Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Thực trạng và hướng hoàn thiện chế định kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.25 KB, 72 trang )

Lời nói đầu
Đất

nước đang bước vào cơng cuộc đổi mới tồn diện, là một trong

những cơ quan của chun chính vô sản, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người
cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ kiểm sát viên viện
kiểm sát nhân dân, "người cán bộ kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả
và nặng nề của mình, ln ln tơn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ
thái độ khách quan, thận trọng, cơng minh, chính trực".( Lê Duẩn).
Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý về
chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật do nhà
nước ban hành. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đánh dấu sự
hình thành chức danh kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật
và thực hành quyền cơng tố. Vị trí, vai trị của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân
dân trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và
đang được khẳng định. Với cơ quan viện kiểm sát, kiểm sát viên là người trực
tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, trong bộ máy nhà nước, kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm
vụ thực hiện chức năng của viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng.
Pháp luật điều chỉnh đối với chức danh kiểm sát viên đang dần hoàn thiện,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu
của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 08/NQ-TW của
Bộ chính trị, đáp ứng yêu cầu của đất nước trên con đường hội nhập. Có một
thực tế là khi các bài viết, các đề tài, các cơng trình nghiên cứu về Viện kiểm sát


1
có một số luợng khơng nhỏ, thì sự quan tâm tới kiểm sát viên về lĩnh vực này lại


quá ít, đặc biệt là về chế định kiểm sát viên. Với mong muốn làm rõ một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của chế định kiểm sát viên, góp phần mình xây dựng một
số giải pháp hồn thiện chế định, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của kiểm sát
viên trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, người viết mạnh dạn chọn
đề tài : “chế định kiểm sát viên- một số vấn đề lý luận và thực tiễn ” “làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
Đề tài chủ yếu đi vào nghiên cứu chế định kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân, tìm hiểu trong quá trình hình thành và phát triển chế định này đã đề
cập tới những vấn đề gì? Thực tế đã đáp ứng ra sao? Những tồn tại và vướng
mắc? Đặc biệt chất lượng kiểm sát viên hiện nay có thực sự đảm bảo hiệu quả
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân? Từ đó có những kiến nghị giải pháp cho
việc hồn thiện chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, góp phần xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm sát viên hiện nay, củng cố và phát
huy vai trò của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về vị trí vai trị của viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, vị
trí vai trị của kiểm sát viên trong cơ quan viện kiểm sát và trong hệ thống cơ
quan tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở tìm hiểu hệ thống các văn
bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đặc biệt là của
Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với khảo sát thực tiễn để luận giải các
vấn đề đặt ra trong khoá luận.
Khoá luận được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất: Lời nói đầu
- Phần nội dung gồm hai chương:



2
Chương 1: Những vấn đề mang tính lý luận của chế định kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng và hướng hoàn thiện chế định kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân
- Phần kết luận

Chương 1
Những vấn đề mang tính lý luận về
chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
1.1. Vị trí vai trị của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm kiểm sát viên và chế định kiểm sát viên
 Kiểm sát viên
Theo từ điển Bách khoa toàn thư (tr.563 - NXB Từ điển Bách khoa, Hà
Nội) kiểm sát viên là cán bộ của cơ quan kiểm sát được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật, có thẩm quyền và nghĩa vụ luật định, thực hiện chức năng kiểm
tra giám sát việc chấp hành triệt để nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước, tổ
chức xã hội và công dân.
Theo từ điển Luật học, kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam gồm: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên
viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kiểm sát viên
viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. (Các kiểm
sát viên viện kiểm sát quân sự các cấp không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề
tài).


3

Như vậy, cơng dân Việt Nam có đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật (vấn đề này sẽ được nghiên cứu cụ thể trong luận văn) thì có thể được tuyển
chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
 Chế định kiểm sát viên
Là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh các vấn đề pháp lý đối
với chức danh kiểm sát viên.
1.1.2. Vị trí, vai trị của Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
Trong bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có một vị trí đặc biệt. Hệ
thống cơ quan viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
các viện kiểm sát nhân dân địa phương. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân
địa phương, các viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực
hành quyền công tố trong phạm vi luật định. (Điều 137- Hiến pháp 1992 và Điều
1 luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002)
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia
tố tụng trong lĩnh vực: hình sự, dân sự, lao động, kinh tế thương mại và hành
chính; các nhân viên nhà nước và công dân. Khi tiến hành các cơng tác kiểm sát
viện kiểm sát khơng có quyền năng về hành chính mà chỉ có quyền u cầu,
kiến nghị, kháng nghị đối với các đối tượng chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát
nhằm đề ra các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật, khôi phục lại hiệu lực của
pháp luật mà viện kiểm sát đã lấy làm căn cứ để tiến hành kiểm sát. Bên cạnh
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát cịn có chức năng thực
hành quyền cơng tố của nhà nước, truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án và nhân
danh nhà nước buộc tội kẻ phạm tội tại phiên tịa. Bằng hoạt động của mình
Viện kiểm sát bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của công dân. Đồng thời, thông qua



4
hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước
viện kiểm sát nhân dân góp phần giáo dục cơng dân ý thức pháp luật, tôn trọng
những nguyên tắc của xã hội, tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước và của công dân đều bị
xử lý theo pháp luật.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã bỏ chức năng kiểm sát hoạt động của các
cơ quan từ bộ trở xuống để đảm bảo sự phân cấp thẩm quyền giám sát của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước và bảo đảm cho hoạt động giám sát lĩnh vực
hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của viện kiểm sát nhân dân được
hiệu quả hơn.
Trong hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công
tố nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên là nhân tố cơ bản. Hoạt
động nghề nghiệp của kiểm sát viên mang tính đặc thù cao. Nghề nghiệp đó có
ảnh hưởng lớn tới tính cơng minh của pháp luật, tới uy tín nền cơng lý của một
quốc gia.
Khác với những lao động khác, lao động của kiểm sát viên dựa trên cơ sở
quy định của pháp luật, từ khi được phân công giải quyết một vụ án tới khi hồ sơ
vụ án khép lại người kiểm sát phải tư duy, xem xét đánh giá trên cơ sở kết luận
của cơ quan tiến hành điều tra, để truy tố kẻ phạm tội ra trước tịa, bảo đảm thấu
tình đạt lý. Là hoạt động chịu nhiều áp lực, áp lực từ phía các phần tử tội phạm,
từ xã hội, công luận... Do đó hoạt động của kiểm sát viên phải đảm bảo việc
nghiên cứu độc lập hồ sơ để truy tố kẻ có tội trước phiên tịa hình sự, hợp lẽ
cơng bằng, bảo đảm pháp chế, không trái với các quy tắc đạo đức xã hội.
Kiểm sát viên là người đại diện cho nhà nước trực tiếp bảo vệ nền cơng
lý, vì vậy sự công bằng vô tư khách quan, nhân đạo là những phẩm chất không
thể thiếu đối với người kiểm sát viên. Điều đó có nghĩa là, trong q trình thực
hiện chức năng của mình, kiểm sát viên phải đảm bảo sự cơng bằng khơng thiên
lệch, khơng có sự phân biệt về thành phần xuất thân, địa vị xã hội, hoàn cảnh

kinh tế giữa các đương sự hay bị cáo. Chẳng hạn, trong hoạt động thực hiện


5
quyền cơng tố, tính cơng bằng thể hiện ở sự đánh giá tương xứng giữa hành vi
phạm tội và trách nhiệm của người phạm tội. Truy tố đúng tội danh là tiền đề
quan trọng của việc quyết định hình phạt chính xác, cơng bằng, khơng làm oan
người vơ tội. Hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên khi được
giao nhiệm vụ, được hiểu là quyền của nhà nước, quyền nhân danh nhà nước
truy tố kẻ phạm tội ra trước tịa án và đại diện cho cơng lý buộc tội kẻ phạm tội
trước phiên tòa. Đây là một chức năng tố tụng nhằm chống lại một người cụ thể
và thực chất đó là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ có tội.
Quyền này tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Do đó nó phải được thực hiện theo một trình tự tố tụng chặt chẽ theo luật định.
Cụ thể tại phiên tịa hình sự, kiểm sát viên được phân cơng có quyền nhân danh
nhà nước đọc cáo trạng truy luận tội, có quyền tranh luận, xét hỏi để chứng minh
lỗi của bị cáo, giúp Tòa án ra bản án đúng người đúng tội, đúng pháp luật... Với
những yêu cầu khắt khe đặt ra đối với nghề kiểm sát viên, để trở thành kiểm sát
viên phải đáp ứng được những điều kiện về trình độ chun mơn nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức, đồng thời phải qua một thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm chặt
chẽ theo luật định.
1.2. Sự hình thành và phát triển của chế định kiểm sát viên
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự phân công phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Quyền tư pháp theo quan điểm của các nhà nghiên cứu chủ yếu là
quyền xét xử thuộc tòa án nhân dân và quyền kiểm sát, thực hành quyền công tố
của viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động của các cơ quan tư pháp đặt dưới sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Ngay từ khi giành được độc
lập tới nay, trong lịch sử phát triển của mình, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa trước đây và bây giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ln chú trọng
đến việc hồn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.
Điều này được quy định có tính ngun tắc thể hiện trong các hiến pháp 1946,


6
1959, 1980 và Hiến pháp 1992. Trên cơ sở Hiến pháp, các văn bản pháp luật
quy định về viện kiểm sát, kiểm sát viên thuộc viện kiểm sát nhân dân được thể
chế hóa để đáp ứng nhiệm vụ cụ thể của nhà nước ta trong từng giai đoạn.
Kiểm sát viên là một chức danh trong hệ thống cơ quan viện kiểm sát
nhân dân, có vị trí vai trị đặc biệt quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung và giữ vai trị ủy viên cơng tố tại phiên tịa nói
riêng. Do vậy, việc tiêu chuẩn hoá chức danh kiểm sát viên phải được xem xét
và cân nhắc trên cơ sở luận cứ khoa học, bảo đảm tư cách, năng lực thực hiện
các nhiệm vụ của công chức trong cơ quan bảo vệ pháp luật, phù hợp với bản
chất của nhà nước trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, chúng ta
nghiên cứu chế định kiểm sát viên qua các giai đoạn phát triển sau:
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hịa ra đời, cùng với việc xóa bỏ bộ máy nhà nước phong kiến, Đảng và
nhà nước ta đã bắt tay vào xây dựng một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ
nhân dân, bảo đảm mọi quyền bính trong nước đều thuộc về tồn thể nhân dân.
Trong hệ thống cơ quan tư pháp đã hình thành cơ quan công tố với nhiệm vụ
cùng với cơ quan cơng an, tịa án trấn áp bọn tội phạm phản cách mạng, chống
lại những hành vi đi ngược lại lợi ích của chính quyền nhân dân, bảo vệ tài sản
nhà nước, của tập thể người lao động, đảm bảo việc thực hiện các chính sách trật
tự trị an của xã hội... Để thực hiện nhiệm vụ đó, cơ quan cơng tố ngồi chức
năng buộc tội cịn thực hiện chức năng giám sát các họat động tố tụng tư pháp
(trình tự tố tụng tại tòa án). Những quy định về cơ quan công tố xuất hiện rất

sớm trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống cơ quan cơng tố nói chung, chức danh thực hiện quyền cơng tố nói riêng
gắn liền với q trình thiết lập, phát triển bộ máy nhà nước ta.
Lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan cơng tố giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1959 trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau:


7
- Giai đoạn 1945 - 1950:
Theo các sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946, Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17 tháng 04 năm 1946, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 07 năm 1946, thì
các viên chức cơng tố nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp: ở Tòa án đệ nhị cấp
( cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) có Thẩm phán xử án và Thẩm phán
buộc tội. Như vậy, ở Tòa án đệ nhị cấp mặc dù chưa có cơ quan cơng tố nhưng
lại có các cán bộ làm nhiệm vụ cơng tố, đó là: Biện lý, Tham lý. ở Tòa thượng
thẩm (tổ chức ở ba miền Bắc, Trung, Nam) có các cơng tố viên do Chưởng lý
đứng đầu và hoạt động của các cán bộ chuyên trách như Biện lý, phó Biện lý...
chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp. Các cán bộ của công tố
viện được quyền làm các nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, thực hiện việc buộc tội của
nhà nước và thực hiện việc giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát cũng
như hoạt động xét xử các vụ án hình sự (tiểu hình và đại hình) của Tịa án. Như
vậy, có thể thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập cơ quan tư pháp, nhà nước ta
đã trao cho các viên chức công tố thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập để vừa
thực hiện chức năng buộc tội vừa thực hiện chức năng giám sát trong lĩnh vực
hoạt động tố tụng, điều tra và xét xử.
- Giai đoạn 1950 - 1958:
Theo sắc lệnh số 85/SL ngày 25 tháng 05 năm 1950, Thông tư số 11/TT-TTg
của Thủ tướng chính phủ ngày 07 tháng 06 năm 1950 và Thông tư liên tịch số
18 ngày 08 tháng 06 năm 1950 thì cơ quan cơng tố thời kỳ này vẫn nằm trong hệ
thống cơ quan tư pháp và chịu sự quản lý của Bộ tư pháp. Tuy nhiên, trong cuộc

