Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.75 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 – 2013
ĐỀ TÀI

THU THẬP, BẢO QUẢN VