Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong ngàn cánh hạc của y.kawabata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 87 trang )

ƯỜ
NG ĐẠ
Ơ
TR
TRƯỜ
ƯỜNG
ĐẠII HỌC CÂN TH
THƠ
ÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH
NHÂ

Ữ VĂN
BỘ MÔN NG
NGỮ

SV : Tr
Trầần Bảo Ti
Tiêên
MSSV:6106435

ĐẶ
C SẮC NỘI DUNG VÀ NGH
Ệ THU
ẬT
ĐẶC
NGHỆ
THUẬ
ÀN CÁNH HẠC
TRONG NG
NGÀ


CỦA Y.KAWABATA

ng dẫn : Th.s Tr
m
Gi
Giảảng vi
viêên hướ
ướng
Trầần Vũ Th
Thịị Giang La
Lam

2013

0


NG TỔNG QU
ÁT
ĐỀ CƯƠ
ƯƠNG
QUÁ
PH
ẦN MỞ ĐẦ
U
PHẦ
ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu

4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ
ƯƠ
NG 1 :NH
ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
:NHỮ
1.1 Giới thiệu về thể loại tiểu thuyết trong văn học Nhật Bản
1.2 Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Y.kawabata
1.2.1 Đường đời của “người lữ khách u sầu” Y.Kawabata
1.2.2 Văn nghiệp
1.3 Vài nét về tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của Kawabata
1.3.1 Xuất xứ
1.3.2 Tóm tắt nội dung tiểu thuyết
ƯƠ
NG 2: ĐẶ
C SẮC VỀ NỘI DUNG CỦA TI
ỂU THUY
ẾT “NG
ÀN CÁNH
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ĐẶC
TIỂ

THUYẾ
NGÀ
HẠC”
2.1 Các hình ảnh biểu tượng truyền tải ý nghĩa thẩm mĩ
2.1.1 Hình ảnh chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc và ý nghĩa nhan đề tác phẩm
2.1.2 Hình ảnh chiếc chén Shino và chiếc bình Shino
2.1.3 Hình ảnh cặp chén Raku, chiếc chén Oribe và Kasatsu
2.1.4 Hình ảnh cái bớt của trà sư Chikako
2.2 Bi kịch tình yêu trong tác phẩm Ngàn cánh hạc
2.3 Tình yêu – phương diện khám phá tận cùng chiều sâu cái đẹp
2.4 Văn hóa Nhật Bản biểu hiện trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc
2.4.1 Biểu hiện của trà đạo trong tác phẩm
2.4.2 Sự tàn lụi của nghệ thuật trà đạo
2.4.3 Sự tiếc nuối và lòng trân trọng trà đạo
2.5 Thông điệp về cái đẹp gửi gắm trong tình yêu và trà đạo
2.6 Tâm hồn Nhật Bản qua tiểu thuyết Ngàn cánh hạc
ƯƠ
NG 3 : ĐẶ
C SẮC VỀ NGH
Ệ THU
ẬT CỦA TI
ỂU THUY
ẾT “ NG
ÀN
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ĐẶC
NGHỆ
THUẬ

TIỂ
THUYẾ
NGÀ
CÁNH HẠC”
3.1 Nghệ thuật tương phản và phép lặp

1


3.1.1 Nghệ thuật tương phản
3.1.2 Phép lặp
3.2 Nghệ thuật tạo dựng đối thoại và độc thoại nội tâm đặc sắc
3.2.1 Nghệ thuật độc thoại nội tâm
3.2.2 Nghệ thuật đối thoại
3.4 Không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm
3.4.1 Không gian nghệ thuật trong tác phẩm
3.4.2 Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm
3.5.Thi pháp chân không và nghệ thuật chiếc gương soi
ẦN KẾT LU
ẬN
PH
PHẦ
LUẬ

2


ẦN MỞ ĐẦU
PH
PHẦ


3


1. Lý do ch
chọọn đề tài
Nhật Bản là một trong những cường quốc phát triển hàng đầu thế giới mà nhân
tố chính làm gốc rễ trung tâm của sự phát triển ấy là con người. Nhật Bản trải qua hai
cuộc thế chiến và biết bao gian truân, động đất, thiên tai, vì chính nhân tố con người
cần cù, chịu khó, không ngừng sáng tạo đã dựng xây nên một Nhật Bản với những
thành tựu rực rỡ như ngày nay nhưng truyền thống dân tộc vẫn được bảo tồn và phát
triển, là một cây đại thụ văn hóa trụ vững giữa những làn sóng du nhập hướng ngoại.
Giữa nền văn hóa màu mỡ, dồi dào ấy đã vun đắp lên những bậc thầy trong làng văn
học thế giới và đỉnh cao là những nhà văn được trao giải Nobel về văn học Y.Kawabata
(1968) và tiếp nối là Oe Kenzaburo (1994).Trong thời đại đất nước Việt Nam đang thúc
đẩy ngoại giao,“ mở cửa” giao lưu với văn hóa nước ngoài – trong đó có nền văn học
Nhật Bản phương đông vừa thân quen nhưng lại rất mới mẻ.chứa đựng nhiều thử thách
cho việc tiếp thu và khám phá, điều đó là động lực thúc đẩy chúng tôi tìm đến “miền
đất hứa” này.
Nói đến văn hóa Nhật Bản người ta không thể không nghĩ đến truyền thống nghi
thức trà đạo- một sự kết hợp hoàn mĩ giữa Thiền đạo, Phật giáo và thú thưởng trà tao
nhã xuất xứ từ Trung Quốc. Và trà đạo Nhật Bản đã được Y.kawabata tinh tế đưa vào
tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo truyền tải cảm xúc
trân quý truyền thống của dân tộc nhằm gửi gắm về nỗi lòng của bản thân trước nền văn
hóa Nhật đang ngày một đổi thay.Tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc chứng tỏ được trình độ bậc
thầy của Y.Kawabata bên cạnh Xứ tuy
tuyếết, Cố đô khi được vinh danh trước toàn thế giới
- đoạt giải Nobel văn học mang đến niềm tự hào vô hạn cho nền văn học xứ hoa anh

đào. Nghiên cứu về văn chương Kawabata, người ta nhận thấy được hấp lực mạnh mẽ
từ tinh hoa văn hóa dân tộc xứ Phù Tang trong từng ý văn của ông. Nhà triết học Mỹ
học Niestzshe từng phát biểu rằng sáng tác của Y.Kawabata là “một cây đại thụ, khi
càng vươn lên cao, cành lá càng đâm trổ vào bầu trời thì gốc rễ của nó càng đâm sâu
vào lòng đất- mạch ngầm sâu của văn hóa dân tộc” [11;tr.4]. Quả thật như thế,văn
chương của Kawabata thoạt nhìn như một viên ngọc thô khó nắm bắt và thưởng thức
nhưng càng nhìn càng bắt sáng và ngày một rực rỡ trên bầu trời văn đàn thế giới. Sự
tiếp nối và ngợi ca cái đẹp là bài ca muôn thuở của nhân loại và Y.Kawabata đã đóng
góp vào bài ca ấy những câu hát mang dấu ấn của riêng ông, như dòng chảy bất tận về
cái đẹp mà chúng ta cần lưu giữ, khám phá và phát huy nó.
Một tác phẩm đặc sắc như Ng
Ngààn cánh hạc được bạn đọc Việt biết đến trong
khoảng thời gian khá sớm nhưng không phổ biến rộng rãi (xuất bản lần đầu 1969, Vũ
Như Thanh dịch).Tác phẩm hạn chế phổ biển trong thế giới bạn đọc bởi nó hàm chưa
nhiều tầng nghĩa và mức độ tiềm ẩn của nó được ví như phần chìm của tảng băng trôi –
4


tương đồng với phương thức truyền đạt của đại văn hào Hemingway phương Tây, và
hơn hết, Ng
Ngààn cánh hạc không đơn thuần biểu đạt theo tuýp “ ý tại ngôn ngoại” hay
gợi mở mà mang tính chất thâm thúy, huyễn hoặc của phương Đông nói chung, Nhật
Bản nói riêng. Bởi lẽ tác phẩm ẩn chứa nhiều tầng nghĩa nên thế giới chính mà tác
phẩm mở ra không chỉ trên trang giấy phẳng mà là một thế giới trong tâm thức người
đọc– nó mang màu sắc thế nào tùy theo từng độc giả. Nếu độc giả là một thanh niên đa
tình sẽ tìm thấy chính bản thân mình trong tác phẩm,từ đó thấy thích thú và đam mê,
hoặc giả như người đọc là một trung niên hoài cổ thì sẽ cảm nhận được sự mai một của
truyền thống và cái đẹp như đang dần thoát li khỏi thực tại… Để tác phẩm thật sự
truyền tải được đầy đủ và trọn vẹn đến độc giả không giới hạn qua lăng kính tuổi tác và
tri thức, chúng tôi thực hiện đề tài này mong muốn có thể phổ biến sâu rộng hơn Ng

