Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

quy định của pháp luật việt nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.98 KB, 55 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010 -2014)

ĐỀ TÀI:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ
NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiên:

Ths: Bùi Thị Mỹ Hƣơng
Bộ môn: Luật thƣơng mại

Cần Thơ, 11/2013

Phan Thị Ngọc Hằng
MSSV: 5106047
Lớp: Luật thƣơng mại 2- k36


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................


........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................

........................................................................................................................................................


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới
và tùy theo điều kiện kinh tế, văn hóa, tập quán,…mà pháp luật của các nước có những
quy định khác nhau về: độ tuổi, thủ tục cũng như quyền và nghĩa vụ của người nhận nuôi
và con nuôi.
Trẻ em luôn là tâm điểm của sự quan tâm hàng đầu của mỗi dân tộc, vì thế mà các
quốc gia trên thế gới luôn quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt để cho tất cả các trẻ em điều
được phát triển toàn diện không chỉ mang đến các lợi ích thiết thực cho trẻ em mà còn
góp phần xây dựng hình ảnh của một thế giới mới trong tương lai.
Trẻ em nếu được sinh ra là lớn lên trong một mái ấm gia đình hạnh phúc, được quan
tâm chăm sóc và được sống trong một trường xã hội phát triển lành mạnh thì sẽ góp phần
phát triển tích cực của toàn xã hội. Tuy nhiên không phải bất kỳ trẻ em nào cũng được
sinh ra và lớn lên trong một mái ấm gia đình đầy đủ, được chăm sóc, được yêu thương để
phát triển toàn vẹn. Mà bên cạnh đó còn vô số mảnh đời kém may mắn, bất hạnh, vì vậy
việc quan tâm chăm sóc bảo vệ đối với những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và bất hạnh
lại càng có ý nghĩa thiết thực hơn.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra nhiệm vụ phát triển toàn diện về mọi mặt của trẻ em là định
hướng trong tương lai ở những nước có nền kinh tế kém phát triển và đang phát triển như
ở Việt Nam, chính vì thế mà pháp luật nước ta sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan
trọng của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nên việc ghi nhận chế định nuôi con
nuôi đã hình thành rất sớm qua các hiến pháp năm 1946, Hiến Pháp năm 1959, Hiến Pháp
năm 1980 và Hiến Pháp năm 1992 và đến nay là một quá trình phát triển và hoàn thiện
các quy định về vấn đề nuôi con nuôi đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài còn khá mới mẻ. Hiến Pháp là cơ sở lý luận quan trọng bảo vệ quyền con người
đặc biệt là quyền trẻ em, Hiến Pháp xác định trách nhiệm pháp lý của toàn xã hội đối với

trẻ em và Hiến Pháp trao quyền năng cho trẻ em bằng cách ghi nhận các quyền của trẻ
em thông qua các bản Hiến Pháp và trong những năm qua trẻ em đã được sự chăm sóc và
bảo vệ ngày càng được khẳng định hơn trong xã hội. Từ Hiến Pháp năm 1946 đã ghi
nhận điều này “…trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” ( Điều 14 Hiến Pháp 1946).
Hiến Pháp 1959 là cơ sở quan trọng tiếp cho quan điểm về bảo vệ quyền lợi trẻ em “..
nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em bảo đảm phát triển các nhà đỡ
đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” ( Điều 24 Hiến Pháp
1959) cho thấy nhà nước ta ngày càng quan tâm chăm sóc đến quyền lợi trẻ em là điều vô

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

3

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
cùng cần thiết “quyền được bảo hộ về nhà nước” là sự ghi nhận có tính khẳng định mạnh
mẽ cho các quy định về quyền trẻ em, quy định này được kế thừa trong bản Hiến Pháp
1980, đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình hạnh phúc; động viên khơi dậy
tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân. Và để bảo vệ lợi ích cho những
trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi có hoàn cảnh khó khăn được sống trong một môi trường
lành mạnh có cơ hội phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần Việt Nam đã ban
hành Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 đây chính là cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng trong nước và những người nước ngoài
mong muốn có con nuôi. Bên cạnh đó Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 còn bảo vệ quyền
lợi ích của cha mẹ nuôi giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng và
chăm sóc con nuôi như cũng như con đẻ của mình.

Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề nuôi con nuôi, đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài qua đó có thể hợp tác quốc tế để bảo vệ trẻ em ngày càng phát triển sâu rộng
hơn. Nên tác giả chọn đề tài “ Quy định của pháp luật việt nam về vấn đề nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.” Để làm luận văn tốt nghiệp Đại Học .
2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: với đề tài “Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài” người viết đã phân tích một cách tổng thể các quy
định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta thông qua quá trình
lập pháp để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trong các văn bản pháp luật Việt Nam. Đồng thời phát hiện ra những
hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ đó
đưa ra cơ sở hoàn thiện pháp luật trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đề tài nêu lên những quan điểm, giải pháp
nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp lịch sử để làm rỏ sự hình thành
và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong
từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp khoa học

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

4

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

truyền thống khác như: phương pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp... Thông qua các phương pháp duy vật biện chứng để tổng hợp và
so sánh để làm nổi bật việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát chung về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Chương 2. Quy định của pháp luật việt nam về vấn đề xác lập nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài.
Chương 3. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam trong
lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

