Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

đặc điểm nội dung tiểu thuyết đất rừng phương nam của nhà văn đoàn giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.59 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

LÊ THỊ BẢO TRÂN
MSSV: 6106438

ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT
ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA NHÀ VĂN
ĐOÀN GIỎI
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS.GV. TRẦN VĂN THỊNH

Cần Thơ, năm 2013


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội vùng Nam Bộ


1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi
1.3. Tác phẩm Đất rừng phương Nam
1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.3.2. Tóm tắt tác phẩm
1.3.3. Một số nhận xét về tác phẩm
1.4. Một số tiền đề lý luận
1.4.1. Giới thuyết về tiểu thuyết
1.4.2.Giới thuyết về nội dung
1.4.3. Giới thuyết về giá trị của tác phẩm

CHƯƠNG 2
BỨC TRANH VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG
VÀ SINH HOẠT CỦA CON NGƯỜI NAM BỘ
TRÊN VÙNG ĐẤT MỚI
2.1. Thiên nhiên Nam Bộ - đặc trưng riêng của Đất rừng phương Nam
2.1.1. Thiên nhiên phương Nam hoang sơ, khắc nghiệt
2.1.2. Thiên nhiên phương Nam trù phú, hiền hòa, gắn bó với cuộc sống
của con người


2.2. Cuộc sống và sinh hoạt của con người Nam Bộ trên vùng đất mới
2.2.1. Tập quán sinh hoạt của con người Nam Bộ chủ yếu dựa trên điều
kiện tự nhiên
2.2.2. Những khó khăn trong sinh hoạt của con người Nam Bộ trên vùng
đất mới
2.3. Bức tranh ngôn ngữ Nam Bộ - dân dã và giàu tính biểu cảm
2.4. Ý nghĩa của bức tranh vùng đất mới Nam Bộ

CHƯƠNG 3
BẢN LĨNH VÀ TÍNH CÁCH CỦA CON NGƯỜI

NAM BỘ TRÊN VÙNG ĐẤT MỚI
3.1. Con người Nam Bộ dũng cảm, gan góc trong quá trình khai phá tự
nhiên.
3.2. Con người Nam Bộ hào hiệp, nghĩa khí trong quan hệ với cộng đồng.
3.3. Con người Nam Bộ anh hùng trong việc đấu tranh bảo vệ quê hương.
3.4. Ý nghĩa nhân văn về bản lĩnh và tính cách con người Nam Bộ trên vùng
đất mới.

C. PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, cho dù trong thế giới văn chương muôn màu muôn vẻ, nhưng trong
lòng bạn đọc yêu văn chương vẫn giữ lại nét chân dung về Đoàn Giỏi, đó là một nhà
văn Nam Bộ với tính cách đặc biệt Nam Bộ. Ông không giống ai, đi theo con đường
mà mình đã chọn là quay về cội nguồn văn hoá dân tộc, mà chính xác là văn hoá Nam
Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời sống thực tế, làm
sống lại nhiều vấn đề về đất và con người nơi đây. Nhà văn Đoàn Giỏi không thể nào
lẫn lộn với bất kỳ ai trong các tác giả văn chương hiện đại, càng không dễ dàng xóa đi
sức ảnh hưởng của ông trong việc nghiên cứu, tìm hiểu miền Nam. Dù ông đã ra đi
nhưng những gì còn ở lại mãi là những áng văn chương để đời, làm tên tuổi Đoàn Giỏi
không thể phai nhạt trong dòng chảy của thời gian.
Vào cuối thế kỷ XX, Đoàn Giỏi được giới văn học cả nước biết đến như một tài
năng của văn chương Nam Bộ. Ông không những là một nhà văn tài hoa uyên bác mà
còn được đánh giá cao như một nhà Nam Bộ học, một nhà văn hóa. Khi nhắc đến
Đoàn Giỏi, người ta thường nghĩ ngay đến tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Tác
phẩm đã gầy dựng được uy tín và vị thế của nhà văn trong thi đàn văn học nước nhà.

Mặt khác, tác phẩm thể hiện một vốn chiều sâu về văn hóa, sự hiểu biết và nhiệt tâm
của người cầm bút. Dù không là tất cả nhưng người và đất Nam Bộ như hiện ra trong
lòng chúng ta như thật, dẫu biết thời gian có thể xóa đi những dấu ấn của một thời dấu ấn của công cuộc mở đất, của con người miền Nam. Tiểu thuyết Đất rừng phương
Nam là một tiểu thuyết đặc sắc viết về những vùng đất và con người miệt vườn Nam
Bộ thời kháng chiến chống Pháp. Một tác phẩm mà hầu như ai cũng yêu thích, nó lôi
cuốn độc giả từ đầu đến cuối. Tác phẩm không phải là những trang văn lãng mạn,
những câu chuyện tình lâm li bi đát mà là một câu chuyện mang tính hiện thực sâu sắc.
Khi đọc tác phẩm, chúng ta cảm nhận được thế giới riêng của vùng sông nước. Đoàn
Giỏi dựng truyện đơn giản nhưng hấp dẫn, mỗi truyện đều có chi tiết rất ấn tượng và
thấy cả sức sống mãnh liệt của những người đi mở đất phương Nam, một cuộc sống
mới nơi đất rừng sơn lam chướng khí và thấy cả hào khí của tầng lớp lưu dân trên
vùng đất Nam Bộ. Như chúng ta đã biết, Nam Bộ thuở xa xưa là một vùng đất chưa
được khám phá nhiều. Những tiềm năng phong phú, đa dạng của vùng đất mới này bắt
1


buộc mọi người phải ra sức tìm hiểu nó một cách cặn kẽ. Càng đi sâu tìm hiểu những
đặc điểm về lịch sử, về địa lý, về xã hội và đặc biệt là về con người miền Nam, chúng
ta càng thấy việc tìm hiểu này không chỉ là cần thiết, không thể thiếu được mà còn bổ
ích và đầy hứng thú đối với các nhà khoa học, các nhà văn hoá nghệ thuật. Do đó,
những đóng góp của nhà văn Đoàn Giỏi trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam đã
phần nào cung cấp thêm một tư liệu quý trong việc tìm hiểu và tiếp cận vùng sông
nước Nam Bộ khá mới mẻ và hấp dẫn này.
Sau hơn nửa thế kỷ cầm bút, Đoàn Giỏi được nhìn nhận là một trong số ít nhà
văn Việt Nam đã dành cả cuộc đời gắn bó cho một vùng đất. Chính những trang viết
dung dị, nhân hậu, thấm đẫm văn hóa Nam Bộ và thể hiện một tấm lòng dạt dào tình
yêu quê hương đất nước, một lòng gắn bó với quê hương đất nước đã chinh phục được
nhiều thế hệ bạn đọc. Tác giả chẳng cần lạ hóa câu chuyện, cứ như ghi đúng những gì
nó từng xảy ra và đôi khi vẫn còn tồn tại. Với vùng đất ấy có biết bao câu chuyện lôi
cuốn con người và bằng giọng văn chân tình, nhẹ nhàng, đa dạng đã viết thêm trang sử

cho văn hóa một vùng sông nước, cho nét đặc trưng bản chất, cho nét đẹp đơn sơ bình
dị của con người miền Nam sống mãi với thời gian. Đất rừng phương Nam còn là một
vẻ đẹp sắc hương tồn tại mãi mãi. Nó không chỉ là hương rừng dịu ngọt, say mê, tinh
khiết quyến rũ lòng người mà nó là hương của đạo nghĩa, của tình người, của tất cả
những gì cuộc sống lắng đọng như những mật ngọt mà rừng tràm, hương tràm
miền Nam đem lại. Điều này chỉ những ai từng đến và sống ở rừng mới có thể ngẫm
chất ngọt ngào mà Đoàn Giỏi cảm nhận, khai thác và ghi nhận. Chúng ta còn thấy
được ở trong tâm người cầm bút, khi đã kỳ công viết về một vùng đất còn là ẩn số, còn
nhiều điều chưa được khám phá.
Cuộc đời viết văn và chiến đấu của Đoàn Giỏi đã đưa bước chân của một người
nghệ sĩ, một người con nặng lòng vì Tổ Quốc rong ruổi khắp nơi, vào Nam ra Bắc,
trước hết để thực hiện nhiệm vụ cứu nước, sau đó là việc không ngừng sáng tạo nên
các tác phẩm văn chương đa dạng chất liệu hiện thực đời sống. Hầu hết trải dài trên
trang văn của Đoàn Giỏi là chất ký nhẹ nhàng về cuộc sống và con người Nam Bộ, nơi
mà tác giả đã quặn thắc tim mình thương nhớ mỗi lúc đi xa. Tất cả những gì mà tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam đọng lại không chỉ là trang văn đẹp mà là kho tư liệu
quý cho con người và cuộc đời. Khi các thế hệ sau gợi nghĩ về Đoàn Giỏi thì hình ảnh
một vùng đất và con người phương Nam luôn tỏa ngợp trong tâm hồn người đọc. Vì
2


thế, chúng tôi muốn thông qua đề tài: “Đặc điểm nội dung tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi” để tìm hiểu thêm về con người, sự nghiệp văn
học cũng như những đặc điểm về nội dung của tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
trong sáng tác của ông theo hướng tiếp cận về nét riêng, đặc sắc để hiểu một cách cụ
thể hơn. Đó chính là lý do mà chúng tôi chọn để tiến hành nghiên cứu luận văn của
mình.

2. Lịch sử vấn đề
Như trên đã trình bày thì hầu như Đoàn Giỏi luôn trong tâm thức độc giả bao

thế hệ với bóng dáng uy nghi, đồ sộ của Đất rừng phương Nam. Chính vì điều đó mà
đã có rất nhiều lời phê bình, nhận định của bạn đọc văn chương, nhận định của các nhà
nghiên cứu xoay quanh tác phẩm và tác giả. Chúng tôi qua quá trình thu thập tài liệu
để nghiên cứu lịch sử vấn đề: “Đặc điểm nội dung tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
của nhà văn Đoàn Giỏi” từ sách báo, những bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác
nhau được in tải trên hệ thống mạng Internet, đã tìm thấy cơ sở xác đáng để bắt tay
vào công việc nghiên cứu luận văn của mình.
Đầu tiên, khi nói về Đoàn Giỏi, nhà văn Huỳnh Mẫn Chi đã thâu tóm tất cả sự
hoang sơ, trầm tịch của vùng đất phương Nam vào tính cách giản dị và mộc mạc của
chính Đoàn Giỏi. Huỳnh Mẫn Chi trong bài viết về Đoàn Giỏi và áng văn của đất, của
rừng phương Nam đã nhận xét rằng: “Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam chính là tác
phẩm nổi bật nhất trong quá trình sáng tác của Đoàn Giỏi. Bởi, bối cảnh câu chuyện
rất đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ. Với rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông,
con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn, Đoàn Giỏi như gửi trọn vào tác phẩm của mình.
Đất rừng phương Nam đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con người,
tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ. Nội dung câu chuyện cũng vậy, Đoàn
Giỏi chỉ xoay quanh ở vùng đất Nam Bộ. Ông mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ để giới thiệu đất rừng phương Nam.
Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có, hào phóng và hùng vĩ với những con người
trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo kháng chiến. Tác phẩm gần như tập hợp tất
cả đất rừng và người phương Nam. Có thể nói, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
như một xã hội của miền sông nước Tây Nam Bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã
tìm thấy hình ảnh người dân của vùng đất phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải
dài đến Kiên Giang - Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm
3


Căn, Cà Mau. Bối cảnh trong Đất rừng phương Nam là cả một đất trời thiên nhiên ưu
đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú
rừng hoang dã muôn loài. Sự tài tình của Đoàn Giỏi đã tái tạo lại bối cảnh sông nước,

con người của thuở ông cha ta còn mang gươm mở cõi” [23]. Ngoài ra, Huỳnh Mẫn
Chi đã nghiên cứu Đoàn Giỏi trên phương diện chất liệu đề tài và đưa đến nhiều nhận
định sâu sắc và xác đáng. Văn chương của Đoàn Giỏi luôn mạnh mẽ, gai góc, cuồng
nhiệt như chính cá tính của ông. Điều đó đã làm nên một vùng đất hùng vĩ, bạt ngàn
trong Đất rừng phương Nam. Huỳnh Mẫn Chi nhìn về giá trị văn chương của Đoàn
Giỏi xuất phát từ cái nhìn về tính cách con người của nhà văn. Chính cá tính của Đoàn
Giỏi đã chi phối các trang viết: “Một Đoàn Giỏi phóng khoáng hào hiệp và luôn luôn
sâu nặng với miền đất phương Nam. Tác phẩm của Đoàn Giỏi thường đậm chất nghĩa
khí và hào hùng. Dù có sinh sống, công tác và hoạt động ở đâu, ông cũng luôn luôn
hướng về về vùng đất Nam Bộ” [23].
Đồng cảm với Huỳnh Mẫn Chi, nhà văn Văn Hồng trong Hiệp sĩ Đất rừng
phương Nam tiếp tục nêu ý kiến rằng: “Trong Đất rừng phương Nam, nhân vật có
nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề như một xã hội thu nhỏ, hoạt động suốt hai triền
sông (sông Tiền và sông Hậu Giang) vào rừng U Minh, xuống tận mũi Cà Mau. Đất
rừng phương Nam có kết cấu chương hồi kiểu truyền thống, không gian, thời gian
rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen tách bạch và bộc lộ qua hành động, hình dáng,
ngôn ngữ. Một văn cách dễ đọc, dễ hiểu, hợp với đại chúng trẻ em. Mặc cho cả thế kỷ
nay, văn chương thế giới không ngừng tìm tòi những cách viết mới: trộn lẫn không
gian và thời gian, ý thức, tiềm thức và vô thức…, văn cách truyện kể với những biến
tấu khác nhau vẫn không hề mất sức sống. Biến tấu của Đoàn Giỏi mang tính hiện đại.
Đó là cách tiếp cận thời gian tâm lí, cách trộn lẫn các thi pháp sử thi, phản gián,
khám phá. Nếu theo truyền thống thì truyện phải kể từ Mỹ Tho, quê An hay ít ra cũng
phải từ ngày tản cư, chạy giặc. Nhưng tác giả đã mở đầu bằng lần lưu lạc thứ ba, sau
khi An lạc cha mẹ và đoàn thuyền quân lương. Một ngón chơi theo quy luật:
Khi ta ở, đất chỉ là đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên)”
Tác giả Lê Hồng Thiện cũng góp một phần công sức khi viết về Đoàn Giỏi
bằng kỷ niệm chân thành khi bàn về hoàn cảnh ra đời của Đất rừng phương Nam. Tác
4



phẩm ấy là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội bức bách trong thời chiến. Vào năm 1957,
khi đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc, vì thế: “Ban biên tập Nhà xuất bản
Kim Đồng muốn có một tác phẩm giới thiệu về phong cảnh đất nước, con người miền
Nam tươi đẹp, trù phú, giúp bạn đọc thêm hiểu và yêu miền Nam” và có lẽ “Lúc viết
tác phẩm này hình ảnh quê hương đã ngấm vào máu, vào từng câu chữ của ông, cho
nên dù viết vội mà truyện vẫn hay” [26]. Cùng nhấn mạnh vai trò to lớn của Đoàn Giỏi
khi tái hiện thành công và xuất sắc bức tranh hoành tráng về mảnh đất và con người
phương Nam qua Đất rừng phương Nam của Lê Hồng Thiện thì còn có rất nhiều ý
kiến hay mà chuẩn xác của nhiều nhà nghiên cứu.
Khi xét về khả năng tác động của Đất rừng phương Nam đến tình cảm yêu mến
một vùng đất xa lạ đối với người chưa từng biết và đến vùng đất Nam Bộ hay những
con người Nam Bộ, Ngô Văn Phú đã trình bày cảm xúc của mình khi được tiếp cận tác
phẩm: “Đọc xong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, ta cảm thấy, với người viết
đó là mảnh đất quê hương ruột rà đầy yêu thương tự hào, còn với ta, người đọc, thì đó
là miền đất hứa”.
Giá trị lớn lao mà Đất rừng phương Nam đem lại cho kho tàng sách viết về
thiếu nhi Việt Nam nói riêng và nhiều tầng lớp độc giả nói chung đã được Đỗ Quang
Hạnh ghi nhận trên báo Lao động số 52 ra ngày 3/3/1999: “Phải thành thật nói rằng,
Đất rừng phương Nam (1957) đã lôi cuốn chúng tôi về một miền đất xa lắc, xa lơ đầy
bí ẩn và vô cùng hấp dẫn. Gần như không có cuốn sách nào của các nhà văn Việt Nam
viết cho thiếu nhi có khả năng đáng yêu đến thế!”.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đã bày tỏ cảm nghĩ của mình về sự tài tình
của nhà văn Đoàn Giỏi trên báo Văn nghệ, số ra ngày 3/4/1999: “Trong con mắt tôi,
với nhà văn Đoàn Giỏi, sự sáng tạo đồng nghĩa với một cuộc đấu tranh, một cuộc đấu
tranh vô cùng quyết liệt. Trong quá trình sáng tạo Đất rừng phương Nam, tôi có cảm
giác anh Năm Đoàn Giỏi đã đánh vật với từng chữ, với thân hình của anh, tôi thấy có
lúc anh mệt mỏi rồi như người vụt vùng dậy sau lúc thua trận. Xuất thân là họa sĩ, anh
vẽ thiên nhiên bằng văn chương đầy màu sắc. Cả đời đạm bạc, đi, đọc và viết để dành