Ngààn
cánh hạc về cả đặc sắc nội dung lẫn đặc sắc về nghệ thuật, cũng như một mẩu độc đáo
của văn hóa Nhật Bản, cố gắng góp một phần sức vào công cuộc giao lưu văn học giữa
Việt Nam và các nước bè bạn trên thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nói đến văn chương của Y.Kawabata đã có nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam
nghiên cứu về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu với quy mô mức độ khác nhau để
mô tả về cuộc đời, sự nghiệp cũng như con đường văn chương của Y.Kawabata. Xuất
hiện sớm nhất là các bài nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Văn như: Ch
Châân dung
Yasunari Kawabata – giải văn chương Nobel 1968 của Đào Hữu Dũng (Tạp chí văn, số
n Kawabata (Trong cuốn Văn hóa, văn
90, tháng 6/1969). Trong bài Từ Murasaki đế
đến
học – từ một góc nhìn, nhà xuất bản Khoa học xã hội, hà Nội, 2002), Hà Thanh Vân đã
phát thảo một cái nhìn vừa mang tính tổng quát và cụ thể về Kawabata trong dòng chảy
văn học ở Nhật Bản , tóm lược những đặc điểm cơ bản của dòng văn chương Kawabata
để mọi người thưởng thức sâu rộng về cách thức sáng tác của ông. Ở một góc nhìn khác,
ữa dòng ch
ng – Tây đã cho
Đào Thị Thu Hằng trong bài Yasunari Kawabata gi
giữ
chảảy Đô
Đông
rằng những tác phẩm của Kawabata vừa mang đặc điểm truyền thống phương Đông,
vừa đan cài yếu tố phương Tây hiện đại từ đó ta có thể tách biệt hoặc hòa lẫn hai yếu tố
Đông -Tây trong công thức pha trộn văn học hết sức hài hòa của Kawabata ,thấy được
tầm lớn lao về tư tưởng , cách nhìn thời đại và khả năng hành văn đặc sắc của ông. Bên
cạnh đó, bà cũng xuất bản cuốn Văn hóa Nh
Nhậật Bản và Yasunari Kawabata (NXB Giáo

dục, Hà Nội, 2007), cuốn sách bày tỏ một hướng nghiên cứu mới về Kawabata là gắn
sáng tác của nhà văn với văn hóa Nhật Bản để có cái nhìn đối sánh : “với số lượng trên
300 trang in, bao gồm phần chính văn và phụ lục, tác giả công trình đã đặt sáng tác
của Kawabata trong dòng chảy văn học Nhật Bản” [12;tr.73], và tác giả cũng lưu ý
rằng mục đích chính của công trình là trên cơ sở “ khảo sát Nhật Bản và cái đẹp lấy đó
5


làm nền tảng, (kết hợp với lý thuyết tự sự hiện đại của phương Tây ) để tìm hiểu Nghệ
thuật kể chuyện của Yasunari Kawabata qua các bình diện : người kể chuyện, nhân vật,
không gian, thời gian…” [7;tr.211].Trong cuốn Văn hóa Nh
Nhậật Bản và Yasunari
Kawabata này, tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc cũng được đặt hướng tiếp cận trong tầm
chuyên sâu – có thể nói là công trình nghiên cứu khá vĩ mô, tác giả Đào Thị Thu Hằng
đã phân tích cốt truyện và dụng ý nghệ thuật của Kawabata dựa trên phương pháp tiểu
sử của chính cuộc đời ông và việc tổng hợp phân tích từ các tác phẩm liên quan do ông
sáng tác như Cố đô
đô, Xứ tuy
tuyếết, Người đẹp say ngủ, Tiếng rền của núi...Tác giả đã đưa ra
nhận định sau khi đọc tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc: “Cái còn đọng lại trong tâm hồn
người đọc không phải là những mưu mô của cô Kurimoto Chikako, thậm chí cũng
không phải là tình yêu nồng nàn của bà Ota, đầu tiên là đối với ông Mitani và sau này
là đối với con trai ông ta, mà là vẻ đẹp đặc biệt kết hợp với những tách trà và sự hồi
tưởng mà mỗi một đồ vật dụng trong nghi lễ trà đạo gợi lên cho những người tham dự”
[7 tr.47].Công trình đã khẳng định cho chúng ta thấy được cái tận cùng cốt yếu mà
Kawabata muốn truyền đạt không phải là tình yêu của lớp trẻ thời hậu trà đạo mà tình
yêu chỉ là phương tiện để truyền đạt hiện thực của trà đạo.Về mặt nghệ thuật, Đào Thị
Thu Hằng đưa ra những luận cứ trên cơ sở mục đích để người đọc tìm hiểu rõ hơn về

không gian và thời gian nghệ thuật của các tác phẩm, trong đó có Ng
Ngààn cánh hạc…
dựa trên sự liên hệ mật thiết với dòng thơ truyền thống Haiku. Ngoài ra còn có những
công trình nghiên cứu được xuất bản trong vòng những năm gần đây như: Yasunari
Kawabata – cu
cuộộc đờ
đờii và tác ph
phẩẩm của Lưu Đức Trung (Bước vào vườn hoa văn học
châu Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997)- công trình này được giới chuyên môn đánh giá
là chuyên luận đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về Yasunari Kawabata , vừa phát họa
cái nhìn cơ bản nhất và cũng đi sâu vào khám phá những biểu hiện tinh tế , sắc nét nhất
của văn học Kawabata, Yasunari Kawabata tuy
tuyểển tập tác ph
phẩẩm (Nxb Lao động &
Trung tâm văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây, 2005) cùng cuốn Văn hóa Nh
Nhậật Bản và
Yasunari Kawabata – Đào Thị Thu Hằng đã bước đầu đưa ra được những nhận xét
kiến giải về tài năng nhiều mặt của Y.Kawabata và thế giới nghệ thuật trong tác phẩm
của ông [17;tr.6].
Ngoài ra, Nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Y.Kawabata (1899-1999)
Lưu Đức Trung in trong bài : Thi ph
phááp ti
tiểểu thuy
thuyếết của Y.Kawabata- nh
nhàà văn lớn
Nh
Nhậật Bản (tạp chí Văn học số 9, 1999) ,tác giả đã khẳng định rằng tiểu thuyết của
Y.Kawabata mang đầy đủ đặc trưng của mĩ học Thiền- nghệ thuật cần tạo ra sự hài hòa
giữa nội tâm và ngoại giới”.Tác giả còn tinh tế nhận ra một điều : “ Y.Kawabata thường
miêu tả truyền thống yêu cái đẹp của người Nhật Bản,tạo ra mỹ cảm trong tác

phẩm.Người Nhật vốn thích sống thanh cao,biết trọng danh dự, giữ gìn đạo đức khuôn
6


phép.Tâm hồn rộng mở,thích hòa nhập với thiên nhiên.Họ yêu vẻ đẹp từ một phiến đá,
một bông hoa trên cạnh, một cảnh tuyết rơi.Họ thích suy ngẫm qua một chén trà, trầm
lắng trước cảnh một ngôi chùa cô tịch”[8;tr.24]. Một phong cảnh đẹp hiện diện trong
tâm thức người đọc của nơi xa xăm phủ tuyết, của Cố đô trầm lắng, tiếng rền âm vang
của núi, nét thanh thoát trong chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc gợi cảm đưa ta đến chân
trời Mĩ học với nét đẹp thân quen, ngập tràn cảm xúc.Vì thế, nét tương đồng trong văn
hóa Việt và Nhật như được liên tưởng gắn kết với nhau và người lữ khách Y.Kawabata
đã thật sự hoàn thành chặng đường “tìm kiếm cái đẹp đang bị mất, cứu vớt cái đẹp đang
bị tàn phai”, làm sống lại những giây phút thần tiên của suối nguồn văn hóa Nhật Bản
trong trái tim bạn đọc khắp thế giới. Từ đó, bạn đọc sẽ có cách nhìn nhận cao cả hơn,
nghiêm túc về mảnh đất sinh thành của bản thân.
Về mặt tư liệu, trên các diễn đàn, báo điện tử, tạp chí văn học cũng có không ích
những tài liệu nói về trình độ bậc thầy trong các sáng tác của Kawabata. Điển hình là
bài viết Ti
Tiếếp nh
nhậận tác ph
phẩẩm của Y.Kawabata ở Vi
Việệt nam (Hà Văn Lưỡng, Tạp chí
khoa học, Đại học Huế, số 54,2009 ) đã tóm lược bao quát được quá trình dịch thuật và
ng
giới thiệu, nghiên cứu phê bình về tác phẩm Kawabata ở Việt Nam. Bài Bi
Biểểu tượ
ượng
trong ti
tiểểu thuy
thuyếết của Yasunari Kawabata của Trần Thị Tố Loan có đề cập đến tác

phẩm Ng
Ngààn cánh hạc thông qua việc lí giải các hình ảnh biểu trưng trong tác phẩm :
“ Trong các sáng tác của Kawabata, chiếc gương soi, chiếc đèn lồng, đôi chén Raku,
chiếc cốc Shino, chiếc khăn có in hình ngàn cánh hạc, lửa, tuyết, thậm chí là cái bớt
đen trên ngực nhân vật... cũng là những biểu tượng nghệ thuật gắn với ý đồ sáng tạo
của ông” [19]. Từ đó, bài nghiên cứu giúp chúng tơi tiếp cận bước đầu với ý đồ nghệ
thuật của tác giả, vì mang tính bao quát trong việt khảo sát nhiều tác phẩm nên trong bài
không đề cập sâu sắc về riêng Ng
Ngààn cánh hạc.Cùng với bài đăng của Đức Ninh là
Y.Kawabata ngh
nghệệ sĩ kỳ công nâng niu cái đẹ
đẹpp (tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 339, 92012) cùng đi theo hướng phân tích những nét đẹp riêng của từng tiểu thuyết rồi đúc kết
lại cái đẹp mĩ miều của người nghệ nhân tài hoa Kawabata có thể tạo hướng tiến sơ
lược về cách hành văn của Kawabata trong tiểu thuyết ngàn cánh hạc :“Y.Kawabata
hiểu được cái đẹp tinh khiết ấy thật mỏng manh, tan biến nhanh như bong bóng xà
phòng, rơi rụng ngay như cánh hoa anh đào đang độ khoe hương sắc rực rỡ nhất”. Tài
liệu trên đi sâu vào nghiên cứu khái quát phạm trù cái đẹp do một tay Kawabata kì công
tạo dựng giúp ta nhận biết mĩ học Yasunari Kawabata là mỹ học chủ quan dựa trên thực
ườ
tiễn nghiên cứu các tác phẩm : Vũ nữ Izu, Xứ tuy
tuyếết , Ng
Ngààn cánh hạc , Ng
Ngườ
ườii đẹ
đẹpp say
ng
ủ; đồng thời cũng đưa ra được nhận xét tóm lược về thủ pháp dòng ý thức của
ngủ
Kawabata trong quá trình sáng tác các tác phẩm .nhưng không chuyên sâu vào khám