5

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi và nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi theo nghĩa chung nhất là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Nuôi con nuôi đã xuất hiện
ngay trong công cuộc bảo vệ tổ quốc còn gặp nhiều khó khăn ở chặn đường phía trước
nhưng trên tinh thần dân tộc và ý chí bảo vệ tổ quốc kiên cường của quân, dân ta và từ

khi Hiến Pháp năm 1946 ra đời thì Hiến Pháp này được xem như một mốc son lịch sử của
dân tộc với nhiều quy định bảo vệ quyền lợi của người công dân, đặc biệt là vấn đề bảo
vệ quyền lợi của trẻ em bên cạnh đó trong lĩnh vực hôn nhân gia đình sự quan tâm đến
quyền lợi của trẻ em bắt đầu được chú trọng, tuy chưa thật sự đầy đủ nhưng các quy định
này đã tạo nền tảng vững chắc trong các chế định về hôn nhân gia đình trong đó vấn đề
nuôi con nuôi ngày càng được quan tâm nuôi con nuôi bước đầu được ghi nhận trong
thông tư 30-NV/DC năm 1958 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch đơn giản tại vùng dân tộc
ít người do Bộ Nội Vụ ban hành, Thông Tư 87 –NV/DC năm 1958 ấn định thể thức và
hướng dẫn thi hành nghị định 484 – ND/ LB về việc xét đơn xin thay đổi họ tên do Bộ
Nội Vụ ban hành và thông tư các văn bản này cơ bản đã đưa ra những nguyên tắc, điều
kiện xác lập, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi cụ thể. Đến Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010
tại khoản 1, điều 3 vẫn tiếp tục kế thừa khái niệm đó nhằm kiến tạo một hệ thống các
thuật ngữ pháp lý về nuôi con nuôi chứ không nhằm đưa ra một cách hiểu khác về chế
định nuôi con nuôi ở Việt Nam. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ
và con lâu dài, bền vững giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi
thông qua việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi các bên có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi, bảo
đảm trẻ em được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia
đình thay thế.
Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã kế thừa quy định điều 69 của Luật Hôn
Nhân Và Gia Đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010 trong việc quy định điều kiện
đối với người nhận con nuôi. Theo quy định của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 thì người
nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có
điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
nuôi chưa thành niên; có tư cách đạo đức tốt; không phải là người đang bị hạn chế quyền

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

6


SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà,
cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc
chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các
tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những điều
trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Người được nhận làm con con nuôi là trẻ em dưới 16
tuổi, quy định này là phù hợp với độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Hôn Nhân Và
Gia Đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010. Theo đó việc xác lập quan hệ cha mẹ
nuôi và con nuôi phải thông qua việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi
các bên có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích xác lập quan hệ lâu
dài bền vững giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Nếu như quan
hệ cha mẹ đẻ và con đẻ được xác lập trên quan hệ huyết thống thì quan hệ cha mẹ nuôi
với con nuôi được xác lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trên cơ
sở đáp ứng nguyện vọng của các đương sự, sự tuân thủ các quy định của luật về điều kiện
xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
1.1.2. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề hiện được nhiều nước trên thế giới
quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài thật sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu hóa và được thể chế hóa
trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
Ở nước ta sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn khóc do đế quốc Mỹ gây ra để lại
nhiều hậu quả trong đời sống gia đình của nhân dân ta và xã hội đó là những đứa trẻ mồ
côi, người vợ góa, người tàn tật,..Chính những đau thương đó mà vấn đề nuôi con nuôi,
đặc biệt là vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi không được đề

cập đến trong Hiến Pháp năm 1946 - Hiến Pháp năm 1959 việc nuôi con nuôi vẫn còn bị
giới hạn bởi phạm vi đối tượng nhận nuôi con nuôi chỉ là công dân việt Nam thường trú
trên lãnh thổ Việt Nam. Trong giai đoạn này vấn đề nuôi con nuôi chỉ được thừa nhận
cho người Việt Nam và trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, trong thời điểm này thì việc
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa được đề cập đến trong các quy định của pháp
luật điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và nền lập pháp của nước ta trong
bấy giờ, do đất nước còn nhiều khó khăn mặc dù các quy định về quyền chăm sóc và bảo
vệ trẻ em đã được thừa nhận nhưng trên thực tế thì các quyền này chưa được thật sự quan

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

7

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
tâm đúng mức. Bên cạnh đó vấn đề ngoại giao hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài vẫn còn khá mới mẻ, tuy nhiên các quy định về vấn đề nuôi
con nuôi cũng tạo ra cơ sở pháp lý khá vững chắc cho vấn đề nhận con nuôi trong giai
đoạn này, hơn nữa đó cũng là cơ sở pháp lý cho các qui định về vấn đề nuôi con nuôi
trong tương lai đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đến khi Hiến Pháp năm
1959, Hiến Pháp năm 1980 được ban hành, trong giai đoạn này đã khẳng định sự phát
triển của nền lập pháp nước ta trong đó các chế định về lĩnh vực hôn nhân gia đình ngày
càng được quan tâm. Quan trọng hơn nữa là Luật hôn nhân gia Đình năm 1959 ra đời đã
khẳng định tính quan trọng của việc điều chỉnh các vấn đề hôn nhân gia đình, nuôi con
nuôi là chế định được ghi nhận tại điều 24 của Luật Hôn Nhân Gia Đình năm 1959, tuy
nhiên hướng tiếp cận của chế định nuôi con nuôi chỉ mới chính thức việc cho, nhận nuôi
con nuôi trong nước giữa người Việt Nam với nhau. Các luật và văn bản hướng dẫn luật
chưa đề cập một cách cụ thể về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, điều này cũng

dễ nhận thấy do hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam với các nước vẫn chưa có hướng phát triển mạnh. Điều này gây rất nhiều cản trở
trong việc phát triển hợp tác lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Thời kỳ Hiến
Pháp năm 1980 đến Hiến Pháp năm 1992, đây là thời kỳ đánh dấu bước phát triển về chất
trong công tác làm luật ở nước ta, vấn đề quyền được bảo vệ và chăm sóc trẻ em ngày
càng được chú trọng hơn đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi cũng được quy định một cách
cụ thể. Hiến Pháp năm 1980 ra đời cùng với luật Hôn Nhân Gia Đình năm 1986 cũng
được ban hành và đã dành hẳn chương IV để quy định về vấn đề nuôi con nuôi, qua đó
cho thấy những quy định về nuôi con nuôi ngày càng mang tính cụ thể, rõ ràng với quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia. Đặc biệt trong giai đoạn này vấn đề nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài đã được luật điều chỉnh thông qua Đại Hội lần thứ IV ban chấp
hành Trung Ương Đảng đã mở cánh cửa đường lối đối ngoại ở nước ta, quan hệ hợp tác
với các nước ngày càng sâu rộng, nhận thấy vấn đề nuôi con nuôi không còn bị giới hạn
bởi phạm vi trong nước mà tất yếu phải chịu sự điều chỉnh bởi các quan hệ hợp tác quốc
tế. Nhìn chung nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt ở cơ chế ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật khá hoàn chỉnh và khá chi tiết từ các vấn đề trình tự, thủ tục, thẩm quyền,
thời gan, quyền hạn của các cơ quan thụ lý cũng như các vấn đề về điều kiện trách nhiệm,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài không còn mới mẻ mà nó trở nên phổ biến trong đời sống xã
hội hiện nay, Hiến Pháp năm 1992 ra đời là cơ sở pháp lý vững chắc cho các quy định về
vấn đề nuôi con nuôi, Quốc hội khóa X nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