cả đời cho văn chương”.
Bằng tài năng cùng với nhiệt huyết sôi nổi của mình, Đoàn Giỏi đã làm cho
nhiều người nghiêng mình thán phục, khơi gợi nơi họ bao cảm xúc dạt dào khi nghĩ về
quê hương đất nước. Ma Văn Kháng trong bài viết Lời tưởng niệm – trên báo Văn
5


nghệ số ra ngày 3/4/1999 đã cho rằng: “Đọc Đất rừng phương Nam, tình yêu đất nước
của chúng ta, một lần nữa giàu có thêm, vì trong văn ông, tình yêu đất nước bắt nguồn
và liên hệ bền chặt với sự độc đáo của nền văn hóa lâu đời của dân tộc”.
Theo một bài viết của Đoàn Minh Tuấn trên báo Văn nghệ trẻ ra ngày 4/4/1999,
về sự tồn tại lâu bền của con người và văn nghiệp của Đoàn Giỏi trong kí ức của các
bạn đọc văn chương thì ông có trích dẫn trực tiếp một nhận xét của I-Na-Zi-Mô-NhiNa (nhà văn Nga) dành cho Đoàn Giỏi như sau: “Trong các nhà văn đương đại của
Nam Bộ, Đoàn Giỏi là người có cá tính. Nhân vật của ông rất dữ dội và hào hiệp, điển
hình cho vùng châu thổ Cửu Long. Đọc Đất rừng phương Nam làm tôi thích miền
Nam”.
Còn trong tập tiểu luận – phê bình Tiếng vọng những mùa qua của Nguyễn Thị
Thanh Xuân lại nhận định một cách đầy trân trọng về người cha đẻ của Đất rừng
phương Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang
viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm
tưởng bao người. Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc
đó. Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất
mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người. Ông đã xây dựng
những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa…” [21; tr.113].
Trên đây là các ý kiến xoay quanh tác phẩm Đất rừng phương Nam, ngoài ra
còn có nhiều người tìm hiểu về Đoàn Giỏi trên mặt rộng của sự nghiệp sáng tác. Có
nghĩa là nghiên cứu nội dung sáng tác không chỉ bám vào tác phẩm Đất rừng phương
Nam mà còn nghiên cứu nhiều tác phẩm khác của ông. Cũng không vượt ra ngoài giới
hạn khẳng định giá trị văn chương của Đoàn Giỏi là viết nhiều, viết khỏe và viết hay
về vùng đất Nam Bộ nên Nguyễn Bá tìm thấy mùi vị của núi rừng, sông nước và hơi

thở của đất của người Nam Bộ chất chứa trong hồn văn của Đoàn Giỏi: “Những trang
văn của ông thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực,
cả kỳ bí của thiên nhiên Nam Bộ hoang sơ” [22]. Có lẽ Nguyễn Bá có cái nhìn chân
thực và thấu đáo như thế là do điều may mắn khi được tiếp xúc cuộc sống trực tiếp với
Đoàn Giỏi.
Hoặc qua bài nghiên cứu của Lưu Hồng Sơn với tựa đề Đoàn Giỏi - người lưu
giữ huyền thoại phương Nam sẽ giúp chúng ta định hình được vai trò to lớn của cây
bút Đoàn Giỏi khi viết về mảng đề tài phương Nam với tư cách là người giữ gìn huyền
6


thoại. Vẫn là nghiên cứu Đoàn Giỏi trên cái nhìn gắn liền với vùng đất và con người
Nam Bộ nhưng Lưu Hồng Sơn đi sâu hơn vào bút pháp nghệ thuật độc đáo để lột tả
hết các kì bí, hấp dẫn, lôi cuốn của thời kỳ khai hoang đất phương Nam. Lưu Hồng
Sơn thu tóm tài năng quan sát và sự đa tài của Đoàn Giỏi ở phương diện làm sống dậy
cả linh hồn núi rừng, sông nước vùng Tây Nam Bộ. Đặc biệt, Lưu Hồng Sơn còn đi
sâu vào nghiên cứu nghệ thuật huyền thoại hóa với nhưng cái li kì huyền bí của thiên
nhiên. Cuối cùng, tác giả bài viết còn đưa ra hai nguyên nhân khách quan và chủ quan
để giải thích vì sao Đoàn Giỏi lại chuyên tâm đầu tư vào Đất rừng phương Nam xuất
sắc như vậy.
Tóm lại, có rất nhiều người biết đến, nghĩ về rồi nghiên cứu về cuộc đời và tác
phẩm Đất rừng phương Nam. Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài nghiên
cứu, bài viết rải rác khác cũng có đề cập đến nội dung tiểu thuyết, nhưng nhìn chung
chỉ là những nhận xét tạt ngang, hoặc chỉ tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ trong
văn chương, chưa có những công trình chuyên sâu về đề tài này. Bài viết dưới đây
chúng tôi tìm hiểu con người Nam Bộ tổng hòa trong quan hệ với môi trường địa lý tự
nhiên, hoàn cảnh lịch sử, môi trường văn hóa xã hội mang tính thời đại. Với hướng
tiếp cận như vậy, đặt vấn đề tìm hiểu đặc điểm nội dung của tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam dựa vào con người Nam Bộ là đi tìm những đặc điểm đặc thù về lối sống,
cách suy nghĩ, ứng xử của cộng đồng người Nam Bộ, được biểu hiện thông qua tình

yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước và các tình cảm thiêng liêng khác của
con người. Vì vậy, trên tinh thần tìm hiểu, nghiên cứu, tập hợp những ý kiến nêu trên,
chúng tôi xin được phép đi sâu vào khám phá một cách chi tiết, đầy đủ với tên đề tài:
“Đặc điểm nội dung tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi”.

3. Mục đích yêu cầu
Chúng ta phải thừa nhận rằng, những trang viết trong tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam của Đoàn Giỏi luôn chan chứa hơi thở của rừng cây, của sông nước miền
Nam, luôn thắm đượm tình người, tình quê hiền lành, mộc mạc. Đầu tư cả tâm huyết
và khối óc để suốt đời tìm tòi, sáng tạo nên Đoàn Giỏi đã dành phần lớn thời gian để
viết về mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Với mục đích có thêm nhiều người hiểu
thêm và yêu mến thêm văn chương của Đoàn Giỏi nên luận văn của chúng tôi sẽ đi
vào tìm hiểu tác phẩm xuất sắc nhất của ông với tư cách khẳng định Đoàn Giỏi là một
nhà văn Nam Bộ, một nhà văn đã rất nặng tình với quê cha đất mẹ. Đầu tiên, chúng tôi
7


sẽ tìm hiểu, tiếp cận bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển văn hóa xã hội của vùng
Nam Bộ. Tiếp theo là nghiên cứu, phân tích, thống kê những nội dung liên quan đến
cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Đoàn Giỏi. Sau đó, để đi sâu vào nội dung, chúng
tôi tiến hành khảo sát tiểu thuyết Đất rừng phương Nam trên hai khía cạnh là thiên
nhiên và con người Nam Bộ thông qua cách miêu tả của tác giả, với mục đích làm nổi
bật đặc điểm nội dung của tiểu thuyết. Qua đó, phản ánh được giá trị của tác phẩm có
tính thời đại sâu sắc, thông qua các giá trị nhận thức, giá trị nhân đạo và giá trị hiện
thực trong tác phẩm.
Các giá trị trên được thể hiện, được cụ thể hoá qua hoạt động tiếp nhận tác
phẩm. Ở đây người đọc là lí do tiếp nhận sự tồn tại của tác phẩm, bởi mục đích của
Đoàn Giỏi xét đến cùng là kí thác, gửi gắm tâm sự, bộc lộ cảm xúc cá nhân và tinh
thần thời đại của mình vào tác phẩm. Tất cả đều hướng tới người đọc, hướng tới sự
giao tiếp, đối thoại qua tác phẩm. Người đọc tiếp nối và tham gia mục đích sáng tạo

của nhà văn, hiện thực hoá ý đồ nghệ thuật của nhà văn qua sự đồng điệu và nhân lên
cảm xúc, qua sự đánh thức tâm hồn và thông qua những hiểu biết mới mẻ về cuộc đời.
Đất rừng phương Nam được chúng ta công nhận là một tác phẩm thành công của nhà
văn Đoàn Giỏi. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn,
sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về thiên nhiên và người nông dân Nam Bộ, mà
điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của
Đoàn Giỏi đối với mảnh đất quê hương. Nếu chỉ với Đất rừng phương Nam mà Đoàn
Giỏi đã đem tên tuổi của đất phương Nam, tên tuổi của mình đến với rất nhiều độc giả
trong nước và nước ngoài thì chúng tôi mong rằng qua luận văn này sẽ giúp độc giả
hiểu hơn về tâm tư, tình cảm của nhà văn, về những đóng góp thật sự có giá trị của tác
phẩm khi nói về vùng đất phương Nam bạt ngàn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
“Đặc điểm nội dung tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn
Giỏi” là một đề tài đi vào nghiên cứu tiểu thuyết trên phương diện nội dung. Do đó,
đối tượng nghiên cứu của luận văn là tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Xem xét nội
dung các câu chuyện, từ đó xâu kết những nét đặc sắc của mảnh đất phương Nam. Qua
đó chúng tôi xoay quanh vấn đề phân tích đặc điểm nội dung của tác phẩm, chúng tôi
sẽ bám chặt vào hệ thống đề tài, chủ đề, con người, cảnh vật, không gian, thời gian…
Đồng thời cũng đề cập đến những vấn đề thời đại, con người và xã hội vùng sông nước
8