7


phá nội dung và nghệ thuật từng công trình, điển hình như việc nghiên cứu Ng
Ngààn cánh
hạc.
Ngoài ra, ở Việt Nam cũng có các công trình mang tính khái quát, khách quan về
ới bi
ng
Y.Kawabata. Trong giới hạn tư liệu chúng tôi nghiên cứu được có Th
Thếế gi
giớ
biểểu tượ
ượng
trong ti
tiểểu thuy
thuyếết của Y.Kawabta (Lê Thanh Huyền, khóa luận tốt nghiệp Đại học Vinh,
2009) đã làm sáng tỏ được hầu hết thế giới biểu tượng đa dạng trong bộ ba tiểu thuyết
“ Xứ tuy
tuyếết, Ng
Ngààn cánh hạc, Cố đô” : “Biểu tượng trong sáng tác của Kawabata, một
mặt, có nguồn gốc từ truyền thống, chịu ảnh hưởng đậm nét của mĩ học Thiền ; mặt
khác, là những tìm tòi và sáng tạo mới mẻ của nhà văn.Chúng luôn có mối liên hệ với
mẩu gốc biểu tượng văn hóa thế giới, song cũng đồng cũng luôn gợi lên cảm giác mới
ườ
mẻ và đầy ấn tượng với người đọc”[9;tr.99]. Tiếp đến còn có Y.Kawabata – Ng
Ngườ
ườii đi
tìm cái đẹ
đẹpp (Trần Thị Tố Loan, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, Đại học Vinh), bài luận đã

ng soi, tạp chí nghiên
tiếp bước Nhật Chiêu (Kawabata Yasunari và th
thẩẩm mĩ chi
chiếếc gươ
ương
cứu Nhật Bản số 4, 2000) nghiên cứu sâu hơn về cái đẹp trong tác phẩm của
Y.Kawabata : “Quan niệm thẩm mĩ của ông bắt nguồn từ truyền thống yêu cái đẹp của
con người Nhật bản và ông nâng nó lên thành những quan điểm thẩm mĩ riêng trong
thời đại mới – thứ mỹ học mang màu sắc “Y.Kawabata””. Đồng thời bài luận của Trần
Thị Tố Loan còn đưa ra được rút kết thẩm mĩ về phương diện đóng góp của ông trong
tiến trình văn hóa, văn học: “ Tiếp thu truyền thống mĩ học Nhật một cách thuần thục,
cái đẹp gắn với nỗi buồn, thẩm mĩ của chiếc gương soi – mĩ học Thiền ; đưa ra một
quan niệm thẩm mĩ tích cực : cái đẹp là sự hài hòa giữa các mặt đối lập: xưa – nay,
truyền thống – hiện đại, dân tộc – nhân loại;từ quan niệm mỹ học tiếp thu từ truyền
thống dân tộc và nâng nó lên thành quan niệm thẩm mỹ riêng độc đáo,sáng tạo theo
quy luật của cái đẹp ”[11;tr.66] .Từ quan niệm nghệ thuật được làm sáng tỏ từ bài viết,
ta có thể thấy rõ phương thức sáng tác của Kawabata, Ng
Ngààn cánh hạc cũng bao hàm là
một tác phẩm chứa đựng cái đẹp mà ông tìm kiếm trong hành trình hơn bốn mươi năm
cầm bút, từ đó phát triển tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về giá trị nội dung của tác
phẩm. Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp (2005) của Trần Thị
Thúy Quỳnh với đề tài Bản sắc Nh
Nhậật trong sáng tác của Y.Kawabata, bài luận đã
khám phá được sâu vào tâm hồn Nhật Bản thông qua các tác phẩm của Kawabata, trong
đó có Ng
Ngààn cánh hạc. Cuối cùng, chúng tôi tham khảo Độ
Độcc tho
thoạại nội tâm trong ti
tiểểu
thuy

thuyếết Y.Kawabata (Trịnh Thị Thủy, Luận văn Thạc sĩ, Vinh, 2010), bài luận tập trung
nghiên cứu về phương diện nghệ thuật độc thoại nội tâm trong hầu hết các sáng tác nổi
tiếng của Kawabata như Xứ tuy
tuyếết, Ng
Ngààn cánh hạc, Cố đô
đô,, Ti
Tiếếng rền của núi… trong
đó làm rõ mối quan hệ tương quan giữa độc thoại nội tâm với nội dung tác phẩm, điều
đó có nghĩa là nghệ thuật truyền đạt nội dung cũng được sáng tỏ phần nào. Công trình
8


hướng cho chúng tôi biết được nhân vật trong tác phẩm là tuýp nhân vật mang dáng dấp
nhân vật tự ý thức, và mỗi nhất cử nhất động trong tác phẩm đều mang ý nghĩa riêng:
“Ngoài ra Kawabata còn đặt nhân vật Kikuji và Fumiko vào sự tự ý thức trong việc lựa
chọn nên giữ vẻ đẹp của nghi lễ truyền thống hay phủ nhận trà đạo khi nó đã bị các yếu
tố phàm tục làm hoen ố được thể hiện qua việc giữ lại hay đập vỡ chiếc chén Shino,
chiếc cốc trà đã có hàng trăm năm tuổi, gắn bó với biết bao số phận. Fumiko đập vỡ
chén trà, đó là một phán quyết về trà đạo, hoặc giữ nó với vẻ đẹp nguyên thủy hoặc xóa
bỏ nó chứ nhất quyết không để bị hoen ố”[17;tr.74]. Bài Nét đặ
đặcc sắc trong ti
tiểểu thuy
thuyếết
Y.Kawabata trên Zing Blog từ công trình của Lê Thanh Huyền lại làm rõ nét tương
quan đồng điệu giữa hai hình ảnh biểu trưng là “Cố đô và chén trà Shino” , từ đó tạo
nên sự liên hệ gần gũi giữa hai tác phẩm Nobel Ng
Ngààn cánh hạc và Cố đô trong phạm vi
biểu tượng : “Chén trà Shino và Cố đô là hai hình tượng đặc biệt. Đó là dấu ấn đậm
nét của một nền văn hóa lâu đời và đặc sắc mang phong cách Đông phương. Nhưng cả


hai đều được miêu tả như cái đẹp trong chiều hướng phôi phai, nói đúng hơn là cái
đẹp cổ điển đang đứng trước nguy cơ tan vỡ. Nếu chiếc chén Shino là hiện thân của
vẻ đẹp thanh tao, trang nhã trong nếp uống trà đã thành một tôn giáo nghệ thuật thì
những mối quan hệ, những nhỏ nhen, phàm tục xung quanh nó lại là biểu hiện của
một sự suy vi, phai tàn….Vì vậy chén trà Shino hay Cố đô đều là biểu tượng sinh
động về hiện trạng của cái đẹp truyền thống Nhật Bản khi lối sống phương Tây du
nhập mạnh mẽ ” [19].Tiếp theo, Lê Thanh Huyền nghiên cứu công trình về phương
pháp và phong cách xây dựng biểu tượng của Kawabata trong bộ ba tiểu thuyết : Xứ
tuy
tuyếết, Ng
Ngààn cánh hạc, Cố đô đã nêu được các đặc trưng cơ bản nghệ thuật của
Kawabata khi tạo dựng các tiểu thuyết này và rút ra được nhận xét rất xác đáng :
“Thứ nhất, tiểu thuyết của Kawabata luôn có xu hướng tìm về với truyền thống trong
một cảm thức mất mát và suy tàn. Thứ hai, cái chết là một ám ảnh ghê gớm với
Kawabata, tiểu thuyết của ông luôn mang màu sắc buồn bã của sự chia ly và niềm
tuyệt vọng. Thứ ba, cái đẹp với Kawabata là vũ trụ vĩnh hằng và Nữ tính vĩnh cửu.
Vũ trụ là thiên nhiên hoang sơ, tuyệt mĩ và nữ tính vĩnh cửu là ở người con gái.
Nhưng đó bao giờ cũng là cái đẹp mong manh và không thể sở hữu. Cái đẹp như
một ước vọng không cùng. Thứ tư, tất cả những biểu tượng trong tiểu thuyết
Kawabata đều gặp nhau ở sự biểu đạt tâm hồn Nhật Bản: tôn thờ cái Đẹp, hòa hợp
tương giao giữa con người - tự nhiên và phát triển trong trạng thái đầy mâu thuẫn
trái ngược ” [19].Lê Thanh Huyền qua công trình trên đã bước đầu đưa ra những
khảo sát , ước lệ về nguyên lí sáng tạo cái đẹp trong hành trình sáng tác của
Kawabata. Với những thông tin công trình trên cung cấp, chúng tôi nhận thấy được
9


sự tương đồng về mặt hình thức nghệ thuật giữa tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc và các tác
phẩm khác của Y.Kawabata, từ đó có thể thâm nhập sâu hơn vào tư tưởng, dụng ý

nghệ thuật trong quá trình sáng tác của ông. Những công trình trên giúp chúng tôi
thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nghiên cứu đặc sắc nghệ thuật và nội dung của tác
phẩm.
Công trình nêu trên là những bài mang tính khái quát về tác phẩm của Kawabata
mà chúng tôi sưu tầm được. Tuy nhiên, về đề tài của luận văn Ng
Ngààn cánh hạc : Tình
yêu và tr
tràà đạ
đạoo trong tác ph
phẩẩm Ng
Ngààn cánh hạc của Yasunari Kawabata (Sinh viên, đại
học Huế, baomuahe2011 blog) cũng có nghiên cứu tường tận về tác phẩm và rút ra kết
luận về thông điệp cũa tác phẩm truyền tải đến bạn đọc : “Hãy giữ truyền thống thanh
cao đó của người Nhật với vẻ đẹp nguyên thủy, đừng làm nó bị hoen ố” [22].Về mặt
nghệ thuật, bài báo có nêu rõ được thi pháp chân không, ý nghĩa nhan đề, các hình ảnh
biểu tượng trong tiểu thuyết ngàn cánh hạc, định hướng được những nét nghệ thuật độc
đáo mà Kawabata tạo dựng trong tác phẩm. Nhưng suy cho cùng, bài viết vẫn dừng ở
mức nghiên cứu sơ khai, nội dung bài nghiên cứu chủ yếu chỉ đi sâu vào hai mảng tình
yêu và trà đạo, chưa làm rõ được cái đẹp diệu kỳ kết hợp giữa hai điều ấy ẩn sâu dưới
nỗi buồn bao trùm tác phẩm, các luận đề viết về nghệ thuật vẫn còn giới hạn ở mức sơ
lược chưa chuyên sâu và ở đề tài luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ điều ấy.
ch, yêu cầu
3. Mục đí
đích,
Nghiên cứu về Ng
Ngààn cánh hạc để làm sáng tỏ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm thông qua các phương pháp nghiên cứu văn học, tra cứu tài liệu, nghiên
cứu văn chương tuyển tập Y.Kawabata, để tác phẩm trở nên gần gũi và phổ biến hơn
với độc giả Việt Nam.
Cụ thể hơn, đầu tiên chúng tôi sẽ đi từ bề rộng đến bề sâu : tìm hiểu về thể loại