8

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

họp thứ 7 ngày 9/6/2000 đã thông qua luật hôn nhân gia đình, bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, tiếp đó là bộ luật dân sự 2005… Các quy định này không chỉ tạo ra cơ sở pháp lý
cho vấn đề nuôi con nuôi trong nước mà còn là nguồn quan trọng trong tư pháp quốc tế
về điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.Trong những năm gần đây nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài được nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành
nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài; Nghị định 24/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều Luật
Hôn Nhân và Gia Đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Luật Nuôi
Con Nuôi năm 2010 ra đời với nhiều điều sửa đổi liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tìm được mái
ấm gia đình và sống tốt hơn.
Như vậy nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một thuật ngữ pháp lý chuyên
ngành Tư pháp quốc tế là một nhóm quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Vì
thế để hiểu một cách thống nhất về nuôi có yếu tố nước ngoài Luật Nuôi Con Nuôi năm
2010 đã định nghĩa Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại khoản 5 điều 3 như sau:
“Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công
dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài” theo đó việc nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài phải thực hiện đầy đủ các quy định của
pháp luật về điều kiện, trình tự, thủ tục... đối với việc nhận con nuôi có yếu tố nước
ngoài, nhằm mục đích gắn bó tình cảm giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, đảm bảo cho con
nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.2.1. Mục đích của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng mang
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó chính là việc làm mang tính nhân đạo cao cả. Mục
đích cơ bản là làm phát sinh quan hệ cha mẹ con lâu dài, ổn định giữa người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm người nhận làm con nuôi được chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục một cách tốt nhất trong môi trường xã hội lành mạnh, góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ cha mẹ và con, quan hệ gia đình; ngăn

ngừa, hạn chế những tác động, tranh chấp phát sinh từ việc nuôi con nuôi thực tế, ổn định
đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó việc nuôi con nuôi còn đáp ứng được nhu cầu chính đáng của các cặp
vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Vì vậy việc bảo đảm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

9

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
mồ côi không nơi nương tựa được nuôi dưỡng, chăm sóc trong một mái ấm gia đình là
điều rất cần thiết. Việc làm này đã khắp sáng niềm tin cho những trẻ em bất hạnh, họ
không những có cơ hội được sống trong sự yêu thương, chăm sóc và phát triển toàn diện,
mà còn có nhiều cơ hội để phát triển vươn lên tầm cao trong tương lai, có một gia đình
hạnh phúc, một tương tươi sáng sẽ giúp cho những đứa trẻ đáng thương vơi đi nỗi đau mà
sống tốt với gia đình và xã hội. Đây là mục đích mà các nước trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng luôn hướng tới luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ thơ.
1.2.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nhằm đảm bảo thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong một gia
đình hạnh phúc, việc nuôi con nuôi không chỉ động viên khơi dậy tinh thần nhân đạo,
nhân văn của con người, mà còn phát huy được truyền thống tốt đẹp tương thân tương ái,
lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt Nam nói riêng và cả thế giới nói chung.
Hiện nay còn rất nhiều trẻ em có hoàn cảnh cơ nhở, trẻ em bị bỏ rơi phải sống
cảnh lang thang bụi đời,…các em phải sống cực khổ, bươn chải để kiếm sống, không
được sống trong một môi trường giáo dục tốt, một mái gia đình với tình thương yêu chăm
sóc của cha, mẹ để các em có thể phát triển toàn diện về thể chất cũng như là tinh thần.
Hơn ai hết các em cần một mái ấm tình thương che chở cho các em trong lúc khó khăn

này. Vì vậy bất cứ trường hợp xin nhận trẻ em làm con nuôi phải đáp ứng đầy đủ mục
đích, mang ý nghĩa đích thực của việc nhận con nuôi, sự giang tay của cộng đồng người
Việt Nam đối với những trẻ em thiếu tình thương của gia đình cũng như vật chất là vô
cùng cần thiết. Tuy nhiên nếu chỉ giới hạn đi quyền lợi của trẻ em trong phạm vi của mỗi
quốc gia thì sẽ không đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Vì vậy việc tăng
cường hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là điều vô cùng cần
thiết việc làm này sẽ đem lại một gia đình ổn định cho trẻ em trong trường hợp không tìm
được gia đình thay thế thích hợp cho trẻ em ngay tại nước mình. Bên cạnh đó việc cho trẻ
em làm con nuôi nước ngoài sẽ làm giảm gánh nặng cho cơ sở nuôi dưỡng mà vẫn đảm
bảo được lợi ích tốt nhất cho trẻ em, mặt khác điều này còn phù hợp với chính sách mở
rộng quan hệ đối ngoại với nước ta đáp ứng nhu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế. Tất cả
hãy hướng đến vì quyền lợi trẻ em, việc nuôi nhận con nuôi hãy xuất phát từ những mục
đích cao đẹp của cộng đồng người, chúng ta hãy luôn biết quan tâm và chia sẻ những bất
hạnh của những số phận kém may mắn để những ước mơ của những đứa trẻ kém may
mắn được bay cao bay xa hơn.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