Nam Bộ mà tác phẩm đã đồng hành. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng kế
thừa và phát huy những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, nhà phê bình về
những tác phẩm viết về cuộc sống và con người Nam Bộ thời kháng chiến để tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt để làm cho tiểu thuyết có một dấu ấn riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm nghiên cứu một cách có hiệu quả và đáp ứng được những yêu cầu của đề

tài nghiên cứu việc đầu tiên chúng tôi làm là sưu tầm các tài liệu có liên quan đến đề
tài. Tiếp theo là sử dụng lần lượt các phương pháp nghiên cứu sau để xử lí tài liệu và
tiến hành nghiên cứu.
Đó là phương pháp tổng hợp tư liệu để hệ thống hóa lại các tư liệu phục vụ cho
quá trình nghiên cứu cũng như tổng hợp lại các vấn đề, sắp xếp các tư liệu một cách
hợp lí. Các thao tác đọc tác phẩm, nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan làm cơ
sở nghiên cứu lập đề cương tổng quát, đề cương chi tiết, lập bản thảo được chúng tôi
thực hiện sau đó. Phương pháp lịch sử được chúng tôi sử dụng chủ yếu khi nghiên cứu
đề tài. Chúng tôi đặt tác phẩm vào thời đại mà nó ra đời để thấy rõ những giá trị, ý
nghĩa và ảnh hưởng của nó trong thời đại ấy.
Thao tác so sánh, đối chiếu và phân tích được vận dụng khá nhiều nhằm giải
quyết và làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng biện pháp miêu tả để có
thể hệ thống và triển khai những nhận xét dễ dàng hơn. Thao tác chứng minh, bình
luận cũng được chúng tôi sử dụng để lí giải và đưa ra những đánh giá của mình về đề
tài nghiên cứu. Và cuối cùng là các thao tác diễn dịch quy nạp để trình bày kết quả thu
được thông qua quá trình nghiên cứu.
Các phương pháp trên được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển và phối
hợp chặt chẽ để hỗ trợ cho nhau, chứ không phải là sự tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Điều
này giúp cho luận văn được hoàn thành một cách có hệ thống và có khoa học hơn.

9


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa – xã hội vùng Nam Bộ
Nam Bộ bao gồm hai vùng đất có các đặc điểm riêng là Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ. Để có được danh xưng như ngày nay thì vùng đất Nam Bộ hoang vu ngày
xưa đã bao lần thay tên đổi họ. Vào thời nhà Tây Sơn, Nam Bộ có tên là xứ Gia Định

hay Đồng Nai (Gia Định thành). Tồn tại suốt gần hai thế kỷ (XVII – XVIII), đến năm
1834 dưới thời Minh Mạng thì Gia Định được đổi tên thành Nam Kỳ lục tỉnh. Kỳ theo
nghĩa ở đây là một cõi đất và Nam Kỳ là cõi đất phương Nam với sự phân chia của sáu
tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Đồng Nai, An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long. Còn Nam Kỳ
dưới thời Pháp thuộc được phân chia với mục đích chia rẽ đất nước ta thành ba miền,
đó là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ để dễ bề cai trị. Năm 1867, Nam Kỳ lục tỉnh
chính thức rơi vào tay giặc Pháp, đến khi Nhật đảo chính Pháp (9 – 3 – 1945) thì Nam
Kỳ đổi tên thành Nam Bộ. Nam Bộ là danh xưng do thống sứ người Nhật Nashimura
đặt để chỉ một phần đất ở phía Nam. Những tên gọi thay đổi qua nhiều chặng đường
lịch sử thể hiện số phận thăng trầm của vùng đất Nam Bộ hôm nay. Và khi nhắc về
Nam Bộ bên cạnh những thuận lợi thì cũng không quên nghĩ về lịch sử của quá trình
khai phá đầy gian truân, mất mát. Trước thế kỷ XVII, vùng đất này ngủ yên trong vẻ
hoang sơ u tịch với dân số bản địa ít ỏi và thưa thớt. Sang thế kỷ XVII, dưới thời các
chúa Nguyễn, cư dân người Việt ở miệt ngoài di cư vào đây lập nghiệp khai phá, thực
dân Pháp tiếp nối quá trình đó trong chính sách khai thác thuộc địa. Vùng đất Nam Bộ
trong suốt tiến trình lịch sử của mình luôn trải qua những biến cố liên quan đến vận
mệnh của cả dân tộc. Nói về lịch sử Nam Bộ thì không thể không nhắc đến cuộc khẩn
hoang do triều đình nhà Nguyễn huy động. Nhà Nguyễn chính thức đặt hệ thống cai trị
trên đất Gia Định vào năm 1698. Từ đó, triều đình nhà Nguyễn bắt đầu triển khai
nhiều cuộc di dân đến vùng đất mới, tiến hành khai khẩn, lập làng lập ấp, thực hiện
thâm canh lúa nước, tạo được sự thành công không bao lâu thì cuộc sống của người
dân lục tỉnh lại lâm vào vòng nô lệ khi thực dân Pháp chiếm toàn bộ đất nước. Nhà
Nguyễn trở nên bất lực khi cấu kết với Pháp, khiến người dân sống trong cảnh lầm
10


than. Nhờ ý chí quyết tâm với lòng yêu nước sâu sắc của con người, vùng đất Nam Bộ
đã thực sự giải phóng sau cuộc đại chiến mùa xuân năm 1975 thắng lợi.
Về mặt văn hóa, nhà nghiên cứu văn hoá Ngô Đức Thịnh đã chia đất nước ta
thành bảy vùng văn hoá, trong đó văn hoá Nam Bộ là vùng thứ bảy và có đặc điểm là

vùng đất mới. Việc phân vùng văn hoá được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa văn
hoá lịch sử và địa lý của một vùng và gọi tắt là vùng văn hoá. Ông viết: “Vùng văn hoá
là một vùng lãnh thổ, có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở
đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử có những tương đồng về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua các mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng văn
hoá qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành những sắc thái văn hoá chung, thể hiện
trong sinh hoạt văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, có thể phân biệt với những vùng
văn hoá khác’’ [20; tr.64]. Trong mỗi vùng như vậy lại có những tiểu vùng và có
những đặc trưng riêng lẻ. ‘‘Vùng văn hoá Nam Bộ, xét trên cả phương diện địa lý và
lịch sử, đều là vùng thứ bảy và có ba tiểu vùng Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và tiểu
vùng Sài Gòn - Gia định’’ [20; tr.17]. Điều kiện địa lý và lịch sử làm cho Nam Bộ có
những nét đáng lưu ý về mặt văn hoá. Đây là nơi cộng cư của nhiều tộc người như
Việt, Hoa, Khmer, Chăm… trong đó người Việt đóng vai trò chính. Ngay người Việt
cũng là những người dân “từ thuở mang gươm đi mở cõi” để chống chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt trên vùng đất “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lền tựa bánh canh”.
Nam Bộ là vùng đất hội nhập nhiều luồng văn hóa Đông - Tây khác nhau nên
cốt cách con người và nghệ thuật hấp thu được những sắc thái và linh khí của văn hóa
các dân tộc. Quá trình đó đã bồi đắp nên những giá trị nhân văn, hình thành những giá
trị văn hoá mang sắc thái riêng cho vùng đất này. Ngoài ra, chúng ta không thể không
nói tới ngôn ngữ - tiếng Nam Bộ. Đó là phương ngữ Nam Bộ được hình thành trong
quá trình người Việt đến khẩn hoang đồng bằng Nam Bộ. Nó thu hút vào ngôn ngữ
của những con người từ muôn nơi lưu lạc đến, nhưng đồng thời cũng sản sinh và phản
ánh thế giới tự nhiên, con người nơi vùng đất mới với bao màu sắc mới mẻ và đa dạng.
Nam Bộ là mảnh đất màu mỡ, trù phú phía Nam của Tổ quốc, hành trang tinh thần của
người Việt về phương Nam có cả truyền thống thượng võ và cả nét hào hoa của lịch sử
4000 năm văn hiến. Đây là vùng đất trẻ, văn hoá vùng đất này dù đã được hình thành
trong một thời gian dài nhưng vẫn đang ngày được định hình rõ nét hơn. Những giá trị
này trải qua quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội có tính đặc thù của
11