tiểu thuyết đồng thời giới thiệu về tác giả, tác phẩm . Tiếp đến về mặt nội dung và nghệ
thuật, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ đặc sắc về nội dung bao gồm bên trong nó là các hình
ảnh biểu tượng truyền tải ý nghĩa thẩm mĩ, tình yêu và sự ràng buộc, mối quan hệ giữa
các nhân vật, vài khía cạnh của văn hóa Nhật Bản biểu lộ trong tác phẩm từ đó nêu bậc
lên tâm hồn Nhật Bản rồi đúc kết đại ý của những vấn đề nội dung tác phẩm. Mặt khác,
song hành với nội dung luôn luôn là nghệ thuật - đặc sắc nghệ thuật cũng được diễn đạt
sáng tỏ về các khía cạnh nghệ thuật tương phản và phép lặp, cơ sở tạo dựng biểu tượng,
nghệ thuật độc thoại nội tâm đặc sắc, không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm,
nghệ thuật chiếc gương soi, thi pháp chân không.

10


4. Ph
ạm vi nghi
Phạ
nghiêên cứu
Về phần văn bản, tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc của Y.Kawabata trích dẫn trong bài
luận chủ yếu từ cuốn Tuy
Tuyểển tập Y.Kawabata của nhà xuất bản Hội nhà văn (Ngô Quý
Giang dịch).
Y.Kawabata ghi dấu trên văn đàn thế giới với số lượng tác phẩm khá đồ sộ đa
dạng..Do hạn chế về thời gian, tư liệu thu thập và giới hạn khuôn khổ bài luận văn nên
chúng tôi chỉ trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu về phần nội dung và nghệ thuật tác phẩm
Ng
Ngààn cánh hạc và vài nét sơ lược liên hệ, so sánh và đối chiếu với các tác phẩm khác
của Y.Kawabata.
ươ
ng ph

5. Ph
Phươ
ương
phááp nghi
nghiêên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để
thực hiện yêu cầu của đề tài, một số phương pháp chính được sử dụng là :
Phương pháp phân tích -tổng hợp: Người viết sử dụng phương pháp phân tích để
có thể làm sáng tỏ những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Ng
Ngààn cánh
hạc của Y.Kawabata.Từ những biểu hiện cụ thể của từng vấn đề nghiên cứu, luận văn
sẽ tổng hợp thành những luận điểm, luận cứ mang tính khái quát.
Phương pháp tiểu sử : Song hành với việc phân tích – tổng hợp, làm sáng tỏ vấn
đề bằng việc đưa tiểu sử “ người thật,việc thật” về cuộc đời của chính tác giả
Y.Kawabata để có được sự đồng cảm khách quan nhất, chân thực nhất về tác phẩm.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng khi luận văn
bước đầu chỉ đưa ra được đặc sắc riêng mà Kawabata tạo dựng trong tiểu thuyết ngàn
cánh hạc, kế thừa ý chính và dẫn nhập, so sánh liên hệ với các tác phẩm, với phạm trù
văn hóa Nhật Bản,thấy được sự tương phùng đồng điệu của hồn văn Kawabata với
những nhà văn khác trên văn đàn thế giới.
Phương pháp so sánh lịch sử : Tìm hiểu, nghiên cứu quá trình sáng tác của nhà
văn qua các chặng đường phát triển.

11


ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ


12


ƯƠ
NG 1 : NH
ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
NHỮ
1.2 Gi
ới thi
ật Bản
Giớ
thiệệu về th
thểể lo
loạại ti
tiểểu thuy
thuyếết trong văn học Nh
Nhậ
ữ văn học định nghĩa :” tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có
Từ điển thu
thuậật ng
ngữ
khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu
thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời , những bức tranh phong tục tập
quán , đạo đức xã hội , miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính cách
đa dạng” [6;tr.328].Dĩ nhiên không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết địa vị trung tâm
trong hệ thống các thể loại văn học cận đại, hiện đại, mà nó ó nguồn gốc xuất xứ sâu xa
và đang được định dạng trên văn đàn : “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất

đang biến chuyển và còn chưa định hình”– M.Bakhtin nhận định. Trong sự đối chiếu và
so sánh với các thể loại tự sự khác (ngụ ngôn, anh hùng ca, truyền thuyết ), tiểu thuyết
là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất khả năng nghệ thuật của các thể loại khác
với một phương thức biểu đạt riêng biệt : nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư ; tái hiện cuộc
sống đậm chất văn xuôi ; xây dựng nhân vật là con người nếm trải thay vì nhân vật
hành động ; gia tăng yếu tố ngoài cốt truyện; xóa bỏ khoảng cách trần thuật. Xem xét
tiểu thuyết từ các phương diện đó thì Nhật Bản có thể xếp vào những quốc gia có nền
tiều thuyết hiện đại đầu tiên trên thế giới.
Năm 2000, báo chí Pháp kỉ niệm, sinh nhật 1000 năm tác phẩm “tiểu thuyết đầu
tiên của loài người”, một trong những kiệt tác mọi thời đại của nhân loại : Truy
Truyệện
Genji. Genji monogatari là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của nền văn học Nhật Bản, ra
đời vào khoảng 1004-1011, của nữ sĩ tài ba Murasaki Shikibu (978 -1014). Truyện
được sáng tác vào thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện)
cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Truy
Truyệện Genji cùng
với văn chương Heian, gồm hai yếu tố “ dân tộc” và “nữ lưu” đã tạo dựng phát huy một
nét đẹp huy hoàng chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản.Thơ văn “nữ lưu” đỉnh cao là
Genji monogatari đã đánh dấu sự có mặt thật sự của một nền văn hóa bản địa xứ Phù
Tang trong sức ép ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc thời bấy giờ. Kawabata
trong Diễn từ Nobel đã khẳng định : “ Thời kỳ Heian đã đặt nền móng cho truyền thống
vẻ đẹp Nhật Bản, và trong suốt tám thế kỉ đã ảnh hưởng đến nền văn học Nhật Bản, xác
định tính chất của nó., Genji monogatari là đỉnh cao văn xuôi Nhật Bản tất cả mọi thời
đại”.[17;tr.973]. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và
Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan
hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những
truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức

13



trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn
học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá
là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra
n Kih
đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đô
Đôn
Kihôôtê của Miguel de Cervantes vào
thế kỷ XVI. Theo đó, nhà nghiên cứu N.T Phedorenko nhận xét : “ Genji monogatari
của Murasaki là đỉnh cao của văn xuôi dân tộc, là tài sản vô giá của nghệ thuật văn
chương Nhật, là mẫu mực ngôn ngữ hoàn chỉnh nhất của thời kỳ cổ điển. Chính trong
thiên tiểu thuyết này, ngôn ngữ Nhật với tính biểu cảm phi thường của nó đã đạt tới
đỉnh cao, xứng đáng được xếp vào hàng những ngôn ngữ văn học phát triển nhất của
thế giới” [10 tr.1047]. Đây là tác phẩm ảnh hưởng rất lớn đến tác phong hành văn sau
này của Y.Kawabta.
Giai đoạn chuyển tiếp thời kì Heian, Nhật Bản bắt đầu tiến đến thời đại samurai
đẫm máu chết chóc, chiến tranh nổ ra liên miên từ thế kỉ 13 đến tận 1868.Văn học
hướng vào đề tài võ sĩ đạo, ca ngợi tinh thần cao cả hi sinh thay cho dòng “ nữ lưu” nữ
tính, đồng thời hướng về tâm linh màu sắc Thiền học, tĩnh nhưng chất chứa niềm bi
cảm, biểu hiện nỗi u huyền trầm lắng.Vào khoảng gần cuối thế kỉ XVII, văn đàn Nhật
Bản đón nhận một hiện tượng mới – cuốn tiểu thuyết gây chấn động : Hi
Hiếếu sắc nh
nhấất
ườ
n ông đa tình” của Ihara Saikaku (1641-1639). Tác giả này nổi
đạ
đạii nam tức “ Ng
Ngườ
ườii đà
đàn

danh là tiểu thuyết gia bậc nhất thời Edo – thời kỳ văn học được mệnh danh là “ Văn
chương phù thế”. Làn sóng văn chương này do tác giả Saikaku dẫn đầu, là văn chương
của “ những ngọn sóng trần gian”, chỉ biết đến “ con người tại thế” và quay lưng với
quá khứ tôn thờ thần linh.Tiểu thuyết người đàn ông đa tình đã khơi nguồn cho hàng
loạt sáng tác “ Phù thế thảo tử” của Saikaku, ảnh hưởng đến thời đại và trở thành linh
hồn của thời phục hưng Nhật Bản.
Tiểu thuyết Nhật bản sau Saikaku được nhắc đến cùng hai tên tuổi Akinari với
“Vầng tr
trăăng trong mơ” và Ikaku với “Gót ch
châân giang hồ”. Nói đến tác giả này, Ueda
Akinari (1734-1809) được biết đến là văn sĩ tài ba nhất của văn xuôi Nhật thế kỉ XVIII.
“Vầng trăng trong mưa” là truyện được xây dựng bởi các yếu tố kì ảo hoặc siêu nhiên.
Tuy nhiên thế giới nghệ thuật của Akanari không phải là một thế giới ma quai như tác
phẩm đình đám “Li
Liêêu Trai ch
chíí dị” của Trung Quốc, cái ảo của nó chỉ là lớp ảo che đậy
sự thật tâm lí của con người.Đó là một thực tại ảo hóa, một không giang được bôi xóa
và làm nhòe đi, đánh lạc hướng giác quan quan sát của con người. Học giả Nhật Chiêu
đã đánh giá: “Vầng trăng trong mưa được sáng tạo bằng một phong cách văn chương
cao nhã và đầy những tưởng tượng mới mẻ dù vẫn tiếp nối dòng mạch văn chương của
cái ảo trong truyền thống. Có thể gọi đó là phong cách “ Tân cổ điển” [3;tr.252-253].