10

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3. Đặc trƣng của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.1. Đối tƣợng điều chỉnh
Yếu tố nước ngoài là căn cứ rất quan trọng trong việc xác định đối tượng diều
chỉnh cũng như các phương pháp điều chỉnh trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam được quy định tại điều 758 Bộ Luật Dân Sự
năm 2005 như sau: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất

một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài.” Việc xác định yếu tố nước ngoài nhằm mục đích đưa ra cách thức giải quyết vấn
đề một cách đúng đắn trong việc xác định luật áp dụng và là căn cứ quan trọng trong
thẩm quyền giải quyết giữa các quốc gia về các vấn đề phát sinh trong quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là quan hệ thuộc lĩnh hôn nhân gia đình có
yếu tố nước ngoài, vì vậy đối tượng điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài cũng dựa trên đặc trưng yếu tố nước ngoài. Việc xác định yếu tố nước ngoài trong
quan hệ nuôi con nuôi là các nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài.
Để xác định yếu tố nước ngoài của nhiều nước dựa trên các căn cứ khác nhau.
Pháp luật Việt Nam nhìn chung cách xác định yếu tố nước ngoài phù hợp với pháp luật
các nước dựa trên các căn cứ bao gồm: Yếu tố chủ thể, Yếu tố khách thể, Yếu tố nơi cư
trú của các bên đương sự.
1.3.1.1. Yếu tố chủ thể
Chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là đối tượng quan trọng trong
tư pháp quốc tế.
Chủ thể của tư pháp quốc tế trước hết là cá nhân của các nước khi tham gia vào
các quan hệ quốc tế. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Theo pháp luật Việt Nam một trong những cơ sở pháp
lý quan trọng để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là dựa vào dấu hiệu quốc tịch. Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành xác định quốc
tịch dựa trên các tiêu chí sau: “Người có quốc tịch Việt Nam là người có cha mẹ đều là
công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam không kể sinh ra trong, ngoài lãnh thổ Việt
Nam” (theo điều 15 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008); “là người có cha và mẹ hoặc

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng


11

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
chỉ có mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là
công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam” ( theo khoản 1 điều
16 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008); “là người có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam
còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận
bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp một
người sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn
quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.” (Theo khoản 2 điều 16 Luật quốc
tịch Việt Nam năm 2008 ); “là người sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam nhưng cha mẹ là
người không có quốc tịch hoặc không xác định được quốc tịch nhưng có nơi cư trú tại
Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam” (Theo điều 17 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 );
“là người dưới 15 tuổi bị bỏ rơi hoặc tìm thấy ở Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam”
(Theo điều 18 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008). Mặt khác chủ thể tham gia vào quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn phải có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi, đây là đặc trưng không thể thiếu khi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật, hiện
nay việc xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể tham gia vào quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài dựa trên nguyên tắc luật quốc tịch hoặc luật nơi cư trú của
đương sự trừ một số trường hợp luật có quy định khác. Người có quốc tịch Việt nam
được xem là công dân Việt Nam, được nhà nước đảm bảo thực hiện các quyền công dân,
phải làm tròn nghĩa vụ công dân đối với nhà nước theo quy định của pháp luật. Ngoài
công dân Việt Nam là chủ thể cơ bản trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
thì người nước ngoài cũng là một chủ thể không kém phần quan trọng trong quan hệ nuôi
con nuôi giữa người nước ngoài cùng thường trú trên lãnh thổ Việt Nam với nhau, đây là
quan hệ phát sinh giữa người có quốc tịch nước ngoài với nhau không đồng thời có quốc

tịch Việt Nam, hoặc giữa người có quốc tịch nước ngoài với người không có quốc tịch
thường trú trên lãnh thổ Việt Nam trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Như vậy việc xác định quốc tịch của một cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài là việc xác định nơi mà cá nhân đó có mối quan hệ gắn bó với nước
mà công dân đó được hưởng các quyền và nghĩa vụ mà công đó phải thực hiên tại một
quốc gia mà họ gắn bó theo các quy định của nhà nước. Theo nguyên tắc này một cá
nhân mang quốc tịch Việt Nam về mặt pháp lý cá nhân đó có tính chất ràng buộc với nhà
nước Việt Nam “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân
Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”(điều 1Luật Quốc Tịch Việt Nam năm 2008).

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

12

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.1.2. Yếu tố nơi cƣ trú của các bên đƣơng sự
Yếu tố nơi cư trú của các bên đương sự là một các căn cứ để xem xét các đương
sự tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, vì vậy khi nói đến yếu tố nơi cư trú của
đương sự tham gia nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra hai trường hợp:
Thứ nhất: Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Hiện nay với tình hình kinh tế
mở cửa hội nhập quốc tế việc qua lại giữa các nước ngày càng dễ dàng, công dân Việt
Nam ra nước ngoài cư trú làm ăn sinh sống lâu dài ngày càng nhiều nên các quan hệ nuôi
con nuôi có liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng tăng. Khi đó
việc áp dụng chính xác pháp luật để điểu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là rất cần thiết, Theo khoản 1 điều 29 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 thì pháp

luật được áp dụng để điều chỉnh về điều kiện đối với người nhận con nuôi trong quan hệ
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một trong hai bên định cư ở nước
ngoài thì pháp luật được áp dụng trong trường hợp này là pháp luật của nước nơi mà
người đó thường trú và pháp luật Việt Nam. Quy định này hoàn toàn phù hợp với xu
hướng hội nhập quốc tế. Vì vậy việc công nhận chủ thể này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên tham gia trong việc thiết lập các mối quan hệ đặc biệt trong lĩnh vực nuoi con
nuôi.
Thứ hai: Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Hiện nay quan hệ nuôi con nuôi
giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam phát sinh ngày càng nhiều theo
xu hướng hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế ở nước ta. Trước tình hình đó pháp luật
Việt Nam đã quy định pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi họ
tham gia tại Việt Nam là Pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng quy tắc nơi cư trú của đương
sự để giải quyết. Việc áp dụng quy tắc này sẽ giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam giải quyết vụ việc nhanh chóng và thuận lợi.
Có thể nói việc xác định yếu tố nước ngoài trong các quan hệ dân sự nói chung và
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng là nền tảng cơ sở cho việc thiết lập
và giải quyết các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
1.3.2. Phƣơng pháp điều chỉnh
Hiện nay tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như tư pháp quốc tế của đa số các nước
trên thế giới điều có những cách thức và biện pháp rất riêng, đặc thù của mình để điều
chỉnh và phân định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự mang tính chất quốc tế đó là hai phương pháp: phương pháp xung đột, phương
pháp thực chất cả hai phương pháp này được kết hợp hài hòa cũng như sự tác động tương

