có một yếu tố khác đảm bảo
21

Khoản 2 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 166 - 177.
22

17


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
cho sự độc lập của Tư pháp là nhiệm kỳ bổ nhiệm suốt đời của Thẩm phán. Theo
khoản 1 Điều III Hiến pháp quy định: “Các Thẩm phán Tòa án tối cao và Tòa án liên
bang cấp dưới trực thuộc sẽ giữ chức vụ của mình còn trong thời gian có hành vi chính
đáng …”. Hiến pháp Mỹ lấy hành vi chính đáng làm tiêu chuẩn để quy định nhiệm kỳ
của Thẩm phán. Theo Hiến pháp Mỹ, thì các vị Thẩm phán sẽ bị cách chức nếu: bị kết
tội phản quốc, nhận hối lộ hay phạm các tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ở mức
nghiêm trọng khác. Việc kết tội này do Quốc hội quyết định với sự nhất trí của cả hai
viện. Hạ nghị viện sẽ luận tội và Thượng nghị viện sẽ xét xử và chỉ kết tội khi ít nhất

2/3 số Thượng nghị sĩ có mặt trong phiên hợp hợp lệ nhất trí tán thành. Đây là cách
duy nhất cách chức Thẩm phán liên bang. Cho nên có thể hiểu rằng hành vi chính đáng
là tiêu chí bảo đảm cho Thẩm phán không bị quốc hội kết tội và cách chức Thẩm phán.
Ngoài quy định về nhiệm kỳ suốt đời của Thẩm phán, các quy định về điều kiện
sinh sống của các vị Thẩm phán là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự
độc lập của nhánh quyền lực tư pháp. Xuất phát từ ý tưởng nếu có thể kiểm soát được
sự sinh sống của một con người thì có thể kiểm soát được ý chí của người đó, các nhà
lập hiến Hoa kỳ cho rằng không thể phân định hoàn toàn giữa ngành Lập pháp và
ngành Tư pháp nếu ngành Tư pháp phải phụ thuộc vào ngành lập pháp về những
khoản lương bổng để sinh sống. Cho nên, Hiến pháp đã quy định: Các vị Thẩm phán
có quyền hưởng một khoảng lương bổng mà sẽ không bao giờ bị sụt giảm trong suốt
nhiệm kỳ của họ. Hiến pháp không xác định rõ một mức lương cụ thể của Thẩm phán
vì giá trị của đồng tiền có khi lên xuống và tình trạng sinh hoạt xã hội có khi thay đổi.
Hiến pháp không quy định cụ thể mức lương bổng của Thẩm phán mà để quyền đó
cho Quốc hội quy định sao cho thích hợp với hoàn cảnh thời buổi và Hiến pháp chỉ
cần ghi là không sụt giảm số lương bổng đó mà thôi. Khi một người đã vững chắc về
khoản thu nhập để lo cho cuộc sống của mình rồi thì họ mới có thể vững tâm để làm
tròn nhiệm vụ của mình.23
1.4.2 Thẩm phán ở Vƣơng quốc Anh
Hiện nay, một số Thẩm phán ở Anh được bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng
phụ trách Tư pháp. Một số Thẩm phán khác do Thủ tướng bổ nhiệm, sau khi tham
khảo ý kiến của Bộ trưởng phụ trách Tư pháp. Các Thẩm phán được bổ nhiệm là
những người thông thạo pháp luật, các luật sư đã có kinh nghiệm thông thạo tại các
Tòa án. Trước khi được bổ nhiệm, đương sự phải là Luật sư trong thời hạn bảy năm.
Một khi được bổ nhiệm, các vị Thẩm phán phục vụ nhà vua một cách thường trực nếu
có hạnh kiểm tốt.
23

Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 73 - 78.