14


Còn một hiện tượng độc đáo ở thời kì này là Tippensha Ikaku (1765-1831), tác
giả này thì lại được tôn là người sáng tạo ra những trang văn xuôi đầy ấp tiếng cười,
giàu chất hoạt kê nhất trong văn chương Nhật Bản. Thuộc loại sách gọi là Kokkeibon
(hoạt kê bản), “Gót ch
châân giang hồ” là một tác phẩm ngập tràn tiếng cười và thường

được người đời liên tưởng đến cuốn Pickwich Papers (1837) của Dikens.
Ngoài những tên tuổi kể trên, những bậc thầy trong làng tiểu thuyết thời Edo còn
có : Ejima Kiseki (1667 -1736), Santo Kyoden (1761-1816),Takizawa Bakin (17671848), Sikitei Samba (1775-1922), Ryutei Tanchico (1783-1842), Tamenaga Shumsui
(1789-1842).Tác phẩm của họ thường đi vào khai thác đề tài thương nhân sa đọa và
chuyện tình buông thả. Vì thế sách của họ bị xếp vào hàng dâm thư, bị chính quyền
bấy giờ cấm lưu hành.Theo G.B Sasom : “ Tuy vậy, điều mà các nhà cầm quyền lầm
tưởng là suy đồi chỉ đem lại sự vui tươi. Đó là một hiện tượng hiếm trong lịch sử Nhật
Bản “ [15;tr.256].
Như vậy, tiểu thuyết Nhật Bản trước 1868 mặc dù còn nhiều điểm giới hạn do
tầm nhìn tghời đại nhưng vẫn phong phú đa dạng về số lượng lẫn chất lượng. Song có
thể nói những bật tiểu thuyết gia thật sự hoạt động mạnh mẽ nhất nhờ cuộc Duy tân
Minh Trị và hệ quả nó mang lại cho văn học. Mảnh đất Nhật Bản vốn màu mỡ nhưng
chưa được khai thác tận cùng như được tưới làn nước mát một cách tinh khiết nhất: tư
tưởng mới từ phương Tây, để đắm mình trong hơi thở của thời đại. Tuy nhiên, thành trì
truyền thống văn hóa Nhật Bản bị xâm lấn quá mạnh, có nguy cơ bị lung lay, và là
những nhà văn lỗi lạc, phải có trách nhiệm nhìn nhận và đánh giá nền văn học một cách
khách quan nhất. Lớp nhà văn nghiêng về truyền thống phương Đông, lớp hướng ngoại
kết hợp tư tưởng Đông Tây, điều đó làm nên một nền văn học Nhật đặc sắc, đa diện.
Bước sang thời kì hiện đại hóa văn học, chủ nghĩa hiện thực được hình thành rõ
nét với tên tuổi của Tshubouchi Shoyo (1859-1935) cùng tác phẩm “Bản ch
chấất của ti
tiểểu
thuy
thuyếết” xuất bản năm 1885. Từ đó nhiều sáng tác cách tân kiểu mới ra đời, khác hẳn
với thể loại tiểu thuyết cổ điển trước đây.Sau đó, các trường phái văn học khác lần lược
ra đời, trong tác phẩm của họ đã bắt đầu quan tâm đến số phận con người, bi kịch cá
nhận, bi quan, thất vọng – một sự cộng hưởng từ văn học Châu Âu đương thời, đồng
thời cũng xung đột khó trung hòa với chính luồng văn học châu Âu ấy. Đại biểu cho
những trường phái này phải kể đến Kitamura Tokôku (1868-1894), nữ văn sĩ Higuchi
Ichiyo (1872-1896), Mori Ogai (1862-1922). Chủ đề ấy trở thành chuyên môn của các

tiểu thuyết gia thuở bấy giờ và nó trở đi trở lại mà sáng tác của Kawabata là hiện tượng
tiêu biểu.
1.2 Cu
Cuộộc đờ
đờii và và sự nghi
nghiệệp văn học của Y.Kawabata
ng đờ
ườ
1.2.1 Đườ
Đường
đờii của “ng
ngườ
ườii lữ kh
kháách u sầu” Y.Kawabata
15


Kawabata (1899-1972) chào đời ở một làng quê gần thành phố Osaka trong một
gia đình có người cha là thầy thuốc, gia đình có truyền thống yêu nghệ thuật. Ông sinh
thành vào giai đoạn nước Nhật xảy ra nhiều biến cố lớn của cuộc Minh Trị Phục Hưng
và bản thân ông cũng trải nghiệm sự tang tóc và đau thương khi những người thân yêu
nhất lần lượt từ giã cõi đời. Mồ côi cha mẹ từ năm lên hai tuổi, từ đó ông sống cùng chị
và ông bà ngoại, nhưng niềm hạnh phúc nhỏ bé, chút ấm áp tuổi thơ ấy cũng không tồn
tại lâu khi bà ngoại và chị cũng lần lượt qua đời. Nỗi đau chưa dừng ở đấy, năm ông
mười bốn tuổi, ông ngoại mất, ông đành lên Tokyo sống nhờ gia đình người dì. Vừa côi
cúc, lại cô quạnh, ốm yếu, ông chỉ còn biết trông cậy vào năng lực sáng tạo của bản
thân, chôn nỗi đau mất mát vào nơi sâu thẳm nhất ở cõi lòng. Điều này thể hiện rõ trong
lời Tiến sĩ Anders đọc trong ngày trọng đại 1968 :“nhà văn Nhật Bản Yasunari
Kawabata, sinh năm 1899 ở thành phố công nghiệp khá lớn Osaka, nơi cha ông, một
bác sĩ có học thức cao và say mê văn chương, hành nghề. Tuy nhiên, từ khi còn nhỏ,

ông đã buộc phải xa rời môi trường trưởng thành thuận lợi này sau cái chết bất ngờ
của bố mẹ. Là đứa con độc nhất, ông được gửi đến ở với người ông mù lòa và đau yếu
ở một vùng quê hẻo lánh. Những mất mát bi kịch này, có ý nghĩa gấp bội khi khi xét đến
tình cảm sâu nặng về quan hệ ruột thịt của người Nhật Bản, rõ ràng đã ảnh hưởng đến
toàn bộ cái nhìn của Kawabata về cuộc đời và là một trong những lý do khiến ông
nghiên cứu giáo lý Phật giáo về sau này”[5].
Năm mười lăm tuổi, Y.Kawabata phải chật vật làm lụng, tự lo miếng ăn cho bản
thân. Ông hiểu được những nỗi đau khổ, tủi nhục của một sinh linh sống dưới đáy xã
hội.Thời niên thiếu đầy cay đắng và bất hạnh cũng là ngọn nguồn của những nỗi buồn
vô định ấn trùm xuyên suốt tác phẩm của ông.. Và điều này đã làm nên Kawabata – một
lữ khách u sầu lang thang tìm kiếm chân - thiện – mĩ hiện diện trên đời : "Không bao
giờ tôi trút được ám ảnh rằng mình là một người lang thang ưu sầu. Luôn luôn mơ
mộng tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hoàn toàn trong mơ, mà vẫn luôn tỉnh thức
giữa khi mơ, từ sau thất bại, tôi chìm vào nỗi buồn- một nỗi buồn ngự trị triền miên
trong tâm thức người Nhật chúng tôi. Từ đó trở đi tôi chỉ viết những khúc bi thương!.."
[24] .Kawabata cũng yêu thích hội họa, nhưng cuối cùng ông cảm thấy cái nghiệp đích
thực lại là hành văn, ông theo đuổi nghiệp ấy nhưng trong sáng tác cảnh vật và con
người vẫn hoàn hảo, hữu tình, hữu hình và sống động như bước ra từ trong tranh.
Kawabata bắt đầu cầm bút viết văn từ rất sớm với Nhật kí tuổi mười sáu. Qua Nhật kí
tuổi mười sáu, ta bắt gặp cậu thiếu niên Kawabata điềm tĩnh và đầy sức thanh xuân.
Nhật kí bao gồm mười hai ngày trong tháng 5,năm 1914 và dừng lại một tuần sau khi
người ông mất. Tuy nhiên, thời điểm ra đời thật sự của tác phẩm lại là đề tài gây nhiều
tranh cãi. Các nhà nghiên cứu, phê bình sau khi xem xét văn phong của tác phẩm cho
16


rằng nó được viết vào chính năm tác giả cho xuất bản 1925. Thế nhưng cho dù Nhật kí
tuổi mười sáu được viết chính xác vào năm nào đi chăng nữa, thì nhờ nó, người đọc biết
thêm một Kawabata sống giàu tình cảm và do hoàn cảnh đã sớm trưởng thành. Và sau
này, tác phẩm đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác văn chương của