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

13

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng



Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
hỗ giữa hai phương pháp này trong sự thiết lập một cơ chế điều chỉnh các quan hệ tư
pháp quốc tế và đảm bảo một trật tự pháp lý dân sự quốc tế
1.3.2.1. Phƣơng pháp xung đột
Phương pháp xung đột trong tư pháp quốc tế là phương pháp được định hình từ
khá sớm, bởi lẽ ngay từ khi bắt đầu hình thành nghành luật này người ta đã gọi nó là
“Luật xung đột” ( vào thế kỷ XVII do luật gia Hà Lan Hupiera sử dụng). Hiện nay Luật
xung đột ở Anh-Mỹ vẫn còn sử dụng đồng thời như tư pháp quốc tế.1
Phương pháp xung đột (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh gián tiếp) được
xây dựng và hình thành trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia (kể
cả quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên). Điều
này có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay
nước kia có liên đới tới yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên
đương sự.2
Như vậy các quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài sẽ được điều chỉnh như thế nào mà chỉ quy định pháp luật của nước
nào cần được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này khi phát sinh. Chẳng hạn theo điều 29
của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định
của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 ;Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con
nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi Con Nuôi năm
2010 và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú’’. ở đây điều
luật hoàn toàn không chỉ rõ vấn đề cần giải quyết, mà chỉ đưa ra pháp luật mà chủ thể cần
tuân theo khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Điều đó có thể
thấy tính gián tiếp của phương pháp xung đột thể hiện ở việc dẫn chiếu đến hệ thống
pháp luật áp dụng .
Quy phạm xung đột nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam được ghi
nhận trước hết là luật quốc gia và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết gia nhập như:

hiệp định về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển,…
Tóm lại Phương pháp xung đột một mặt nó luôn hoàn thiện và pháp điển hóa trong
điều kiện quốc tế, mặt khác nó cũng lại luôn được bổ sung và hoàn thiện hóa trong pháp
luật của mỗi quốc gia.
1
2

Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2006, Tr 31, Tr 32.
Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2006, Tr 32.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

14

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.2.2. Phƣơng pháp thực chất
Phương pháp thực chất (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh trực tiếp) được
xây đụng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân
sự quốc tế, trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giũa các bên tham gia quan hệ.
Các quy phạm thực chất điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế có thể được xây dựng
qua các điều ước quốc tế người ta gọi là các quy phạm thực chất thống nhất.3 Còn các
quy phạm thực chất xây dựng trong các văn bản pháp quy của mỗi quốc gia được gọi là
quy phạm thực chất trong nước.
Quy phạm thực chất được pháp luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là một quy phạm giải
quyết một cách trực tiếp các vấn đề thông qua các quy định của luật. Ví dụ theo khoản 2
điều 29 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định về điều kiện của người nhận nuôi

con nuôi: công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều này có nghĩa là người nhận nuôi con nuôi
phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện nhận con nuôi.
Phương pháp thực chất là phương pháp giải quyết trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài, đây là phương pháp mang tính khả thi cao, nó loại bỏ sự khác biệt,
thậm chí mâu thuẩn trong luật pháp giữa các nước với nhau trong quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài
Vì vậy phương pháp thực chất là một trong hững phương pháp điều chỉnh mang lại
hiệu quả giải quyết xung đột pháp luật một cách tốt nhất. Việc vận dụng và tăng cường
khả năng áp dụng phương pháp thực chất thống nhất giữa các quốc gia sẽ thúc đẩy hợp
tác về mọi mặt giữa các quốc gia, bảo đảm một trật tự kinh tế mới trên quy mô toàn cầu.
1.3.3. Nguồn của luật điều chỉnh
Với nghĩa chung nhất thì nguồn của các quy phạm pháp luật là các điều kiện vật
chất của đời sống xã hội. Còn trong khoa học pháp lý thì nguồn của pháp luật là các hình
thức chứa đựng và thể hiện các quy phạm pháp luật.4 Nguồn của tư pháp quốc tế có
những đặc thù riêng biệt nhất định của mình. Vì các quan hệ tư pháp quốc tế rất đa dạng
và phức tạp. Khoa học tư pháp quốc tế Việt Nam đã được kiểm nghiệm trong những năm
vừa qua đặc điểm cơ bản của tư pháp quốc tế mang hai tính chất:

3

Hoàng Phước Hiệp và Lê Hồng Sơn, Các nghành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội, 2001, Tr 233.
4
Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2006, Tr 14.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

15


SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Thứ nhất: nguồn của tư pháp quốc tế là điều ước quốc tế, nó mang tính chất điều
chỉnh quốc tế.
Thứ hai: nguồn của tư pháp quốc tế là luật pháp của mỗi quốc gia, nó mang tính
chất điều chỉnh quốc nội. Hai tính chất này luôn thống nhất với nhau trong điều chỉnh
quan hệ tư pháp quốc tế đó là các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, thương
mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.
1.3.3.1. Điều ƣớc quốc tế
Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế thể hiện sự thoả thuận của các chủ thể
pháp luật quốc tế trước hết là các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm quy
định, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các bên ký kết trong quan hệ quốc tế,
phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. 5 Điều ước quốc tế về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài là nguồn pháp luật quan trọng trong việc điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hiện nay
nhà nước ta đang rất chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế thông
qua việc ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế song phương với nhiều quốc gia.
Điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng
trong việc quy định các nguyên tắc áp dụng pháp luật chung cho quốc gia tham gia ký
kết. Hiện nay vấn đề xung đột pháp luật xảy ra ngày càng nhiều trong các lĩnh vực về hôn
nhân gia đình trong đó có vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì vậy trong các
hiệp định tương trợ tư pháp về nuôi con nuôi mà Việt Nam ký kết với các nước đã góp
phần tích cực trong việc đề ra nhiều nguyên tắc thỏa thuận áp dụng góp phần hạn chế
xung đột pháp luật xảy ra. Các nguyên tắc và quy định trong hiệp định tương trợ tư pháp
về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là cơ sở pháp lý cho Việt Nam và các nước
ký kết thực hiện việc điều chỉnh nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được hoàn thiện về
mặt pháp lý phù hợp quy chế pháp lý của trẻ em và các quốc gia tham gia ký kết. Điều
ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng khi xảy ra tranh chấp với quốc gia mà Việt Nam ký

kết tham gia điều ước quốc tế, theo khoản 2 điều 7 của Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm
2000 sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của
Luật Hôn Nhân và Gia Đình, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”