Nam Bộ đã dần tạo nên những giá trị mang đậm sắc thái Nam Bộ mà giới nghiên cứu
thường nói đến khi đặt trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống như tính thoáng
mở, năng động, sáng tạo, trọng nghĩa, bao dung… Nhìn từ phương diện lịch sử, có thể
thấy Nam Bộ nổi bật lên vị thế tiên phong trong nhiều lĩnh vực. Trước hết, Nam Bộ là
vùng đất đi đầu trong việc chống thực dân phương Tây xâm lược và bị đặt trong thế
tiếp xúc văn hóa, văn minh mang tính cưỡng bức một cách điển hình. Chính trong thử
thách, người dân Nam Bộ đã thể hiện hơn đâu hết truyền thống yêu nước chống ngoại
xâm – một biểu hiện cốt lõi của hệ giá trị văn hóa dân tộc. Nhưng điều đáng nói chính
là ở cách thể hiện lòng yêu nước đậm tính cách văn hóa Nam Bộ. Đấy là tinh thần
trượng nghĩa của người dân Nam Bộ, của những dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân
chiêu mộ mà Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện sâu sắc trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc.
Về mặt xã hội, có thể nói người Nam Bộ trong lịch sử là người mang gươm đi
mở cõi, trong hiện tại, cung cách làm ăn của người Nam Bộ thoáng hơn, cởi mở và
năng động. Chắc chắn họ sẽ là những người có đóng góp sáng tạo cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước. Do Nam Bộ là khu vực sinh thái và địa lý có sức hấp dẫn
mạnh mẽ bởi cảnh quan thiên nhiên của vùng sông nước nên người dân ở vùng đất này
chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Trong công cuộc khẩn hoang để khai phá đất đai và
phát triển nghề trồng lúa nước cũng như trong cuộc sống, ảnh hưởng và giao lưu giữa
các tộc người diễn ra thường xuyên. Từ công cụ sản xuất, nhà ở đến cách ăn mặc, nếp
sống, lễ nghi... đều có thể tìm thấy sự đan xen giữa các truyền thống văn hóa. Trong
quá trình đó, người Việt cũng tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khmer. Chiếc khăn rằn của
người Khmer Nam Bộ đã trở nên phổ biến và trở thành một biểu tượng quen thuộc của
người Nam Bộ. Bên cạnh đó, các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của người
dân luôn gắn bó với mọi biến động của dòng nước. Nếu ngoài Bắc người dân bám lấy
mặt đường để làm ăn buôn bán, thì ở trong Nam người dân bám lấy mặt sông, mặt
kênh mà sinh sống. Có chỗ một dãy dài vài ba cây số, người dân làm nhà chen chúc
hai bờ sông, sàn nhà mấp mé mặt nước. Nhà nào cũng hướng ra mặt sông, mở cửa là
bước xuống xuồng. Sông rạch ở đây còn đem phù sa nước ngọt bồi đắp, tưới mát cho

những miệt vườn đầy ắp trái cây, những cánh đồng lúa tươi tốt và đặc biệt có lượng
thủy sản nhiều vô kể. Con người nơi đây đã gắn chặt cuộc đời mình với sông nước, nơi
nào có sông, rạch là có ghe, xuồng. Có chiếc ghe để làm ăn sinh sống là nhu cầu và
12


ước vọng của người dân. Nhiều gia đình đời này qua đời khác lập nghiệp bằng chiếc
ghe, xem nó như ngôi nhà của mình. Nhiều ghe xuồng tụ lại tạo nên khu dân cư nổi,
chợ nổi trên sông. Người xưa đã nói thiên - địa - nhân hợp nhất, nghĩa là trời, đất, con
người luôn có mối giao kết liên quan đến nhau, vùng đất, thời tiết nào con người ở đó
có phong cách, sắc thái riêng của vùng đó. Ngày nay, Nam Bộ đang vững bước đi lên
và mang trong mình niềm tự hào về một thời vàng son của cha ông trong cuộc khai
hoang mở đất và cuộc đấu tranh giữ gìn thành quả của tổ tiên trước mọi kẻ thù xâm
lược. Tóm lại, từ bối cảnh lịch sử xã hội - văn hoá, luận văn của chúng tôi có thêm cơ
sở để làm rõ diện mạo cũng như những đặc điểm nổi bật về phương diện nội dung của
tiểu thuyết Đất rừng phương Nam mà nhà văn Đoàn Giỏi đã dày công nghiên cứu và
xây dựng.

1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi
Dựa vào tư liệu khảo sát và nghiên cứu của Đỗ Thành Nam trong Đoàn Giỏi –
nhà văn của núi cả cây ngàn thì cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi
có nhiều chuyển biến sâu sắc và trải qua nhiều biến động. Đoàn Giỏi tên thật là Đoàn
Văn Giỏi sinh ngày 17/5/1925 tại xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Ông còn có các bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Cụ thân
sinh ra ông là một điền chủ yêu nước, từng có hàng trăm héc ta ruộng màu mỡ ven
sông Tiền. Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cụ đã hiến tất cả tài sản ấy cho
chính quyền mới, trong đó có chỗ hiện là trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành.
Thuở nhỏ, Đoàn Giỏi học ở trường trung học Mỹ Tho, sau theo học trường cao đẳng
mỹ thuật Gia Định. Tư chất nhà văn trong ông bộc lộ sớm. Ngay từ năm 1943, ông đã
chuyển từ cây cọ, bảng màu sang trang giấy, cây bút. Truyện ngắn đầu tay của Đoàn

Giỏi được Hồ Biểu Chánh chọn đăng trên tờ Nam Kỳ tuần báo. Từ đó, hễ viết được
truyện nào, cây bút trẻ đều đưa Hồ Biểu Chánh xem trước. Trong thâm tâm, Đoàn Giỏi
luôn xem Hồ Biểu Chánh là người thầy văn chương đầu tiên của mình [24].
Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Đoàn Giỏi đã có lối rẽ bất ngờ,
ông vào công tác trong lực lượng công an. Có thời kỳ, ông là Trưởng công an huyện
Châu Thành. Về những kỷ niệm liên quan đến giai đoạn này, bạn bè Đoàn Giỏi còn
nhớ mãi một chuyện: “Có lần, ông đã lên lớp một người khách (bị anh em du kích tình
nghi giữ lại) là chỉ có theo thực dân đế quốc mới ăn mặc như vậy vì thấy người khách
này ăn vận quá sang trọng. Đâu hay đó chính là luật sư Nguyễn Hữu Thọ đang cải
13


trang để ra vùng kháng chiến theo lời mời của Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ. Sự năng
nổ, nhiệt tình trong công việc đã khiến ông có lúc thất thố như vậy. Điều rất lấy làm
vui là sau này, khi nhà văn Đoàn Giỏi chuyển ra công tác ở Hà Nội, luật sư Nguyễn
Hữu Thọ (bấy giờ là Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) đã chủ động
mời ông tới chơi, ân cần hỏi thăm đời sống, công việc”. Nhà văn Anh Đức vẫn còn
nhớ như in ngày ông là một cậu bé 14 tuổi, được gặp chàng thanh niên Đoàn Giỏi hơn
ông chục tuổi: “Tôi từ một trường trung học kháng chiến ra, về công tác tại Ty Thông
tin tỉnh Rạch Giá, vừa lúc anh Đoàn Giỏi từ Mỹ Tho về lãnh chức phó trưởng Ty
Thông tin ấy. Ngay từ hồi trẻ anh đã có vóc dáng đậm đạp, cái ống píp luôn phì phèo
trên miệng”. Về ngoại hình của Đoàn Giỏi, qua lăng kính của nhà văn Anh Đức thì có
vẻ tay chơi, song qua trí nhớ của nhà văn Hoàng Tấn thì lại hóa rất hiền lành, thư sinh.
Âu cũng là sự phong phú, đa dạng của một nhà văn. Hoàng Tấn kể:“Ít hôm sau, chúng
tôi được may mắn tham gia buổi lễ phong quân hàm cho Trung tướng Nguyễn Bình,
được cử hành trọng thể giữa chiến khu Đồng Tháp Mười do các đồng chí lãnh đạo
Khu và Trung ương Cục chủ trì. Sau những bài hát, bản nhạc có xen kẽ tiết mục ngâm
thơ và độc tấu là vở kịch thơ Áo đêm trăng - cái đinh của đêm văn nghệ. Đây là một
sáng tác mới, còn chưa ráo mực của Nguyễn Bính. Ngoài các nhân vật phụ, hai nhân
vật chính là cô nữ cứu thương và người yêu của cô là anh bộ đội. Chiếc áo cô may

tặng anh cho bớt lạnh khi xông pha trận mạc, là nội dung chính của vở kịch. Nguyễn
Bính - tác giả thủ vai chính, còn nhà văn Đoàn Giỏi thì giả gái, đóng vai người nữ cứu
thương. Dạo ấy tác giả của Đất rừng phương Nam đang ở tuổi đôi mươi, đẹp trai nên
khi giả gái trên sân khấu ai cũng nhầm là phụ nữ thiệt, chỉ đến lúc Đoàn Giỏi cất tiếng
ngâm bài Tống biệt thì thiên hạ mới vỡ ra”[24].
Năm 1951, Đoàn Giỏi về công tác tại Hội Văn nghệ Nam Bộ và là thành viên
của Hội đồng biên tập tạp chí Lá Lúa. Công việc mới đã khơi lại mạch nguồn sáng tác
nơi ông, khiến ông cầm bút trở lại. Năm 1954, Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc. Những ngày
hòa bình lập lại, Đoàn Giỏi đã gây ấn tượng mạnh với độc giả đất Hà thành qua bài ký
Đèn tôi bay về lục Hồ Chí Minh với một phong cách mới lạ. Tiếp đó là sự ra đời của
hàng loạt tác phẩm thú vị về mảnh đất phương Nam nắng gió. Nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng, sau khi đọc một số truyện ngắn, bút ký của Đoàn Giỏi, đã phải thốt lên: “Thấy
có vảy, có cựa, có mã rồi đấy”[24].