18


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Và một đặc tính đặc biệt của các vị Thẩm phán là sự độc lập. Theo câu nói của
Jennings: “Người ta không bao giờ chỉ trích các vị Thẩm phán Anh thiên vị, ăn hối lộ
hay chịu ảnh hưởng chính trị”. Lý do là nghề luật sư ở Anh đòi hỏi nhiều điều kiện
khó khăn. Trước khi hành nghề Luật sư, đương sự phải trình diện trước một trong bốn
đoàn luật sư là những nghiệp đoàn tư nhân không chịu sự kiểm soát của Chính phủ.
Nghiệp đoàn đó chỉ công nhận đương sự nào có học thức, có hạnh kiểm tốt để bảo vệ
tinh thần độc lập mà các nghiệp đoàn đã xây dựng. Nghiệp đoàn sẽ trừng phạt Luật sư
nào chịu áp lực chính trị hay công luận. Tuy nhiên, các vị Thẩm phán vì không được
sử dụng sự kiểm soát Tư pháp nghĩa là hủy bỏ các đạo luật, nên không chịu các loại áp
lực mà các vị Thẩm phán thường bị ảnh hưởng.
Về việc tham gia xét xử, Pháp luật Anh cho phép thẩm phán được hoạt động tích
cực hơn nhiều so với Thẩm phán của Mỹ trong phòng xử án. Theo truyền thống của
Anh, Thẩm phán thường xét hỏi các nhân chứng và đóng vai trò tích cực trong các
hoạt động tố tụng. Khi kết luận về lời buộc tội và lời bào chữa, Thẩm phán có thể đưa
ra kết luận hay định hướng cho Bồi thẩm đoàn. Những kết luận hay ý kiến này có thể
bao gồm cả ý kiến của Thẩm phán về tính chân thực của người làm chứng hay thể hiện
quan điểm cá nhân của Thẩm phán đối với vụ án. Bên cạnh đó thì bản thân các Thẩm
phán cần phải rất thận trọng trong việc sử dụng cơ hội gây ảnh hưởng tới Bồi thẩm
đoàn thông qua những kết luận, bởi vì bị can có thể kháng cáo với lý do Thẩm phán đã
đi quá xa trong việc định hướng quyết định của Bồi thẩm đoàn. Những kết luận hay ý
kiến này có thể bao gồm cả ý kiến của Thẩm phán về tính chân thực của người làm
chứng hay thể hiện quan điểm cá nhân của Thẩm phán đối với vụ án.
Ở Anh, dù rằng Thẩm phán là người có chuyên môn, nghiệp vụ, có vai trò liên
quan trực tiếp đến vụ án nhưng chính Bồi thẩm đoàn mới là những người quyết định
vấn đề tình tiết trong vụ án. Hơn nữa, các Thẩm phán ở Anh cũng tham gia xét xử với

tư cách Thẩm phán hòa giải và với tư cách đó, họ còn tham gia tích cực hơn vào quá
trình xét xử.24
1.4.3 Thẩm phán ở Cộng hòa pháp
Để đảm bảo sự độc lập của Hệ thống Tư pháp, ở Pháp Tổng thống đã thành lập
Hội đồng Thẩm phán tối cao do Tổng thống làm Chủ tịch, Bộ trưởng Tư pháp làm Phó
Chủ tịch. Hội đồng có 9 thành viên do tổng Thống bổ nhiệm. Tất cả các Thẩm phán do
Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng Thẩm phán tối cao. Các vị Thẩm
phán được tuyển chọn trong các sinh viên tốt nghiệp Đại học luật dưới 27 tuổi đã dự
kỳ thi tuyển và đã học bốn năm trong Trung tâm Tư pháp quốc gia.
24

Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 89 - 91.

19


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
Đội ngũ Thẩm phán ở pháp bao gồm hai ngạch: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán
buộc tội. Về nguyên tắc, các Thẩm phán làm việc tại cơ quan bộ Tư pháp, ngoài chức
năng thực hiện quyền công tố, họ còn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhân sự hoặc soạn
thảo văn bản. Vì vậy, ngoài việc chấp hành quy chế Thẩm phán chung, họ còn phải
tuân theo quy chế riêng khá độc đáo. Thẩm phán ở pháp chia làm ba hạng: Hạng nhất,
hạng nhì, hạng ngoại. Mỗi hạng Thẩm phán lại chia làm hai bậc: bậc 1 và bậc 2. Để
được bổ nhiệm vào chức vụ Thẩm phán Hạng nhì bậc 2, phải có ít nhất 7 năm công tác
trong cơ quan Tư pháp (thời gian làm nghĩa vụ quân sự được tính vào thời gian công
tác). Thẩm phán hạng nhì chỉ được nâng bậc lên Thẩm phán hạng nhất nếu có tên
trong danh sách thăng thưởng và đã qua 10 năm công tác ở cương vị Thẩm phán hạng
nhì.
Các Thẩm phán xét xử do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị hoặc sau khi đã có ý