ông, luôn có trong các tuyển tập quan trọng. Tiếp sau đó là tập Thi hài miêu tả những
ngày hấp hối của ông nội, được thai nghén năm 1916 và công bố năm 1945. Năm 1920,
ông vào trường đại học Tổng hợp Tôkyô, trước tiên là khoa Anh ngữ, sau chuyển sang
khoa Ngữ văn Nhật. Đây cũng là âm hưởng chung trong quá trình "trở về với truyền
thống" trong văn nghiệp của Kawabata.
Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương,
một thiếu nữ ông gọi là Chiyo. Ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị
xong, nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích.Trước, ông cũng đã từng có một
cuộc tình thời phổ thông, một tình yêu trong sáng với cô bạn cùng lớp mà sau này mối
tình ấy còn in dấu đậm nét trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Ba mươi năm sau, khi hồi tưởng lại mối tình ấy chính ông gọi đó là "cú sốc ngọt ngào".
Trong tháng một năm 1916 ông chuyển sang một nhà trọ gần trường trung học cơ sở
(tương đương với một trường trung học hiện đại) mà trước đây ông đã đến bằng tàu
hỏa. Qua bao cuộc bể dâu của đời, ông gặt hái và tích lũy được nhiều vốn sống, điều đó
rất có ý nghĩa cho những sáng tác sau này của Kawabata. Ông thường cho ấn tượng
rằng nhân vật của ông đã xây dựng lên một bức tường xung quanh mà di chuyển chúng
vào cô lập. Trong một tác phẩm xuất bản năm 1934 Kawabata đã viết: "Tôi cảm thấy
như thể tôi chưa bao giờ nắm tay một người phụ nữ trong một cảm giác lãng mạn [...]
Tôi có phải là một người đàn ông hạnh phúc hay là một kẻ xứng đáng được thương
hại?"[23] . Trên thực tế tuy điều này không phải hoàn toàn được hiểu theo nghĩa đen,
nhưng nó vẫn biểu hiện sự bất an, thiếu thốn về tình cảm mà Kawabata từng nếm trải,
đặc biệt là qua hai mối tình đau đớn khi ông còn trẻ.
Lúc bấy giờ ngoài tấn bi kịch gia đình, tình hình đất nước cũng gặp không ít
biến đổi. Công cuộc phục hưng Minh trị tiến hành mờ cửa, cách tân chính sách tiến bộ
và hướng ngoại, nước Nhật không chỉ noi gương các nước phương Tây mà đã bắt kịp
đà phát triển, tiến bộ về khoa học kĩ thuật, cả tư tưởng tư duy cũng đổi mới. Bằng tâm
hồn nhạy cảm tinh tế, Kawabata đã sớm nhận thức được đà phát triển của thời đại, điều
này ảnh hưởng sâu rộng đến những sáng tác sau này của ông. Sau khi tốt nghiệp trung
học cơ sở tháng 3 năm 1917, ngay trước sinh nhật thứ mười tám của mình, ông chuyển
đến Tokyo, hy vọng sẽ vượt qua kỳ thi và đỗ đạt tại Đại học tổng hợp Tokyo. Ông đã

thành công trong kỳ thi năm đó vào gia nhập Khoa Nhân văn và bắt đầu gây được nhiều
sự chú ý, quan tâm từ công chúng (tháng 7 năm 1920).
17


Giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành, Kawabata cũng như vô vàn người dân thời
đại đen tối ấy, trở thành chứng nhân lịch sử của cuộc chiến thế kỉ - Đệ nhất thế chiến
(1914-1918). Khi Thiên hoàng Minh Trị qua đời (1913), Nhật Bản tiến hành cuộc xâm
lăng bành trướng thuộc địa cùng với phe Liên Minh cuốn biết bao người dân vào vòng
xoáy chiến tranh.Rồi Nhật Bản bại trận, thiệt hại nặng nề, vết thương chiến tranh vẫn
còn âm ỉ … đất nước Phù Tang lại bàng hoàng trong cơn đổ bộ của trận động đất lịch
sử ở Cantô, cướp đi hơn mười ngàn nhân mạng. Trước tình hình đó, văn học cũng như
những ngành khoa học khác, tích cực tiên phong trong việc phản ánh hiện thực, cảnh
tỉnh ý thức dân tộc về tình hình đất nước.Kawabata lúc bấy giờ vẫn đang là sinh viên
đại học đang chuẩn bị nền tảng kiến thức cho những sáng tác trứ danh về sau.
Kawabata tốt nghiệp vào năm 1924, bởi thời gian đó ông đã gây được sự chú ý
của Kikuchi Kan – một tác gia nổi tiếng ở Nhật Bản thời bấy giờ bằng tài năng và sự
chuyên nghiệp của mình, Kawabata được vào làm việc ở Bungei Shunju (tạp chí văn
nghệ Xuân Thu).Nói về Kikuchi Kan, ông được xem là người bảo trợ cho Kawabata, là
người góp phần quan trọng trong bước tiến của Y.Kawabata tại văn đàn, và dĩ nhiên
phải có tài năng thật sự, Kawabata mới chinh phục được trái tim yêu văn chương của
Kan cũng như những văn sĩ khác và hàng triệu độc giả khắp thế giới. Kan còn giới thiệu
Kawabata với một số tạp chí và các nhà văn tên tuổi khác trong đó có Akutagawa
Ruynosuke (1892-1927), người được coi là bậc thầy của truyện ngắn Nhật Bản. Với
một nhà văn trẻ, sự đỡ đầu của một người trong giới là điều rất quan trọng, ảnh hưởng
rất lớn đến sự thành công của nhà văn đó. Và khi đã trở thành nhà văn nổi tiếng,
Kawabata cũng luôn sẵn lòng làm việc này nói với đàn em, nếu người đó thực sự là một
tài năng. Từ sự giới thiệu của Kan, Kawabata đã có những tình bạn đẹp, lâu bền với
những tên tuổi mà cả thế giới biết đến như Yoko Mitsu Reiichi, Yukio Mishima,...
Năm 1926, thái tử Hirohito lên ngôi, lúc này Kawabata 27 tuổi và thật sự bước

chân vào đời văn nghiệp. Ông chứng kiến một thế lực quân phiệt đang hình thành.Nhật
Bản lại bước vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh thế giới đệ nhị. Khác với những bộ
phận nhà văn lúc thời bấy giờ, ông từ chối sự tuyên truyền hăng hái trong quân phiệt,
sống lặng và chuyên tâm viết văn. Khi chiến tranh kết thúc, ông cũng chỉ dành ít sự
quan tâm cho việc cải cách chính trị, chỉ tập trung vào sự nghiệp cứu rỗi truyền thống
và cái đẹp, thể hiện cá tính nhân văn trong thời đại của mình.
Hồi ức về tuổi thơ bất hạnh cùng nỗi đau bất đi người con gái mình thương yêu,
ám ảnh về chiến tranh đã trở thành những ngọn nguồn khách quan đi vào phong cách
hành văn của Kawabta. Trong tác phẩm của ông, người ta nhìn thấy những giá trị nghệ
thuật tượng trưng cho cái đẹp đang dần phai tàn, vì nó tuyệt mĩ nhưng không tuyệt đối,
mỏng manh dễ vỡ, chỉ còn lắng đọng lại cảm xúc xót xa cho một thời quá khứ huy
18


hoàng đã qua đi. Đương thời, tiếng nói của Kawabata rất có trọng lượng trong cả văn
giới lẫn chính giới. Cánh tả và cánh hữu đều muốn lôi kéo ông, những bài viết giới
thiệu những nhà văn trẻ của Kawabata đều được xem là những lá bài quyết định số
phận của các nhà văn ấy.
Ngoài ra, 1937, Kawabata với tác phẩm Xứ tuy
tuyếết đã cùng nhà văn Ozaki Shiroo,
tác giả cuốn truyện Tr
Tròò đờ
đờii đã cùng nhau chia sẻ phần thưởng thứ ba của Nhóm Hội
Thảo Văn Học. Mặc cho ý định kiểm soát giới cầm bút của chính quyền Nhật gắt gao
đương thời, ông vẫn nhận phần thưởng và dùng số tiền đó mua một căn nhà tại
Karuizawa, đồng thời vẫn đứng trong hàng ngũ các nhà báo có lí luận tư tưởng đề cập
về nhu cầu tự do ngôn luận, tự do phát biểu – một trong những quyền cơ bản mà một
công dân, hơn hết là trách nhiệm người cầm bút cần có. Vào năm 1935, Kawabata phản
đối Nhóm Hội Thảo Văn Học đã không trao giải thưởng cho nhà văn Shimaki Kensaku
vì nghi ngờ có khuynh hướng Mác Xít trong tác phẩm.

Kawabata cũng từng giữ chức Chủ tịch Hội văn bút Nhật Bản trong một thời
gian khá dài từ năm 1948 đến năm 1965. Là Chủ tịch Hội văn bút Nhật Bản trong nhiều
năm, Kawabata đã thúc đẩy việc dịch thuật văn học Nhật sang tiếng Anh và các thứ
tiếng phương Tây khác, tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hóa và tuyên truyền bản sắc
dân tộc đến các nước bè bạn trên thế giới - cũng có lẽ đây là khát khao nguyện vọng
của ông từ rất lâu rồi. Năm 1953, Kawabata trở thành thành viên của Viện Hàn Lâm
Nghệ thuật Nhật Bản. Đến năm 1959, ông là Phó chủ tịch Hội văn bút Quốc tế. Tên tuổi
của ông sớm vượt xa biên giới Nhật Bản và đi đến các nước láng giềng trong công cuộc
truyền tải sự chân thật của cái đẹp hiện hữu vào mốc quan trọng trong cuộc đời ông khi
đoạt giải Nobel 1968.
Nhưng rồi khi nếm trải được những mức ranh giới cực điểm của “hỉ, nộ, ái, ố”
trường đời, “người lữ khách u sầu” Kawabata quyết định kết thúc sinh mệnh của mình
trong căn phòng chứa đầy khí gas (1972) để lại vô vàn sự tiếc nuối cho những trái tim
yêu văn học trên thế giới. Có nhiều giải thuyết cho nguyên nhân cái chết của ông, có
người nói vì tình yêu bất thành, cũng có thể do ông không vượt qua được bản thân sau
ánh hào quang năm 1968, hoặc giả ông bất lực vì bệnh tật…. không ai biết thực hư, và
đến nay, điều đó vẫn là một ẩn số. Cái chết bỏ ngỏ một cuộc đời lỗi lạc như chính
những tác phẩm không có kết, cũng chẳng bao giờ đi đến tận cùng.
1.2.2 Văn nghi
nghiệệp
Y.Kawabata sinh ra và lớn lên trong thời đại khó khăn nhất của Nhật Bản, tình
hình đất nước thời chiến và hậu chiến hỗn loạn, khó khăn và những luồng văn hóa tư
tưởng mới – nhất là ở phương Tây,không ngừng du nhập vào Nhật Bản.Ông kế thừa
đức tính cần cù sáng tạo, chịu thương chịu khó và rắn rỏi của con người Nhật Bản,tuy
19