cải cách tư pháp lần thứ nhất tiến hành năm 1950, nhà nước đã tăng thẩm quyền
chỉ đạo của ủy ban hành chính đối với cơ quan công tố, bao gồm cả việc ra
mệnh lệnh về đường lối công tố cũng như điều khiển các vụ việc cụ thể. Đặc
biệt, nhà nước đã mở rộng thẩm quyền cho Công tố viện được kháng cáo các vụ
án dân sự. Quy định này đã tạo thuận lợi cho Công tố viện khơng chỉ với tư cách
đại diện cho tồn xã hội trong việc bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân mà cịn là điều kiện quan trọng để công


8
tố viện thực hiện có hiệu quả hơn chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của
các đối tượng trong xã hội.
- Giai đoạn 1958- 1960:
Theo nghị quyết của Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ VIII ngày 29 tháng 04 năm
1958, Nghị định số 256 ngày 01 tháng 07 năm 1959 và Nghị định số 321 ngày
27 tháng 08 năm 1959, Viện công tố trung ương được thành lập, tách khỏi Toà
án nhân dân và Bộ tư pháp, hình thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập
từ trung ương tới địa phương, chỉ trực thuộc Phủ Thủ tướng. Theo Thông tư số
556 ngày 24 tháng 12 năm 1958 của Thủ tướng chính phủ, quy định rõ mối quan
hệ giữa Cơng an, Tịa án và Viện cơng tố trong việc trấn áp bọn phản cách
mạng. Là cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp, Viện công tố trong thời kỳ này
có quyền điều tra, truy tố những vụ án hình sự, giám sát việc chấp hành pháp
luật của cơ quan điều tra, hoạt động xét xử của tòa án và việc giam giữ, cải tạo
của cơ quan, người được trao quyền.
Theo đó, thẩm quyền của Viện cơng tố được mở rộng hơn. Cùng với việc
thực hành quyền cơng tố nhà nước, Viện cơng tố cịn thực hiện chức năng giám
sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra, xét xử các vụ án hình sự, thi
hành án, giam giữ cải tạo và tham gia giải quyết các vụ án dân sự quan trọng có
liên quan tới lợi ích của nhà nước và xã hội. Có thể nói, Viện Cơng tố thời kỳ
này đã được nhà nước giao những nhiệm vụ, quyền hạn mới so với trước đây.

Đặc biệt là việc thực hiên chức năng giám sát các hoạt động tố tụng tư pháp.
Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ 1959 đến năm 1980
Thể chế hóa Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân được
Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 07 năm 1960 và Chủ tịch nước công bố ngày
26 tháng 07 năm 1960 đã quy định cụ thể việc thành lập hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân.


9
Theo quy định của luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960, hệ thống
viện kiểm sát nhân dân bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, và các viện kiểm sát quân sự.
Hệ thống viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống
nhất lãnh đạo trong ngành, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở
địa phương và thực hiện chế độ thủ trưởng. Cùng với việc thành lập, luật tổ chức
đã quy định rõ chức năng của viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và thực hành quyền công tố nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thi
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế được giữ vững. Sự ra đời của viện
kiểm sát nhân dân với vị trí, chức năng, nhiệm vụ và được tổ chức dựa trên
nguyên tắc đặc thù là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất, nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong mỗi cấp viện kiểm sát nhân dân thời kỳ này có các chức danh: Viện
trưởng, các phó viện trưởng, các kiểm sát viên và điều tra viên. Trong đó, Viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra và bãi miễn, các phó
viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do ủy ban Thường vụ
Quốc hội bổ nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Viện trưởng, các phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân các cấp địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. (Điều 23, 24 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960). Như vậy, chức danh kiểm sát viên đã được quy định cụ thể về
tên gọi và trật tự hình thành. Nếu như trước đó, những cán bộ làm nhiệm vụ
công tố, tức là những Biện lý, Tham lý, Chưởng lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm
theo danh sách của Bộ trưởng Tư pháp ấn định (Điều 56, 57 Sắc lệnh số 13/SL)
thì giai đoạn này kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do ủy ban thường
vụ Quốc hội cử, kiểm sát viên viện kiểm sát địa phương do viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Hoạt động của viện
kiểm sát nhân dân mỗi cấp đặt dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Viện trưởng viện