14


Đến năm 1955, Đoàn Giỏi chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, ông công
tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là Ủy viên Ban chấp
hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Đoàn Giỏi hút hồn người đọc bởi những
trang văn đặc sắc, ngồn ngộn chất liệu, hơi thở của một vùng sông nước hiện còn bị
chia cắt, không mấy người tiếp cận được. Ông lại là người con của vùng đất Nam Bộ
giàu có ấy nên khi viết về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, chúng ta bắt gặp trên trang
văn của ông luôn phập phồng cảm xúc và thực sự có sức nặng. Chẳng thế mà đọc
truyện ngắn Cây đước Năm Căn của Đoàn Giỏi, nhà thơ Xuân Diệu, người mặc dù
chưa đặt chân tới Năm Căn bao giờ đã xúc cảm viết nên bài thơ Bà má Năm Căn rất
cảm động. Đoàn Giỏi sáng tác rất nhiều thể loại từ truyện ngắn, truyện vừa, truyện ký
đến thơ, kịch thơ. Trong đó có các tác phẩm nổi tiếng như Cá bống mú (1956), Đất
rừng phương Nam (1957), Hoa hướng dương (1960), Ngọn tầm vông (1956), Trần
Văn Ơn (1955), Khí hùng đất nước (1948), Những dòng chữ máu Nam Kỳ (1975),

Người Nam thà chết không hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười (1949), Giữ vững niềm
tin (1954)…
Những ngày cuối đời, sức khoẻ của nhà văn Đoàn Giỏi có những diễn biến bất
thường. Bởi vậy, đi đâu ông cũng mang theo bên mình đề cương cuốn tiểu thuyết Núi
cả cây ngàn kể về cuộc đời một cô gái bị bỏ rơi trong rừng sâu và nhân đó, phản ánh
lại cuộc chiến đấu của người dân Nam Bộ chống thực dân Pháp những ngày đầu chúng
đặt chân lên đất nước ta. Cuốn sách hứa hẹn là một Đất rừng phương Nam thứ hai.
Tiếc thay, do chứng bệnh gan hành hạ nên Đoàn Giỏi đành để tác phẩm rơi vào tình
trạng mãi mãi chỉ là đề cương phác thảo. Nhà văn Đoàn Giỏi trút hơi thở cuối cùng
vào ngày 2/4/1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 7/4/2000, Ủy ban nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định đặt tên Đoàn Giỏi cho một con phố thuộc quận Tân
Phú. Tại Tiền Giang quê hương nhà văn, hiện cũng có một ngôi trường trung học
mang tên Đoàn Giỏi [24].

1.3. Tác phẩm Đất rừng phương Nam
Đất rừng phương Nam là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của
nhà văn Đoàn Giỏi. Cuốn sách có lối hành văn theo kiểu chương hồi, dễ đọc, dễ hiểu,
đề cập tới cuộc sống của nhiều tầng lớp người hoạt động suốt hai triền sông Tiền và
sông Hậu, vào đến rừng U Minh, xuống tận mũi Cà Mau, với rừng tràm bạt ngàn, dòng
sông dạt dào tôm cá. Mượn câu chuyện về một cậu bé bị lưu lạc trong kháng chiến
15


chống Pháp, Đoàn Giỏi đã tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của một thời còn
nhiều sơ khai. Có thể nói, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi như một xã hội của
miền sông nước Tây Nam Bộ thu nhỏ. Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam sau này đã
được Hãng phim Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh chuyển thể thành phim do tác
giả Nguyễn Vinh Sơn viết kịch bản và làm đạo diễn. Bộ phim sau đó đã được xuất
khẩu sang Mỹ và được đông đảo khán giả Mỹ đón nhận. Trước đấy nhiều năm, tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam đã được dịch sang các thứ tiếng như Nga, Ba Lan, Trung

Quốc, Đức, Tây Ban Nha... và được độc giả các nước này nồng nhiệt đón nhận. Đoàn
Giỏi trở thành một trong những “đại sứ văn học” xuất sắc của Việt Nam ở nước ngoài
[24].
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng
yêu đối với độc giả xa gần. Những trang văn của ông thấm đượm hơi thở của sông
nước, rừng cây, những câu chuyện kỳ bí của thiên nhiên Nam Bộ hoang sơ và truyền
được hơi thở ấy cho độc giả. Có được điều đó không những là nhờ tình yêu của ông
đối với miền đất Nam Bộ quê hương mà còn ở óc quan sát tỉ mỉ, tinh tế, lối văn kể
chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của mình.

1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi là tác phẩm được đông đảo độc
giả biết đến. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Và xung
quanh sự ra đời của tác phẩm cũng có nhiều điều thú vị. Theo nghiên cứu của Lê Hồng
Thiện thì năm 1957, khi đất nước ta bị chia cắt hai miền Nam Bắc, ban biên tập nhà
xuất bản Kim Đồng muốn có một tác phẩm giới thiệu về phong cảnh đất nước, con
người miền Nam tươi đẹp, trù phú, giúp bạn đọc thêm hiểu và yêu miền Nam. Biết nhà
văn Đoàn Giỏi hiểu rõ vùng đất này nên ban giám đốc nhà xuất bản Kim Đồng cử nhà
văn Trần Thanh Địch đến gặp nhà văn Đoàn Giỏi ở Hà Nội để “đặt hàng”. Nói đến quê
hương miền Nam, nhà văn Đoàn Giỏi vui vẻ nhận lời ngay và hứa sẽ hoàn thành tác
phẩm sau một tháng.
Đến hẹn lại lên, khi thấy nhà văn Trần Thanh Địch đến tìm, nhà văn Đoàn Giỏi
mới giật mình và nhớ ra ông chưa viết được chữ nào. Nhà văn đành xin lỗi và xin nhà
xuất bản cho thêm ít ngày. Tiễn bạn xong, nhà văn liền đóng cửa phòng và viết một
mạch. Đoàn Giỏi xây dựng xong bố cục và nhân vật cuốn sách mất một buổi sáng rồi
sau đó mải miết viết thâu ngày thâu đêm, có lúc vừa ăn bánh mì vừa viết, có lúc mệt
16


quá ngủ thiếp đi, đầu gục xuống bản thảo. Đúng hẹn, Trần Thanh Địch đến gõ cửa.

Sau tiếng “mời vào”, Đoàn Giỏi lia nốt những dòng cuối cùng của tập truyện và lăn
đùng ra giữa nhà, hai mắt giật giật vì quá kiệt sức. Nhà văn Trần Thanh Địch cuống
quýt vơ đống bản thảo trên bàn nhét vội vào túi rồi ra gọi xích lô chở Đoàn Giỏi đến
bệnh viện. Vào viện nằm đôi tuần, khi ông ra viện cũng là lúc Đất rừng phương Nam
ra lò. Tác phẩm đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Có lẽ, lúc viết tác phẩm này
hình ảnh quê hương đã ngấm vào máu, vào từng câu chữ của ông, cho nên dù viết vội
mà truyện vẫn hay. Và tiểu thuyết đã ra đời trong hoàn cảnh lạ lùng như thế, để đến
ngày nay bạn đọc có cơ hội thưởng thức một áng văn lẫy lừng thâu tóm cả một vùng
đất phương Nam [26].