kiến của Hội đồng Thẩm phán tối cao. Mọi Thẩm phán trước khi nhận chức điều phải
tuyên thệ: “Xin thề hoàn thành xuất sắc và tròn vẹn bổn phận được giao phó, nghiêm
chỉnh giữ gìn bí mật nghề nghiệp, luôn tỏ ra xứng đáng là người Thẩm phán trung
thực”. Việc tuyên thệ trước khi nhậm chức Thẩm phán, làm cho Thẩm phán cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ được phân công theo chức năng của mình ở cương vị mới.
Quyền bất khả bãi miễn Thẩm phán là một trong những nguyên tắc cơ bản được
pháp luật ghi nhận nhằm bảo đảm cho Thẩm phán thật sự vô tư và độc lập khi xét xử.
Quyền bất khả bãi miễn Thẩm phán được quy định trong Hiến pháp và được khẳng
định trong quy chế Thẩm phán. Vì vậy Thẩm phán được bảo vệ trước mọi sự đe dọa và
tấn công khi làm nhiệm vụ. Nhà nước phải bồi thường thiệt hại trực tiếp cho Thẩm
phán nếu có những trường hợp mà pháp luật bảo hiểm không quy định. Thẩm phán
không thể bị điều động sang làm bất cứ công việc nào khác trừ trường hợp làm nghĩa
vụ quân sự. Việc điều động các Thẩm phán tham gia vào các công việc của các tổ chức
và cơ quan phải được sự đồng ý và có chữ ký của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ của mình thì tất cả các Thẩm phán làm việc
trong cơ quan tài phán hay cơ quan Bộ Tư pháp đều phải được trang bị và mang y
phục Thẩm phán, được hưởng lương và các khoản phụ cấp khác theo quy định bằng
Sắc lệnh của Hội đồng Bộ trưởng.25
Như vậy, sau khi tìm hiểu về chế định Thẩm phán ở một số nước lớn trên thế giới
như: Mỹ, Anh, Pháp thì ta có thể thấy ở các quốc gia này có điểm chung là thường áp
dụng phương pháp bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời (ở Mỹ áp dụng cả 2 là

25

Ngô Vĩnh Bạch Dương, Võ Trí Hảo, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Thể chế Tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr 91 - 93.

20



Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân
nhiệm kỳ suốt đời và có thời hạn), đây là điểm ưu việt mà theo người viết nghĩ là
chúng ta có thể học hỏi và áp dụng ở Việt Nam.

21


Thực trạng và hƣớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Tòa án nhân dân

CHƢƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN QUY ĐỊNH CỦA CHẾ ĐỊNH THẨM
PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH
2.1 NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI THẨM
PHÁN
2.1.1 Nhiệm vụ và quyền hạn của ngƣời Thẩm phán
Theo quy định Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 thì Thẩm
phán có một số nhiệm vụ và quyền hạn chung sau:
Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án nơi mình công tác
hoặc Toà án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn; Thẩm phán có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quy định có liên quan đến
việc giải quyết vụ án hoặc các việc khác theo quy định của pháp luật; Thẩm phán phải
từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy
định; Thẩm phán được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử.26
Ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn chung được quy định ở Pháp lệnh về Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, thì ở các Thẩm phán còn có một số nhiệm vụ
và quyền hạn đặc trưng riêng được cụ thể hóa trong pháp luật về Tố tụng hình sự, Tố
tụng dân sự, Tố tụng hành chính:
Xét theo khía cạnh Tố tụng hình sự, khi Thẩm phán được phân công giải quyết, xét

xử vụ án hình sự thì Thẩm phán có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại
Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cụ thể là: Thẩm phán được phân công giải
quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Nghiên cứu hồ
sơ vụ án trước khi mở phiên toà; tham gia xét xử các vụ án hình sự ; tiến hành các hoạt
động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử; tiến
hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của
Chánh án Tòa án.
Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại khoản 1 Điều này còn có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ
luật này; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đưa vụ án ra xét xử;

26

Điều 9, 11, 12, 16 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 (Sửa đổi, bổ sung năm 2011).

22


×