10
kiểm sát nhân dân cấp đó. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về lĩnh vực hoạt
động của toàn ngành trước Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì
chịu trách nhiệm báo cáo cơng tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước. Với quy định này, nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành
đã được cụ thể hóa, dù mới ở bước đầu.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến 1992
Hiến pháp 1980 ra đời đã tiếp nhận và nâng cao thêm một bước những chế
định thực hiện quyền lực của nhân dân với cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ, nhà nước quản lý. Cùng với việc ban hành Hiến pháp, luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cơng bố ngày 13 tháng 06 năm 1981 đã thể chế hoá chức năng nhiệm vụ quyền
hạn của viện kiểm sát nhân dân. Trong điều kiện Cách mạng dân chủ nhân dân
đã hoàn thành, cả nước đang bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo đường
lối Đại hội Đảng lần thư IV, vai trò trách nhiệm của hệ thống viện kiểm sát nói
chung, cơng tác kiểm sát chung và thực hành quyền cơng tố nhà nước nói riêng

cũng có những bước phát triển mới, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Trong giai đoạn này, cùng với việc ghi nhận nội dung quyền dân tộc cơ bản phù
hợp hơn với nhiệm vụ cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước, và từ chỗ đi lên từ một nền sản xuất nhỏ
lại trải qua chiến tranh tàn khốc kéo dài, cả nước bắt tay vào xây dựng từ đầu cả
cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, cơng tác kiểm sát chung và thực
hành quyền cơng tố của cơ quan viện kiểm sát nói chung, chức danh kiểm sát
viên nói riêng, khơng thuần t chỉ dừng lại ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hơn
nhân gia đình mà cịn mở rộng sang phạm vi các lĩnh vực kinh tế, lao động và
hành chính.
Như vậy, theo quy định của hiến pháp 1980 và luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1981, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp


11
luật và thực hành quyền công tố nhà nước. Thông qua quyền kiểm sát việc tuân
theo pháp luật bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, pháp chế được giữ vững. Quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật được
thực hiện trên hai lĩnh vực: Thứ nhất, là việc chấp hành pháp luật trong quản lý
nhà nước về hành chính, kinh tế, hình sự, dân sự....Thứ hai, là việc chấp hành
pháp luật trong tố tụng tư pháp.
Cùng với việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các đối tượng chủ thể
là các Bộ, cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên
nhà nước và công dân (Điều 6 - Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981)
Viện kiểm sát nhân dân còn thực hành quyền công tố nhà nước, bảo đảm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, giam giữ, cải tạo và thi hành các bản án có căn cứ,
đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Đặc biệt, trong các năm từ 1987 đến
1991, ngành kiểm sát đã tập trung đẩy mạnh các hoạt động kiểm sát chung việc
tuân theo pháp luật phục vụ ba chương trình kinh tế lớn của Đảng và nhà nước

góp phần thực hiện cơng cuộc đổi mới đất nước theo tinh thần nghị quyết các
Đại hội Đảng lần thứ VI, VII. Các cấp kiểm sát đã chú trọng tăng cường quyền
kiểm sát đối với các cơ quan ngang cấp trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế
quan trọng như Nông nghiệp, Công nghiệp nhẹ, năng lượng, dự trữ quốc gia...
phát huy tính sáng tạo, làm chủ trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Đồng thời phát hiện và ngăn chặn các
hành vi lợi dụng danh nghĩa đổi mới để làm trái pháp luật. Năm 1989, trên cơ sở
Hiến pháp 1980 được Quốc hội sửa đổi một số điều cho phù hợp với tình hình
mới, luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, đã mở rộng phạm vi thẩm
quyền cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. "Trong phạm vi chức
năng nhiệm vụ của mình, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm pháp luật
có thể gây hậu quả nghiêm trọng" (điểm 5, Điều 10, luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1981). Đây là quyền hạn đặc biệt mang tính chất hành chính nhằm