nhiên Kawabata vẫn không thoát khỏi vòng trầm luân đau đớn của việc mất mát người
thân và người yêu từ hôn, vì thế trong tác phẩm của ông luôn thấp thoáng một nỗi buồn
vô định trải dài và lan tỏa.Song với những trải nghiệm sống thấm đẫm nỗi buồn và mất

mát là sự cầu tiến đi lên con đường sáng tác nghệ thuật bằng tài năng văn chương của
bản thân, trước hết là tác phẩm “ Nh
Nhậật ký tu
tuổổi mườ
ườii sáu”,sau hàng loạt các tác phẩm
nổi danh khác, tên tuổi Kawabata bắt đầu được chú ý và đỉnh cao là việc ông được vinh
danh trước toàn thế giới với giải Nobel văn học năm 1968 với bộ ba tác phẩm Xứ tuy
tuyếết,
Cố đô và Ng
Ngààn cánh hạc, trở thành một đại văn hào của dân tộc Nhật Bản cũng như
trên toàn thế giới. Khi ấy,bài đề từ do Tiến sĩ Anders Osterling đọc tại buỗi lễ trao tặng
có thể xem là nghiên cứu sơ giản đầu tiên về hiện tượng văn học tài năng này : “Cũng
như người đồng hương cao niên quá cố Tanizaki, phải thừa nhận là ông đã chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện thực phương Tây, nhưng đồng thời ông vẫn lấy văn chương
cổ điển Nhật Bản làm nền tảng và nhờ đó đại diện cho một khuynh hướng rõ rệt về sự
hoài vọng và gìn giữ phong cách truyền thống thật sự của đất nước”[18] hay câu chốt
“bài diễn văn trên ca ngợi nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của ngài mà bằng sự tri cảm
lớn lao đã thể hiện bản chất tâm hồn Nhật Bản”[18]–trích lời ngài Tiến sĩ đã chỉ ra
những đặc điểm chung nhất và nét đặc rắc riêng của Y.Kawabata một cách tóm lược,
súc tích, và những nhận định này đã gián tiếp gợi ý cho chúng tôi hướng đi thực tế để
nghiên cứu về đại văn hào xứ Phù tang trong tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc.
Có ý kiến cho rằng, sáng tác của Kawabata thời kì đầu chịu tác động mạnh mẽ
của chủ nghĩa duy cảm mới và chủ nghĩa trực giác – hai làn sóng mới du nhập từ
phương Tây, nhưng chính ông thừa nhận rằng bản thân mình vẫn không thể rời bỏ
truyền thống mĩ học lâu đời của dân tộc. Nhật Bản - một nơi vốn được coi là "ốc đảo",
“ luôn “bế quan tỏa cản “ và xem thường sự phát triển của khoa học kĩ thuật, luôn luôn
hoài cổ,đã hoàn toàn thay đổi diện mạo cho đến khi Thiên Hoàng Minh Trị đề ra chính
sách Phục hưng, từ đó không chỉ khoa học kĩ thuật tiến bộ vượt trội mà văn đàn thế giới
đương thời đã thực sự ghi dấu ấn riêng của con người Nhật Bản. Tinh thần học hỏi

phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt lên phương Tây đã đưa lịch sử Nhật Bản
chuyển sang một trang mới. Đến đầu thế kỉ XX, các bản dịch văn học châu Âu đã đưa
đến cho văn học Nhật Bản những kĩ thuật, phương pháp sáng tác cực kì phong phú, hấp
dẫn đối với các nhà văn trẻ Nhật Bản. Kawabata từng khẳng định "tính chất mới" là tất
cả đồng thời ông cũng bày tỏ thái độ khó chịu trước những cách viết đã đi vào công
thức tồn tại một thời gian khá dài: "Mắt chúng ta rực cháy khát khao được biết điều
chưa biết. Những lời chào hỏi qua lại của chúng ta biểu hiện vui mừng ở chỗ hiện nay
chúng ta có thể tranh luận với nhau bất cứ điều gì là mới. Nếu một người nói "Good
morning!" và người kia trả lời: "Good morning!" thì thật buồn chán! Chúng ta hoàn
20


toàn trở nên chán ngáy văn chương vì nó không thay đổi như mặt trời ngày hôm nay
vẫn mọc chính xác ở hướng đông như ngày hôm qua" [2;tr.42].
Bởi bản thân là một nghệ sĩ thực thụ trong hành trình sáng tạo và khám phá cái
đẹp, đối với ông, khả năng tìm kiếm cái đẹp là vô hạn và bất tận,và ông mang cá tính tự
trọng của một người văn sĩ không muốn bắt chước ai và không bao giờ lập lại bản thân
mình. Ông chứng minh điều đó bằng sự nghiệp văn học đồ sộ của mình ở hầu hyết các
thể loại. Trước hết, bút pháp xây dựng tác phẩm tài tình của Y.Kawabata thể hiện trong
phần truyện ngắn, truyện ngắn được giới nghiên cứu, phê bình cũng như độc giả đánh
giá rất cao,được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Việt: Cánh tay, Vũ nữ Izu,
ủy nguy
ú... Ngoài những thành tựu
Th
Thủ
nguyệệt, Ti
Tiếếng gieo xúc xắc ban khuya, Về chim và th
thú
trong lĩnh vực truyện ngắn, Kawabata còn tạo được dấu ấn riêng của mình trong lòng
độc giả với những truyện có độ dài tương đối gọn và súc tích- cách hành văn quen

thuộc của ông qua Truyện trong lòng bàn tay, được phổ biến rộng và độc giả khắp nơi
thưởng thức. Bản thân Kawabata phải công nhận rằng "đó là những truyện mà tôi hài
lòng nhất", chúng được viết rải rác trong một thời gian dài, từ năm 1921 cho đến năm
1972 và nhà văn gọi chúng là Tanagokoro no shosetsu (hay Truy
Truyệện trong lòng bàn tay).
Một đặc điểm chung dễ nhận thấy là văn chương Nhật Bản rất cô đọng, hàm súc, và
những truyện trong lòng bàn tay của Kawabata cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Mỗi
câu chuyện của ông chỉ có vài trang (có những chuyện chưa đến một trang) nhưng lại
chứa đựng những triết lí sâu xa về cuộc sống, con người và vũ trụ. Người ta tìm thấy sự
tương tác, gần gũi giữa thể thơ Haiku truyền thống Nhật Bản và những Truyện trong
lòng bàn tay của Kawabata ở sự ngắn gọn mà cô đọng, súc tích ấy. Kawabata từng phát
biểu: "Rất nhiều nhà văn, khi còn trẻ, đã làm thơ, còn tôi, thay vì làm thơ, lại viết
Truyện trong lòng bàn tay...Linh hồn thi ca những ngày tuổi trẻ của tôi nằm trong
chúng” [7;tr.43]. Truyện trong lòng bàn tay của Kawabata là sự kết tinh tất cả tinh hoa
của một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và tài năng thực sự. Suốt thời tuổi trẻ, Kawabata
đã cảm nhận thấm thía sự khắc nghiệt,cô đơn và đôi khi là tuyệt vọng,và chính sự cô
đơn đó đã làm xúc tác cho việc vươn lên mạnh mẽ của một tài năng nghệ thuật. Lúc
buồn chán và mất niềm tin nhất, nhà văn trẻ tìm cách rũ bỏ mọi sự chật vật, u tối của
làng quê bằng cách làm quen với cuộc sống nhộn nhịp của thành thị. Sau khi bị người
tình nhỏ tuổi phụ bạc, mùa thu năm 1918, ông đã cuốc bộ một mình hầu như khắp đảo
Izu còn thưa thớt dân cư khi ấy và rồi kiệt tác đầu tiên được ra đời năm 1926: Vũ nữ
Izu (Izu-no Odoriko). Tác phẩm kể về hành trình gặp gỡ và chia tay của chàng sinh
viên cao đẳng với cô vũ nữ trẻ trong một gánh hát gia đình lưu động. Người kể chuyện
bị cuốn hút bởi một cô vũ nữ trẻ nhất trong nhóm mà anh gặp ở miền Izu. Anh đã nghĩ
đến việc đề nghị cô qua đêm với mình nhưng tình cờ anh phát hiện cô trần truồng trong
21


làn hơi nước suối nước nóng ngoài trời, anh nhận thấy cô vẫn còn là một đứa trẻ, dù
đầu tóc và cách sửa soạn của cô thì đã lớn. Phát hiện bí mật đó không làm anh sinh viên

thất vọng mà còn đưa anh khỏi sự ức chế. Câu chuyện khép lại nhưng để lại trong lòng
độc giả "một niềm thư thái dịu dàng” bởi kĩ thuật của Kawabata trong việc chụp lại
không khí vùng Izu và miêu tả sinh động những hình ảnh mà ông phóng tác ra
được.Văn phong của Yasunari Kawabata trong tác phẩm này tương tự như của các nhà
văn nhóm Ấn tượng người Pháp sau Đệ Nhất thế chiến.
Trận động đất kinh hoàng vào năm 1923 đã xảy ra tại thành phố Tokyo,Yasunari
Kawabata đã đi lang thang trong nhiều khu phố của nơi này, vào ban ngày cũng như
ban đêm, tay cầm cuốn sổ ghi, quan sát những cảnh tàn phá vì thiên tai, các cảnh đau
khổ của các nạn nhân. Những xúc cảm được nhà văn mô tả trong cuốn “Băng Đảng
Asakusa” (Asakusa Kurenai Dan = The Asakusa Crimson Gang, 1929 – 1930). Tác
phẩm này được đăng trên Nhật Báo Asahi của Tokyo, mang lại danh tiếng cho nhà văn
bởi vì qua tác phẩm, tác giả không muốn mô tả khu phố Asakusa theo chiều hướng xã
hội, mà muốn chia sẻ với độc giả các cảm xúc theo cách của các nhà văn Tân Duy Cảm
(New Sensationalists).
Sau đó,Y.Kawabata chính thức khởi nghiệp việc làm biên tập cho tạp chí Bungei
shunjū (Văn nghệ xuân thu, 1923) vào năm 1923. Chỉ một năm sau đó, khi tốt nghiệp
khoa văn học trường Đại học đế chế Tōkyo năm 1924, khát vọng mang lại một “cảm
giác mới” cho văn đàn Nhật Bản thôi thúc ông cùng các tiểu thuyết gia tiên phong
Yokomitsu Riichi (1898-1947), Kataoka Tetsubei (1894-1944), Nakagawa Yoichi
(1897-1994) sáng lập Văn phái Tân cảm giác (Shinkankaku-ha) cùng cơ quan ngôn
luận là tạp chí Bungei jidai (Văn nghệ thời đại, 1924-1927). Trong thời gian này, bị hấp
dẫn bởi làn sóng phương Tây hóa thứ hai tại Nhật Bản, lý thuyết thẩm mỹ, phương
pháp luận phê bình văn học và nhiều sáng tác của Kawabata Yasunari chịu ảnh hưởng
từ nền học thuật châu Âu đương thời, bao gồm chủ nghĩa ấn tượng Pháp qua đại diện
Marcel Proust (1871-1922), thủ pháp dòng ý thức trong sáng tác của James Joyce
(1882-1931) và lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud (1856-1939). Tuy nhiên,
càng về sau Kawabata càng ngả về truyền thống dân tộc nhiều hơn, đặc biệt là sự tiếp
nhận tinh hoa mỹ học Thiền đạo (Zendō) để xây dựng lý thuyết mỹ học của riêng mình.
Phong cách hành văn của Kawabata Yasunari luôn được đặt giữa mối tương
giao truyền thống và hiện đại nói trên, trở nên rất phức tạp bởi sự dung hòa những giá