1.3.2. Tóm tắt tác phẩm
Đất rừng phương Nam đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con
người, tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ. Nội dung câu chuyện cũng vậy,
Đoàn Giỏi chỉ xoay quanh ở vùng đất Nam Bộ. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Mẫn Chi
thì: “Ông mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
ở Nam Bộ để giới thiệu Đất rừng Phương Nam. Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có,
hào phóng và hùng vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo
kháng chiến. Tác phẩm gần như tập hợp tất cả thiên nhiên và con người trong một
thời gian và không gian nhất định của phương Nam [23].
Truyện kể về một cậu bé tên An sống cùng với cha mẹ ở thành phố trong những
ngày thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, đổ quân vào Nam Bộ. Pháp mở
những cuộc càn quét khiến cho những người dân sống tại các thành thị phải di tản. An
cùng ba mẹ chạy giặc. Cậu theo cha mẹ chạy hết từ vùng ngày tới vùng khác của miền
Tây Nam Bộ. An kết bạn cùng với những đứa trẻ cùng trang lứa và có một cuộc sống
tuổi thơ vùng nông thôn đầy êm đềm. Nhưng cứ vừa ổn định được vài ngày thì giặc
đánh tới nơi và lại phải chạy. Trong một lần mải chơi, giặc đánh đến và An đã lạc mất
gia đình. Cậu trở thành đứa trẻ lang thang. Tuy nhiên, cậu may mắn gặp được những
người tốt bụng cưu mang mình. Đó là dì Tư béo, chủ quán nhậu, bà ta nhận cậu về để
phụ giúp cho quán. Thế là từ đó cậu có nơi nương tựa, không còn phải chịu cảnh lang
thang đói khổ. Tại quán dì Tư béo, An có cơ hội tiếp xúc với nhiều người như anh Sáu

tuyên truyền, những anh bộ đội, những kẻ Việt gian bán nước như vợ chồng Tư Mắm,
những người nông dân chân chất như lão Ba Ngù. Kể về vợ chồng Tư Mắm, họ là gián
17


điệp nhưng giả danh thành tiểu thương bán mắm dọc các con kênh rạch. Vợ Tư Mắm
là một người đàn bà rất xinh đẹp, bà ta muốn mua chuộc An làm tay sai. Một lần bị
phát hiện thân phận, họ đốt quán dì Tư Béo rồi chạy trốn. Dì Tư chống xuồng về miệt
Thới Bình làm ăn cho yên ổn, An không đi theo mà tiếp tục phiêu bạt cuộc sống không
nhà. Sau đó, cậu gặp lại ông lão bắt rắn và trở thành con nuôi của ông. Tuy sống với
một gia đình mới nhưng cậu bé An cảm nhận được tình thương bao la, dạt dào. Ba mẹ
nuôi của An xem An như con ruột, dạy bảo cậu và chăm sóc cho cậu tận tình. Cậu có
thêm một anh em tốt là thằng Cò, nhờ nó mà cậu biết cách câu rắn, biết cách săn chim,
biết cách đi rừng không bị lạc. Bên cạnh đó, An còn biết đến chú Võ Tòng, một người
có vẻ bề ngoài hung hãn, mặt và ngực đầy những vết sẹo, tóc tai bù xù nhưng có tấm
lòng rất tốt, chú là anh hùng giết rất nhiều hổ dữ, nhưng trong một lần đối đầu với
giặc, chú đã anh dũng hy sinh. Càng ngày thực dân Pháp càng lộng hành, chúng tiến
hành nhiều cuộc càn quét không cho người dân sống yên ổn. An cùng gia đình cha mẹ
nuôi lên xuồng chạy giặc. Cả gia đình đi về hướng U Minh Hạ và xây một ngôi nhà
nhỏ để trú nắng che mưa. Chính sự rong ruổi này, những tạo hóa của thiên nhiên đã
mở ra cho cậu bé An biết bao nhiêu điều kì diệu, cậu bé được khám phá rất nhiều điều
bổ ích và có những bài học phiêu lưu đầu đời hết sức thú vị. Sau đó, An tham gia làm
chiến sĩ du kích, cậu cùng với các chiến sĩ khác lên đường giết giặc để bảo vệ tổ quốc.
Câu chuyện về cuộc đời cậu bé An khép lại trong hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phất
phới, báo hiệu một niềm tin thắng lợi ở tương lai.

1.3.3. Nhận xét về tác phẩm
“Đất rừng Phương Nam là một tiểu thuyết có kết cấu chương hồi theo kiểu
truyền thống, không gian, thời gian rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen rõ ràng và
bộc lộ qua hành động hình dáng, ngôn ngữ. Tiểu thuyết phiêu lưu có hoàn cảnh luôn

thay đổi, nhân vật luôn đứng trước những bí ẩn, khó khăn, thử thách. Năm 1961, tiểu
thuyết phiêu lưu của Đoàn Giỏi đã được vô số độc giả hoan nghênh” [27].
Đoàn Giỏi như một nhà sinh thái học, phong tục học uyên bác. Không chỉ ngạc
nhiên mà còn thấm đẫm cảm xúc, bởi Đoàn Giỏi là một nhà thơ, một “thi sĩ của Đất
rừng phương Nam” (ý của Trần Đình Nam). Cùng với thiên nhiên được Đoàn Giỏi vẽ
với những màu sắc lộng lẫy, cuồn cuộn tràn trề sức sống là những con người Nam Bộ
với những nét sắc sảo lạ lùng. Ông không nhiều lời, đôi khi chỉ vài ba nét nhưng thể
hiện vô cùng chân thực bản lĩnh và tính cách của con người nơi đây. Nhân vật trong
18


tập truyện được xây dựng trên những kinh nghiệm hiểu biết, cảm nhận sâu sắc của tác
giả về con người Nam Bộ. Họ phần lớn là những người sống ngay thẳng, có nghĩa có
tình, có sự tự tôn dân tộc. Đặc biệt họ có tài năng, phẩm chất riêng mà nhìn bề ngoài
không thể đánh giá được. Từ đó tác giả cho ta thấy, những nhân vật trong tác phẩm tạo
được nét chân thật, cụ thể, gần gũi mà còn phác họa được bức tranh chung về diện
mạo cuộc sống và con người Nam Bộ mà người đọc ít nhiều chưa biết hết.
Khi bản thân chúng ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương, hằng ngày
tiếp xúc ta không nghĩ đến nhưng khi đọc tác phẩm, ta nhận ra Đoàn Giỏi đã viết, đã
nói, đã khái quát lên rất sinh động và gần như chính xác nét hành động, tính cách, tâm
lý của con người của vùng miền đất cuối cùng của Tổ quốc. Đọc tác phẩm, ta nhận ra
con người Nam Bộ không chỉ trong văn chương mà nó rất thật ngoài đời. Đó là những
con người mộc mạc, bộc trực, chân thành, hào hiệp, trọng nhân nghĩa, điệu nghệ, chất
phác. Ta còn như nhận ra ở đó có dáng dấp cha ông mình, bản thân mình trong những
tính cách, suy nghĩ của các nhân vật. Đoàn Giỏi đã xây dựng nên những tính cách con
người Nam Bộ rất điển hình. Bắt gặp những suy nghĩ, hành động của họ ta liền nhận ra
ngay đó là con người miền Nam chứ không thể lẫn vào đâu được. Con người Nam Bộ
hiện lên trong tác phẩm của Đoàn Giỏi là những người siêng năng, chất phác, hiền
lành. Họ khai phá vùng đất mới bằng sức lao động dẽo dai, bền bĩ và lòng quyết tâm
cao độ. Không chỉ thế họ rất dũng cảm đối mặt với những khó khăn và cũng rất thẳng

thắng, chung thủy, tình nghĩa không đổi, hay có sự hồn nhiên ngây thơ của thằng Cò
và cậu bé An. Đặc biệt điều mà tất cả chúng ta dễ nhận thấy đặc trưng cơ bản của con
người Nam Bộ lúc bấy giờ là tình yêu quê hương đất nước. Ở đó không phải là những
biểu hiện cụ thể lớn lao, sôi nổi mà ẩn sau lời nói, lời tâm sự, lời hát và qua hành động
của những con người nông dân miệt vườn mới thấy một khí khái, một tình yêu nước
sâu kín, lòng căm thù giặc sâu sắc. Con người Nam Bộ biểu hiện tình yêu quê hương
đất nước của mình từ công cuộc khai phá mở đất, biết sống hòa nhập với thiên nhiên
và biết yêu quý làng xóm, nơi cư ngụ và cao hơn biết yêu ghét, căm thù những gì trái
với đạo lý con người. Họ không chỉ căm ghét những hành động bán nước mà còn căm
ghét cả những tên Việt gian làm tay sai nối giáo cho giặc. Đồng thời họ cũng trân
trọng yêu thương những con người tài trí, tốt đẹp và hào hiệp với những con người biết
cảm thông với hoạn nạn của người khác, không vì bản thân mình.

19


Tác phẩm đã ít nhiều đem đến cho người đọc cái phong vị lối sống, sinh hoạt
rất đặc trưng của con người Nam Bộ. Một cuộc sống rất phóng khoáng, tự do. Những
con người cởi mở, lạc quan. Dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thiếu thốn, khó
khăn nhưng họ không nao núng, không sờn lòng. Ngoài ra những hoạt động văn hóa,
những hình thức sinh hoạt tinh thần hiện lên rất chân thật, đa dạng, ít nhiều phác họa
lại một thời mà đời sống của con người dù còn lắm khốn khó vất vả nhưng lối sống tự
do tự tại, tính tự lập và chiến đấu giúp họ vượt qua khó khăn và biết làm giàu tâm hồn
mình bằng những hình thức sinh hoạt độc đáo.