12
tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng thời đề
cao trách nhiệm của cá nhân Viện trưởng - người đứng đầu hệ thống cơ quan
viện kiểm sát nhân dân. Đồng thời, cùng với việc quy định chức năng kiểm sát
chung các lĩnh vực hoạt động và thực hành quyền công tố nhà nước, vị trí, vai
trị của Viện kiểm sát nhân dân ngày càng được đề cao. Việc thực hiện các
quyền thông qua chức năng pháp luật quy định của kiểm sát viên bao hàm cả
vấn đề đạo đức, phẩm chất và trình độ chuyên môn trong công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền cơng tố. Điều này địi hỏi kiểm sát viên
khi thực hiện thẩm quyền của mình để truy tố, kiểm sát một vụ án hay vụ việc
cụ thể phải có sự xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, phải gắn lương tâm và trách
nhiệm của mình với cơng việc để “khơng bỏ sót kẻ gian, khơng làm oan người
ngay”. Thơng qua hoạt động của mình, kiểm sát viên phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Hoạt động của kiểm sát viên thể hiện rõ là người thay

mặt nhà nước, nhân danh pháp luật để thực hiện quyền lực được giao. Đặc biệt
cùng với sự ra đời của bộ luật Tố tụng hình sự 1988, đã bổ sung một số điểm
vào luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát
viên trong vụ án hình sự, củng cố thêm cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm sát và
thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân.
Tiếp tục kế thừa nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo chế độ tập trung lãnh
đạo trong ngành, Viện trưởng viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng viện kiểm sát cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc
hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội và có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ Quốc hội
là 5 năm. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Hội đồng nhà nước
cử và bãi nhiệm theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
các kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Vấn đề nhiệm kỳ
công tác của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tới thời kỳ này vẫn chưa được
quy định. Điều này tuy góp phần ổn định cơ cấu tổ chức của cơ quan viện kiểm


13
sát, nhưng sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại đối với mỗi cán bộ kiểm sát, hạn chế việc phấn
đấu, rèn luyện để hồn thiện chun mơn nghiệp vụ, đội ngũ kiểm sát viên
không theo đuổi kịp những yêu cầu về khả năng đánh giá thực tế, về nắm bắt
những kiến thức ở lĩnh vực khác liên quan... đây là một trong những vấn đề cần
được pháp luật sửa đổi, bổ sung ở thời kỳ sau.
1.2.4. Giai đoạn từ 1992 đến nay
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới nhận thức của Đảng
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp 1992 sửa đổi được Quốc
hội thông qua khẳng định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của toàn Đảng, tồn dân, khẳng định vai trị của pháp luật trong đời sống
xã hội, xác định rõ vị trí vai trị của hệ thống cơ quan tư pháp trong cơng cuộc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có cơ quan Viện kiểm
sát nhân dân.
Cụ thể hố quy định của hiến pháp, Quốc hội đã thơng qua luật Tổ chức viện
kiểm sát nhân dân ngày 07 tháng 10 năm 1992 và ngày 12 tháng 05 ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh kiểm sát viên. Những văn bản pháp
luật này đã khẳng định vị trí, chức năng nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động
của viện kiểm sát nói chung và kiểm sát viên nói riêng, đáp ứng yêu cầu đổi mới
của đất nước. Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành
quyền công tố nhà nước, viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên các cấp tiếp
tục nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý
theo pháp luật... đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm minh, công bằng.
Theo quy định của luật Tổ chức Viện kiểm sát và Pháp lệnh kiểm sát viên, kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát


14
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tuy nhiên, vấn đề nhiệm kỳ hoạt
động của kiểm sát viên vẫn chưa được đề cập tới.
Như vậy, ở thời kỳ này chức danh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao do đích danh người có thẩm quyền là Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, khác với trước đó là do cơ quan
có thẩm quyền, cụ thể là Hội đồng nhà nước hay Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử.
Hiến pháp 1992 sửa đổi đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ mới. Đảng và
Nhà nước ta đã và đang tiến hành cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải
cách tư pháp nói riêng. Nhiều nội dung cải cách tư pháp được thể hiện cụ thể

trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai và lần thứ tám Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa VIII, liên quan trực tiếp tới vấn đề tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân. Sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp, luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính... và qua thực tiễn thực hiện, luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 và Pháp lệnh kiểm sát viên 1993 đã bộc lộ
một số điểm chưa hợp lý về nội dung, phạm vi của từng lĩnh vực công tác kiểm
sát cụ thể, mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan kiểm sát và cơ quan
Thanh tra, những vấn đề liên quan nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên, vấn
đề nhiệm kỳ công tác....cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn. Cần bỏ chức năng kiểm sát chung, tập trung vào việc thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm pháp luật
được thực hiện thống nhất, tạo điều kiện để kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2002 được Quốc hội thông qua ngày
2 tháng 4 năm 2002 và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh kiểm
sát viên 2002 đã quy định cụ thể nội dung, phạm vi của từng lĩnh vực thực hiện
công tác kiểm sát, mối quan hệ giữa cơ quan kiểm sát với các cơ quan tiến hành
tố tụng khác, xác định rõ nhiệm vụ quyền hạn cũng như nhiệm kỳ hoạt động của
kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân thời kỳ này


15
khơng cịn chức năng kiểm sát việc tn theo pháp luật của các Bộ, cơ quan
ngang bộ, các cơ quan khác thuộc chính phủ, các cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân nữa mà
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
(gồm 5 lĩnh vực cụ thể). Cùng với sự thu hẹp quyền hạn của kiểm sát viên trong
lĩnh vực kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, lao động,
dân sự, hành chính trong Bộ luật Tố tụng dân sự, pháp luật hiện hành về kiểm

sát viên đã giải quyết tình trạng “thừa mà thiếu” trong công tác kiểm sát, nâng
cao hiệu quả hoạt động của kiểm sát viên cũng như của viện kiểm sát nhân dân.
Với những quy định rất cụ thể về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ
nhiệm, miễn nhiệm cách chức (mà trước đây chưa có) kiểm sát viên được hình
thành theo một thủ tục chặt chẽ. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Uỷ ban
kiểm sát tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của Uỷ ban kiểm sát cấp tỉnh, sau khi có sự lựa chọn của Hội đồng tuyển chọn
đối với người có đủ điều kiện tiêu chuẩn. Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên
viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia Việt Nam làm uỷ viên;
Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên cấp tỉnh do Chủ tịch hoặc phó chủ tịch Hội
đồng nhân dân tỉnh làm Chủ tịch, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, đại
diện lãnh đạo Ban tổ chức chính quyền (hiện nay là Sở Nội vụ), Uỷ ban mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia cấp tỉnh làm uỷ viên.Việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên là
một sự tiến bộ thực sự, đảm bảo việc lựa chọn người đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm
vào chức danh kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân.


16
Về nhiệm kỳ công tác, Pháp lệnh kiểm sát viên 2002 quy định rõ: “nhiệm
kỳ của kiểm sát viên là năm năm”. Thông qua quy định này, bảo đảm việc nâng
cao tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của kiểm sát viên viện kiểm
sát nhân dân, và sự cần thiết phải thực hiện quyền miễn nhiệm, cách chức đối
với kiểm sát viên khi khơng hồn thành nhiệm vụ được giao hoặc có hành vi vi
phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo luật định.

1.3. Nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của hầu hết các cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, dân
sự, các nhân viên nhà nước và công dân. Khi tiến hành các công tác kiểm sát,
Viện kiểm sát khơng có quyền năng về hành chính mà chỉ có quyền yêu cầu kiến
nghị, kháng nghị đối với các đối tượng chịu sự kiểm sát của viện kiểm sát nhân
dân, nhằm đề ra các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật, khôi phục lại hiệu lực
pháp luật mà viện kiểm sát đã lấy làm căn cứ để tiến hành kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. Ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm
sát cịn chức năng thực hành quyền cơng tố của nhà nước - truy tố kẻ phạm tội ra
trước tòa bằng bản cáo trạng. Đây là chức năng riêng có của Viện kiểm sát nhân
dân được Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất giao cho mà các cơ
quan khác của nhà nước không thể thay thế.
Là chức danh chuyên môn thuộc ngành kiểm sát, kiểm sát viên đã giúp
viện kiểm sát các cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các lĩnh vực sau:
1.3.1. Trong lĩnh vực kiểm sát các hoạt động tư pháp
Kiểm sát hoạt động tư pháp được hiểu là kiểm tra giám sát, xem xét, theo
dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi
phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một công việc quan trọng trong thực
tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. ở nước ta, luật Tổ chức viện