trị Đông-Tây nhưng vẫn mang đậm dấu ấn sáng tạo của cá nhân và phong khí của thời
đại. Trong bài viết này, dựa trên cảm hứng từ tác phẩm chính Ng
Ngààn cánh hạc và một số
tác phẩm đương thời của Kawabata,diễn từ Nobel và một số tiểu luận bàn về cái đẹp,
chúng tôi làm sáng tỏ đôi nét về quan niệm thẩm mỹ, lý thuyết sáng tác và đặc sắc nghệ
22


thuật, nội dung của Kawabata dưới lăng kính của một hệ thống mỹ học, đồng thời cũng
thử truy nguyên những quan niệm đó trên một vài giác độ của văn hóa truyền thống
Nhật Bản. Năm 1930, nhà văn bị coi là chịu ảnh hưởng của James Joyce khi tác phẩm
“Ulysses
Ulysses” được Ito Sei và các người cộng tác dịch ra tiếng Nhật vào năm 1930. Tác
phẩm này của Kawabata đã mô tả các nội tâm của nhân vật Asako, người vợ đã làm
nhiều điều sai trái vì ghen tuông khi tìm thấy một tấm hình đàn bà khác trong tủ hồ sơ
của chồng, và tác giả đã mô tả sự liên hệ yêu - ghét trong tâm hồn của Asako theo cách
phân tích của Freud.
Sáng tác của kawabata luôn thể hiện nét tư duy thẩm mí độc đáo và tâm hồn
nghệ thuật xứ hoa anh đào. Và trong đó có mảng truyện ngắn.Truyện ngắn của
Kawabata ta không thể không nói đến truyện ngắn Cánh tay (1963-1964). Đó là câu
chuyện kể về đêm âu yếm của nhân vật tôi với cánh tay của người yêu.Ngay sau khi
xuất bản, tác phẩm đã được các nhà phê bình so sánh với những bức tranh của trường
phái siêu thực, khả năng tưởng tượng của nó đã làm cho tác phẩm trở nên đặc biệt lôi
cuốn. Đây cũng là thời kì Kawabata đặc biệt chịu ảnh hưởng của trường phái văn
chương phương Tây. Ngoài chủ nghĩa siêu thực, thủ pháp “dòng ý thức”, người ta còn
tìm thấy dấu vết của Tân phân tâm học. Nhưng âm hưởng trở về phương Đông đã khiến
tác phẩm của ông sau này không chỉ đề cập đến các vấn đề truyền thống trong buổi giao
thời mà còn cho thấy những ảnh hưởng của Thiền tông và văn chương cổ điển Nhật Bản.
Thế nhưng, đỉnh cao của thành công trong sự nghiệp văn chương của Kawabata
là thể loại tiểu thuyết, ông thật sự là một tiểu thuyết gia chuyên hiệp và nhạy bén trước

cái nhìn thời đại. Bộ ba tiểu thuyết Xứ tuy
tuyếết (1947), Ng
Ngààn cánh hạc (1951), Cố
đô(1961) đã mang về cho Kawabata giải Nobel văn học làm rạng danh cả một vùng trời
văn học xứ xở hoa anh đào.
Tiểu thuyết Xứ tuy
tuyếết được viết và chỉnh sửa trong một thời gian dài, từ năm
1934 đến năm 1947, nó được xem là tiểu thuyết đầu tiên của Kawabata, tiểu thuyết
được đăng nhiều kỳ trên nhật báo suốt hơn mười năm mới được hoàn tất. Như nhiều
người nhận xét thì cốt truyện của Xứ tuy
tuyếết vừa đơn giản nhưng cũng vừa khó nắm bắt.
Đọc Xứ tuy
tuyếết, người đọc như được đắm mình trong một vùng thiên nhiên hoang sơ và
đẹp như trong huyền thoại, những suối nước nóng với lữ quán nhỏ, những ngọn đồi
tuyết phủ trắng xóa vào mùa đông và bạt ngàn lau rừng vào mùa thu... Xứ tuy
tuyếết là một
bài thơ về thiên nhiên cảnh sắc, bài ca về một tình yêu vô vọng nhưng đó cũng là nơi
tìm lại mình của những thanh niên Nhật Bản như Shimamura trong cơn lốc giao thời.
Tiếp theo ánh hào quang mà Xứ tuy
tuyếết đã mang về cho nhà văn tài ba, tác phẩm
Ng
Ngààn cánh hạc ra đời. Nhân vật chính trong tác phẩm Ng
Ngààn cánh hạc là Mitani Kikuji,
đã hành động giống như Shimamura trong cuốn tiểu thuyết Xứ tuy
tuyếết. Nhờ vai trò của
23


Mitani, các người đàn bà trong cuộc đời của ông ta: bà Ota, con gái của bà này là
Fumiko, cùng các người phụ nữ khác như cô Kurimoto và cô Inamura, từng người một

đã bộc lộ ra các cá tính. Chủ đích của nhà văn là ca ngợi vẻ đẹp của Trà đạo, của các
nghi thức uống trà và tác giả tiếc nuối lễ uống trà đã bị biến chất tới trình độ tầm
thường vì tính thương mại hóa. Trong lễ uống trà, mỗi đồ vật đều mang các vẻ đặc biệt
và trên hết là vẻ đẹp thuần chất của người con gái quấn chiếc khăn quàng có in hình
một Ng
Ngààn cánh hạc. Cô Inamura chỉ xuất hiện ngắn hạn trong hai cảnh trí và nói rất ít
nhưng đã là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản. Vẻ đẹp của Xứ tuy
tuyếết, của các
mùa, của người nữ hòa quyện trên từng trang sách, đẹp như thơ, đưa tác phẩm ngay lập
tức trở thành kinh điển, và như lời Edward G.Seidensticker: “ có lẽ là kiệt tác của
Kawabata, đã đưa Kawabata vào số những nhà văn hàng đầu nước Nhật”.
Sau thành công rực rỡ của Ng
Ngààn cánh hạc- nước Nhật vừa trải qua cuộc chiến
thế giới lần hai, Kawabata lại tiếp tục cho ra đời một kiệt tác khác, tiểu thuyết Cố đô.
Đọc tác phẩm, người đọc có cơ hội khám phá cái đẹp lặng lẽ của thiên nhiên xứ sở mặt
trời mọc với hoa anh đào,với tuyết trắng, tác phẩm còn làm toát lên vẻ đẹp của 18
Thành phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên
dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Tuy nhiên, dù mang phong vị
của một tiểu thuyết khảo cứu phong tục nhưng đây cũng là một cuốn tiểu thuyết tâm lí
sắc sảo với việc đi sâu tìm hiểu thế giới nội tâm nhân vật.
Bằng khả năng sáng tạo và làm việc không ngừng nghỉ, từ năm 1950-1952,
Kawabata tiếp tục cho ra đời cuốn tiểu thuyết Ti
Tiếếng rền của núi được viết bằng thế
giới cảm giác sâu sắc của ông. Tác phẩm đề cập đến cõi chết và những dự cảm về cái
chết. Tác phẩm kể về một gia đình người Nhật Bản tiêu biểu sau chiến tranh, gia đình
ông Shingo. Với cách miêu tả đặc biệt nhạy cảm, các nhân vật trong tác phẩm Tiếng rền
của núi khiến cho các nhà phê bình coi đây là sáng tác bậc nhất của Yasunari Kawabata.
Yamamoto Kenkichi đã viết rằng: “Tiếng rền của núi không chỉ là một tác phẩm của
Kawabata mà còn là tác phẩm đứng đầu của nền Văn chương Nhật Bản hậu chiến”
[17;tr.48]. Tác phẩm đã phối hợp được các gợi cảm thơ mộng, trữ tình trong thể văn

cùng với cốt truyện hấp dẫn, éo le, mô tả một thế giới nhỏ, không thể quên được, bên
trong thế giới lớn hơn là nước Nhật Bản hậu chiến.
Vào năm 1954, Yasunari Kawabata cho phổ biến dần dần trên nhật báo cuốn tiểu
thuyết Cái Hồ. Do đã từng đọc nhiều tác phẩm và chịu ảnh hưởng to lớn từ Sigmund
Freud nên trong tác phẩm này cũng chứa nhiều bạo lực hơn các cuốn tiểu thuyết khác
và tác giả Yasunari Kawabata thường xuyên liên hệ hiện tại với quá khứ và các giấc mơ.
Năm 1955, Yasunari Kawabata hoàn thành một loạt bài viết dài nhất đăng trên
ườ
nhật báo, với tên là Ng
Ngườ
ườii Tokyo rồi năm sau là cuốn tiểu thuyết Câu chuy
chuyệện của một
24


×