5

Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ớ Việt Nam trong thời
kì hội nhập quốc tế, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2006, Tr 122.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

16

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác giữa các quốc gia thông qua ký kết gia
nhập điều ước quốc tế không chỉ mở ra cơ hội hợp tác, cùng nhau phát triển giữa các
quốc gia mà còn góp phần hạn chế xung đột pháp luật.
1.3.3.2. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là loại nguồn khá phổ biến so với các loại nguồn khác trong tư
pháp quốc tế. Luật pháp của mỗi quốc gia là một hệ thống văn bản pháp quy của một
quốc gia bao gồm Hiến Pháp, luật và các văn bản dưới luật cùng với những tập quán và
án lệ, thực tiễn tư pháp. Dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đó có
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Ở nước ta các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nằm rải rác trong nhiều quy định của luật như: Luật Hôn Nhân và Gia Đình
năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, Luật nuôi con nuôi năm 2010, nghị định

19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con
nuôi… Các quy phạm pháp luật này chính là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh phù
hợp các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Hoạt động nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hoạt động mang lại nhiều lợi ích
thiết thực vì quyền lợi trẻ em, để hoạt động mang tính nhân đạo này ngày càng càng được
phát triển, thì việc hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước và việc mở rộng ký kết,
gia nhập các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi là vấn đề quan trọng ở mỗi quốc gia trong
đó có Việt Nam.
1.4. Các hành vi bị cấm khi nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài và các trƣờng
hợp nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.4.1. Các hành vi bị cấm khi nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Hiện nay bên cạnh việc mở rộng các quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế đã
không ít xuất hiện các trình trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trái với mục đích
của việc nhận con nuôi. Tuy nhiên pháp luật lại chưa quy định các vấn đề này một cách
rõ ràng. Nhà nước ta ban hành Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định cụ thể các hành
vi trái quy định pháp luật về nuôi con nuôi tại điều 13 của Luật Nuôi Con Nuôi như sau:
+ Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục;
bắt cóc, mua bán trẻ em.
+ Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
+ Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
+ Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

17

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

+ Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng,
người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà Nước.
+ Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
+ Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Những quy định trên tuy mới được đưa vào luật, song các hành vi bị cấm không
phải là những hành vi mới, các hành vi này đã từng được quy định trong Luật Hôn Nhân
và Gia Đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010. Luật Nuôi Con Nuôi đưa ra các hành
vi bị cấm nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của các bên có liên quan đến vấn đề
nhận nuôi con nuôi, cũng như bảo vệ các phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên vấn đề này còn đòi hỏi nhiều hơn nữa sự quan tâm của
Nhà Nước và các quốc gia trong việc hợp tác quốc tế về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài, để đảm bảo đúng mục đích của nuôi con nuôi quốc tế.
1.4.2. Các trƣờng hợp nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Ở mỗi quốc gia có các quy định riêng về các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Nhằm mục đích giúp cho các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không nơi
nương tựa được sống hạnh phúc và phát triển một cách toàn diện, nuôi con nuôi vừa là
một quan hệ xã hội mang tính chất gia đình vừa là một quan hệ pháp luật được pháp luật
điều chỉnh. Chính vì thế mà Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 đã đưa ra quy định các
trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm góp phần góp phần giúp cho cơ
quan có thẩm quyền thuận tiện trong việc xem xét, xử lý các vấn đề nuôi con nuôi đúng
theo trình tự thủ tục luật định.
1.4.2.1. Ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài, ngƣời nƣớc ngoài thƣờng trú
ở nƣớc cùng là thành viên của điều ƣớc quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Theo quy định của pháp luật thì nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy
định tại khoản 1 điều 28 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010, trường hợp nuôi con nuôi
giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là
thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi là một trong những trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chịu sự

điều chỉnh của Luật Nuôi Con Nuôi. Theo khoản 3 điều 3 của Luật Quốc Tịch năm 2008
quy định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hiểu là công dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Nếu họ đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật thì sẽ được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, không phụ

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

18

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
thuộc vào nước mà nơi người đó định cư có ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về hợp
tác nuôi con nuôi với Việt Nam hay chưa.
Người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về
nuôi con nuôi mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết cũng được nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi.
1.4.2.2. Công dân Việt Nam thƣờng trú ở trong nƣớc nhận trẻ em nƣớc
ngoài làm con nuôi
Theo khoản 1 điều 5 của Luật Quốc Tịch năm 2008 quy định: “Người có quốc
tịch Việt Nam là công dân Việt Nam”, như vậy có nghĩa là một người là công dân Việt
Nam thì phải mang quốc tịch Việt Nam, muốn chúng minh được một người có mang
quốc tịch Việt Nam hay không thì dựa vào giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, hộ
chiếu,… Từ đó cho thấy nước ta dựa vào quốc tịch để xác định yếu tố nước ngoài, vậy trẻ
em nước ngoài là trẻ em không mang quốc tịch Việt Nam. Công dân Việt Nam đáp ứng
đủ các điều kiện theo quy dịnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nơi người
được nhận làm con nuôi sẽ được nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Trẻ em nước
ngoài sau khi được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi một cách hợp pháp thì đương
nhiên có quốc tịch Việt Nam kể từ thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt

Nam công hận việc nuôi con nuôi đó.
1.4.2.3. Ngƣời nƣớc ngoài thƣờng trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam
Theo khoản 5 điều 3 của Luật Quốc Tịch năm 2008 quy định “Người nước ngoài
cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm
trú ở Việt Nam” Trong trường này người nước ngoài muốn nhận nuôi con nuôi tại Việt
Nam thì phải thường trú ở Việt Nam và khi nhận con nuôi phải tuân thủ theo đúng quy
định của pháp luật của Việt Nam về các điều kiện cho và nhận con nuôi. Khi đó việc nuôi
con nuôi sẽ được ghi nhận trên cơ sở đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp cho
người được nhận làm con nuôi và người nhận nuôi con nuôi.
.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