17
kiểm sát nhân dân quy định cụ thể thẩm quyền, phạm vi và thủ tục kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Theo đó, Viện kiểm sát là cơ quan có thẩm quyền kiểm sát
các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống

nhất; Viện kiểm sát nhân dân địa phương kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa
phương mình theo quy định của pháp luật.
Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân quy định chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân nói chung, kiểm sát viên nói riêng đối với kiểm sát việc
tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; tiếp nhận, giải quyết khiếu nại tố
cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo về hoạt động tư pháp. Theo đó,
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ điều tra; điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ
án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và hơn nhân gia đình; kiểm sát việc tn
theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của toà án nhân dân; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù; tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo về các hoạt
động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo luật định. Khi thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Các quyết định này phải được các cơ quan tổ
chức, đơn vị, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật. Cụ
thể là:
- Đối với công tác kiểm sát hoạt động điều tra
Trong lĩnh vực hoạt động này, Viện kiểm sát nói chung và kiểm sát viên nói
riêng, khi được phân cơng nhiệm vụ, có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm


18
tội đều phải được điều tra, khởi tố và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và kẻ
phạm tội, không làm oan người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt,

giam giữ, bị hạn chế quyền công dân trái pháp luật. Đảm bảo việc điều tra phải
khách quan, tồn diện, đầy dủ, chính xác và đúng pháp luật. Những vi phạm
trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục và xử lý kịp thời. Việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra, theo sự
phân công của Viện trưởng, kiểm sát viên có quyền khởi tố vụ án, yêu cầu cơ
quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, đề ra yêu cầu điều
tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của pháp luật; có quyền yêu cầu thay đổi điều tra viên; quyết định áp dụng,
thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp (bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp
ngăn chặn khác); phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định hoặc huỷ bỏ các
quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ của cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân
thủ pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về
thẩm quyền điều tra, đồng thời yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên
quan áp dụng các biện pháp phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp
luật.
- Đối với cơng tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân nói chung và kiểm sát viên nói riêng khi được
Viện trưởng phân cơng có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của tòa án, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, vụ án được xét xử nghiêm minh và kịp thời. Khi thực hiện công tác kiểm
sát xét xử vụ án hình sự, kiểm sát viên thực hiện quyền nhân danh nhà nước (ủy
viên công tố) kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng; kiểm sát các bản án; yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới
chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét quyết định việc kháng nghị. Viện kiểm


19

sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của tòa án theo luật định.
- Về kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động
Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, kiểm sát viên có quyền kiểm
sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án, yêu cầu tịa án hoặc tự mình điều tra, xác minh
những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Khởi tố các vụ
án dân sự theo quy dịnh của pháp luật, tham gia phiên tòa xét xử và phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của những người tham gia tố tụng; yêu cầu tòa
án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật quy định; thực hiện
quyền kháng nghị, đồng thời có quyền kiến nghị Tòa án khắc phục những vi
phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Sự tham gia của kiểm sát viên
tại phiên tòa là điều kiện để phiên tòa được diễn ra hợp pháp, đúng luật định.
- Đối với công tác kiểm sát thi hành án
Sự tham gia của kiểm sát viên từ giai đoạn điều tra tới khi Tòa án ra bản án
hoặc quyết định là chưa đủ. Thực tế đã có rất nhiều vụ án chưa thật sự đảm bảo
được tính giáo dục và phịng ngừa chung, vì án khơng được thi hành hoặc thi
hành khơng đúng luật định. Do đó, cơng tác kiểm sát thi hành án là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và kiểm sát
viên nói riêng.
Kiểm sát thi hành án là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân
dân, cơ quan thi hành án, chấp hành viên và những cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đảm
bảo bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ và kịp thời trên
thực tế. Theo đó, viện kiểm sát nói chung và kiểm sát viên nói riêng có quyền
u cầu tịa án, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, tổ chức và cá nhân có
liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định đúng quy định; cung cấp tài liệu,
vật chứng có liên quan đến việc thi hành án; trực tiếp kiểm sát việc tuân theo




×