1.4. Một số tiền đề lý luận
1.4.1. Giới thuyết về tiểu thuyết
Theo nghiên cứu của Lại Nguyên Ân, tiểu thuyết là trình bày đời sống cá nhân
và đời sống xã hội như những tố chất có tính độc lập tương đối, không làm cạn kiệt
được nhau, không ngốn nuốt được nhau; đây là đặc điểm nội dung quyết định thể loại

tiểu thuyết. Mặc dù chịu sự quy định trước hết của tính độc lập ấy, câu chuyện số phận
của một cá nhân vẫn có ý nghĩa khái quát chung, ý nghĩa bản thể. Đồng thời sự giao
tiếp của nhân vật giao tiếp với những lý tưởng, những mục tiêu của tập thể (xã hội, dân
tộc, quốc gia) thường là điểm kết thúc, điểm đỉnh (cao trào) trong sự phát triển cái ý
thức về bản thân (tự ý thức) của nhân vật; nhưng mọi ý đồ diễn tả các kết quả của điểm
đỉnh ấy (triển khai thành hành động trong cốt truyện) đều đưa đến chỗ làm biến dạng
cả bản chất nội dung lẫn cấu trúc thể loại của tiểu thuyết. Trong một cách hiểu khác,
nhận định của Belinski: “tiểu thuyết là sử thi của đời tư” chỉ ra khái quát nhất về một
dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong
quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong
không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Sự
kiến giải về tính cách trong tiểu thuyết biểu hiện ở chỗ, trong tiểu thuyết: “con người
không hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã hội lịch sử thực tồn”. Theo M.M.
Bakhtin, một trong những đề tài nội tại căn bản của tiểu thuyết chính là đề tài về việc
nhân vật không tương hợp với số phận và vị thế của nó. Con người hoặc là cao lớn hơn
số phận mình hoặc là nhỏ bé hơn tính người của mình. Với mọi khác biệt của tiểu
thuyết về đề tài, về dung lượng, về mức độ kịch tính, về các nguyên tắc kết cấu cốt
truyện, về các phương thức trần thuật có thể thấy một số điểm nhấn về phong cách.
Một trong những điểm nhấn dễ thấy nhất là đem tính nội dung trực tiếp của tiểu thuyết
20


thấm đẫm mọi thành tố cốt truyện, khi đó tình tiết rắc rối sẽ trở thành phương tiện
phản ánh xung đột giữ cá nhân và xã hội, sẽ thúc đẩy hành động của nhân vật, sẽ tăng
cường vai trò cấu tạo cốt truyện của nó.
Là một thể loại cao cấp nhất thuộc phương thức tự sự, tính chất văn xuôi, vì
vậy, trở thành đặc trưng tiêu biểu cho nội dung của thể loại. Tính chất đó đã tạo nên
trường lực mạnh mẽ để thể loại dung chứa toàn vẹn hiện thực, đồng hóa và tái hiện
chúng trong một thể thống nhất với những sắc màu thẩm mỹ mới vượt lên trên hiện
thực, cho phép tác phẩm phơi bày đến tận cùng sự phức tạp muôn màu của hiện thực

đời sống. Giống như các hình thái tự sự khác như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết
lấy nghệ thuật kể chuyện làm giọng điệu chính của tác phẩm. Thông thường ở tác
phẩm xuất hiện người kể chuyện như một nhân vật trung gian có nhiệm vụ miêu tả và
kể lại đầu đuôi diễn biến của chuyện. Tuy sự tồn tại của yếu tố này là ước lệ nghệ
thuật của nhiều thể loại thuộc tự sự, nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết vẫn cho thấy
sự đa dạng đặc biệt về phong cách: có thể thông qua nhân vật trung gian, có thể là
nhân vật xưng “tôi”, cũng có thể là một nhân vật khác trong tác phẩm, tạo nên các tác
phẩm có một điểm nhìn trần thuật. Hiện nay, một trong những xu hướng tìm tòi đổi
mới tiểu thuyết là việc tăng thêm các điểm nhìn ở tác phẩm, khi vai trò của nhân vật
trung gian hoặc nhân vật xưng “tôi” được “san sẻ” cho nhiều nhân vật trong cùng một
tác phẩm.
Đặc trưng lớn nhất của tiểu thuyết chính là khả năng phản ánh toàn vẹn và sinh
động đời sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất với hiện thực. Là một thể loại lớn tiêu
biểu cho phương thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của
không gian cũng như chiều dài của thời gian, cho phép nhà văn mở rộng tối đa tầm
vóc của hiện thực trong tác phẩm của mình. Ở phương diện khác, tiểu thuyết là thể loại
có cấu trúc linh hoạt, không chỉ cho phép mở rộng về thời gian, không gian, nhân vật,
sự kiện mà còn ở khả năng dồn nhân vật và sự kiện vào một khoảng không gian và
thời gian hẹp, đi sâu khai thác cảnh ngộ riêng và khám phá chiều sâu số phận cá nhân
nhân vật. Các thể loại văn học khác thường chỉ tiếp nhận một sắc thái thẩm mỹ nào đó
để tạo nên âm hưởng của toàn bộ tác phẩm, như bi kịch là cái cao cả, hài kịch là cái
thấp hèn, thơ là cái đẹp và cái lý tưởng. Ở tiểu thuyết không diễn ra quá trình chọn lựa
màu sắc thẩm mỹ khi tiếp nhận hiện thực mà nội dung của nó thể hiện sự pha trộn,

21


chuyển hóa lẫn nhau của các sắc độ thẩm mỹ khác nhau: cái cao cả bên cái thấp hèn,
cái đẹp bên cái xấu, cái thiện lẫn cái ác, cái bi bên cạnh cái hài.
Ở phương diện cuối cùng, tiểu thuyết là một thể loại mang bản chất tổng hợp.

Nó có thể dung nạp thông qua ngôn từ nghệ thuật những phong cách nghệ thuật của
các thể loại văn học khác như thơ (những rung động tinh tế), kịch (xung đột xã
hội), ký (hiện thực đời sống); các thủ pháp nghệ thuật của những loại hình ngoại biên
như hội họa (màu sắc), âm nhạc (thanh âm), điêu khắc (sự cân xứng, chi tiết), điện
ảnh (khả năng liên kết các bức màn hiện thực); và thậm chí cả các bộ môn khoa học
khác như tâm lý học, phân tâm học, đạo đức học và các bộ môn khoa học tự nhiên,
khoa học viễn tưởng khác... Nhiều thiên tài nghệ thuật đã định hình phong cách từ khả
năng tổng hợp này của thể loại, như Tolstoi với tiểu thuyết - sử thi, Dostoevski với thể
loại tiểu thuyết - kịch, Solokhov với tiểu thuyết anh hùng ca - trữ tình, Roman Roland
với tiểu thuyết - giao hưởng.

1.4.2. Giới thuyết về nội dung
Theo nghiên cứu của Trần Đình Sử, nội dung là hiện thực cuộc sống được phản
ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống gồm
nhiều yếu tố khách quan và cảm quan xuyên thấu vào nhau. Trước hết, tác phẩm văn
học cung cấp cho người đọc những biểu hiện phong phú và độc đáo của cuộc sống mà
tính loại hình của chúng tạo thành đề tài tác phẩm. Vấn đề quan trọng nhất nổi lên từ
đề tài, buộc tác giả phải bày tỏ thái độ, có ý kiến đánh giá là chủ đề. Ý kiến của tác giả
trước vấn đề được nêu ra trong tác phẩm là tư tưởng. Thái độ đánh giá nhiệt tình bảo
vệ tư tưởng tạo nên cảm hứng chủ đạo hay cảm hứng tư tưởng. Quan niệm về tác giả
và con người được dùng làm hệ quy chiếu để tác giả xác định đề tài, chủ đề, lý giải tư
tưởng của tác phẩm có cội nguồn sâu xa trong thế giới khách quan. Cuối cùng, tương
quan giữa sự biểu hiện của đời sống và sự cảm thụ chủ quan tạo nên nội dung thẩm mỹ
của hình tượng. Nội dung tác phẩm là kết quả khám phá, phát hiện khái quát của nhà
văn, nếu sơ lược nội dung này vào các phạm trù xã hội học sẽ làm nghèo nàn nội dung
tác phẩm.
Nội dung tác phẩm chỉ tồn tại bằng hình thức và qua hình thức tác phẩm. Đó là
cấu tạo gồm nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm.
Văn bản ngôn từ là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm có hai chức năng là vẽ ra
bức tranh đời sống và biểu hiện thái độ, cái nhìn của chủ thể lời nói bằng phương tiện

22


×