19

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VẾ VẤN ĐỀ XÁC LẬP QUAN HỆ
NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
2.1. Xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
2.1.1.Điều kiện đối với việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
2.1.1. 1. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Người nhận nuôi con nuôi đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích cho người được nhận làm con nuôi. Vì vậy mà người nhận con nuôi không chỉ đáp
ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của nước nơi người đó là công dân mà còn phải
đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật Việt Nam. Theo quy định của điều 29 Luật Nuôi

Con Nuôi năm 2010 thì người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận
người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước
nơi người đó thường trú và quy định tại Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010. Công dân Việt
Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại
Điều 14 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 và pháp luật của nước nơi người được nhận
làm con nuôi thường trú”
Bên cạnh đó theo pháp luật Việt Nam, thì người nhận con phải đáp ứng đầy đủ
các điều kiện của điều 14 Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đây là điều kiện tiên quyết trong
việc nhận nuôi con nuôi, vì người nhận con nuôi là người sẽ chăm sóc và bảo vệ con nuôi
một cách tốt nhất. Vì vậy người nhận con nuôi phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự dể
bảo vệ lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi.
- Theo quy định của Bộ Luật Dân Sự năm 2005, người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
+ Từ đủ 18 tuổi trở lên. Đây là điều kiện tuyên quyết bắt buộc đối với chủ thể là
người xin nhận con nuôi vì họ là người sẽ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ con
nuôi sau này nên họ phải có năng lực hành vi dân sự. Và không phải là người bị hạn chế
và bị mất năng lực hành vi theo khoản 1- điều 23 Bộ Luật Dân Sự năm 2005.6

6

Khoản 1 điều 23 quy định: Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định
tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

20


SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Thứ hai, Người nhận con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Việc quy
định độ tuổi cách biệt giữa người xin nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi là
một điều kiện bắt buộc không chỉ về mặt sinh học mà còn đảm bảo phù hợp với đạo đức
xã hội, đồng thời tránh được các trường hợp lạm dụng về tình dục trẻ em. Hầu hết các
nước đều quy định về độ tuổi của người xin nhận con nuôi, tuy nhiên việc quy định độ
tuổi tối thiểu để có thể nhận con nuôi là khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội của
mỗi nước mà họ cho rằng người xin nhận con nuôi đến độ tuổi nào đó mới nhận thức
được trách nhiệm và có kinh nghiệm tâm lý xã hội để có thể nuôi dưỡng con nuôi và quan
trọng là khả năng tài chính của họ có thể đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi có
điều kiện phát triển tốt nhất, theo quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi thể hiện sự
phù hợp và đảm bảo khoảng cách giữa hai bên, cũng như đây là khoảng cách tương xứng.
Tuy nhiên quy định này không áp dụng trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của
vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận
cháu làm con nuôi.
Thứ ba, Có tư cách đạo đức tốt, có điều kiện về sức khỏe , kinh tế, chổ ở đảm bảo
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Điều kiện này nhằm hướng đến mục đích
đảm bảo cho con nuôi được quan tâm, chăm sóc một cách tốt nhất. Trong quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài điều kiện này cũng không kém phần quan trọng, đảm bảo
khả năng loại trừ các hành vi lợi dụng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để lừa đảo đưa
trẻ đi mua bán, bốc lộc sức lao động, lạm dụng tình dục….Vì thế mà pháp luật Việt Nam
đã quy định người nhận con nuôi phải có đạo đức tốt để tránh trình trạng lợi dụng con
nuôi, bảo vệ trẻ em khi được nhận làm con nuôi, tránh trình trạng con nuôi bị cha mẹ
nuôi ngược đãi, có những hành vi, lời nói làm ảnh hưởng đến tâm lý và sự phát triển của
trẻ em sau này. Vì vậy cha mẹ nuôi phải có đạo đức tốt để cho trẻ em có thể phát triển
trong một môi trường đầy tình yêu thương, cũng như được quan tâm, giáo dục tốt
Thứ tư, Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với

con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi
hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh
tráo, chiếm đoạt trẻ em. Nếu một cá nhân thuộc một trong những trường hợp không được
nhận con nuôi nêu trên, như vậy cá nhân này không đảm bảo được các yêu cầu cơ bản về
nhân thân, tư cách đạo đức tốt, cũng như mục đích nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

21

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
cho con nuôi, điều này cho thấy không đảm bảo được mục đích chủ yếu của việc cho con
nuôi. Đây là quy định được nhiều nước quy định như là một điều kiện quan trọng trong
việc thiết lập trong quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi
Tóm lại các quy định về điều kiện của người nhận con nuôi hoàn toàn cần thiết
và phù hợp với pháp luật quốc tế. Các quy định này nhằm mục đích đảm bảo cho những
đứa trẻ sẽ được nhận vào các gia đình có đủ điều kiện về vật chất cũng như tinh thần để
phát triển toàn diện về thể chất và nhân cách.
2.1.1.2. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài
Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 đã kế thừa và phát huy một cách thích hợp các
quy định về vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói
riêng. Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 đã đưa ra các quy định cụ thể về điều kiện đối với
người được nhận làm con nuôi nhằm mục đích vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em

Theo điều 8 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định người được nhận làm
con nuôi là trẻ em duới 16 tuổi. Đây là độ tuổi phù hợp với đối tượng được nhận làm con
nuôi nhất là phù hợp với nguyện vọng của người nhận nuôi con nuôi, trên thực tế thì trẻ
em có độ tuổi này thường có tâm lý dễ thích ứng với môi trường mới. Tuy nhiên các nhà
làm luật chọn độ tuổi này còn nhẳm mục đích tạo sự tương thích về mặt sinh học giữa
những người thực thiên chức cao cả là làm cha, mẹ của những trẻ em được nhận làm con
nuôi
Nếu là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ được nhận làm con nuôi trong
trường hợp người nhận là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Như vậy những người từ đủ 18 tuổi trở lên được nhận làm con nuôi sẽ không được pháp
luật thừa nhận chính thức, không làm phát sinh quan hệ pháp luật liên quan đến nhân
thân, thừa kế. Từ đó ta có thể thấy được việc nuôi con nuôi là hướng tới đối tượng trẻ em
không được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt.
Ngoài việc quy định độ tuổi thì Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 còn quy định
hoàn cảnh của trẻ em khi được nhận làm con nuôi, nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ
em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em
mắc các bệnh hiểm nghèo; trẻ em được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng thoe quy định của
pháp luật. Quy định này rất thiết thực và phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi.
Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 còn quy định trẻ em chỉ được nhận làm con nuôi
của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng. Quy định này phù hợp với pháp luật
quốc tế nhằm mục đích chống lại khả năng lạm dụng việc nhận trẻ em làm con nuôi để

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

22

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

mua bán trẻ em. Quy định này nhằm đảm bảo sự phù hợp với quan hệ cha mẹ nuôi và con
nuôi, đây cũng là quy định phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi đặc biệt là nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài, vì một người không thể làm con nuôi của nhiều người
được, nếu như một trẻ em được làm con nuôi của nhiều người sẽ gây khó khăn cho việc
quản lý các quan hệ về nhân thân, tài sản, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như bảo
hộ pháp lý cho người được làm con nuôi, nhằm đảm bảo điều kiện cho trẻ em được chăm
sóc, bảo vệ tốt nhất.
Vì vậy, việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đối tượng được nhận làm
con nuôi phải thỏa mãn những điều kiện nhất định của pháp luật nước tiếp nhận cũng như
pháp luật Việt Nam nhằm mục đích đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, tạo cơ hội cho các trẻ em này được sống trong một gia đình hạnh phúc, được học
tập và phát triển như những đứa trẻ khác.
2.1.2. Yếu tố tự nguyện trong nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Trong quan hệ nuôi con nuôi sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực,
không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu
trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác ( theo khoản 3 điều 21 của Luật Nuôi Con Nuôi năm
2010).7 Nhằm đảm bảo mục đích nuôi con nuôi, quyền lợi của các bên và tránh các hành
vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện hành vi trái pháp luật. Bên cạnh đó nuôi con
nuôi còn thể hiện ý chí mong muốn của người nhận con nuôi về việc nhận nuôi đứa trẻ và
thiết lập quan hệ cha mẹ và con đối với đứa trẻ đó. Ngoài ra việc cha mẹ đẻ hoặc của
người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi phải minh bạch và xuất phát từ sự tự
nguyện của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác động , thúc ép dụ dỗ hoặc hứa hẹn hay
một áp lực nào.
2.1.3. Thẩm quyền, trình tự , thủ tục giải quyết việc nhận nuôi con nuôi
2.1.3.1. Thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi
tại cơ quan Việt Nam
 Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Theo khoản 2 điều 9 của Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định thẩm quyền
đăng ký việc nuôi con nuôi: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của người được giới

thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.”
7

Khoản 3 điếu 21 quy định sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay
mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

23

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Còn “đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung Ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân Tỉnh), nơi
thường trú của người được nhận làm con nuôi, có thẩm quyền quyết định cho người đó
làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó
làm con nuôi. Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có
quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” ( theo khoản 2 điều 2 Nghị định 19/ 2011/
NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi Con Nuôi ).
Các quy định trên phù hợp với việc xác định các điều kiện về trẻ em được nhận làm con
nuôi, giúp cho việc xác minh nguồn gốc trẻ em được đảm bảo các yêu cầu về nuôi con
nuôi thuận tiên hơn

Trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan Việt Nam.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một hoạt động khá phổ biến trên thế giới,
ở Việt Nam đã quy định về, trình tự ,thủ tục giải quyết việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố

nước ngoài tại Việt Nam được cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất, của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ,
tài liệu sau đây:
- Bước1: lập hồ sơ của người xin nhận con nuôi phải có các giấy tờ đầy đủ sau
đây:
+ Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; Văn
bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam; Bản điều tra về tâm lý, gia đình; Văn bản
xác nhận tình trạng sức khoẻ; Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản; Phiếu lý lịch tư
pháp; Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân.
Nếu người nhận con nuôi thuộc trong các trường hợp được nhận con nuôi đích
danh theo quy định tại khoản 2 điều 28 của Luật Nuôi con Nuôi năm 2010,8 thì nộp hồ
8

Khoản 2 điều 28 quy định: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài
được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi;
đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

24

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

sơ tại tại cục con nuôi, phải nộp một bộ hồ sơ của người được nhận làm con nuôi và giấy
tờ sau để chứng minh:
+ Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc
cha đẻ của người được nhận làm con nuôi.
+ Giấy tờ, tài liệu để chứng minh người nhận con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác
ruột của người được nhận làm con nuôi.
+ Bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cho người đó nhận
con nuôi Việt Nam và giấy tờ, tài liệu để chứng minh người con nuôi đó với trẻ em được
nhận làm con nuôi là anh, chị em ruột.
+ Giấy tờ, tài liệu để chứng minh trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em thuộc
một trong các trường hợp sau: Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận
đích danh làm con nuôi theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 28 của Luật Nuôi con nuôi
gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị câm,
điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm
HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em bị thoát vị rốn, bẹn, bụng; trẻ em không có hậu
môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ em bị các bệnh về máu; trẻ em mắc bệnh cần điều trị cả
đời; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác mà cơ hội được nhận làm
con nuôi bị hạn chế
+Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã, nơi cư trú tại Việt
Nam và giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh người nhận con nuôi là người nước ngoài
đang làm việc, học tập liên tục tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm, tính đến
ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi.
Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02 bộ và nộp cho Bộ Tư pháp
thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước nơi người nhận con nuôi
thường trú; trường hợp nhận con nuôi đích danh thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp
nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp.
- Bước 2: Thủ tục nộp và tiếp nhận hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
được quy định tại điều 17 Nghị Định 19/2011/ NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Nuôi Con Nuôi như sau:

+ Trường hợp nhận con nuôi đích danh, thì người nhận con nuôi trực tiếp nộp hồ
sơ tại Cục Con nuôi. Trường hợp có lý do chính đáng mà không thể trực tiếp nộp hồ sơ
tại Cục Con nuôi, người nhận con nuôi ủy quyền bằng văn bản cho người có quan hệ họ

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng

25

SVTH: Phan Thị Ngọc Hằng


×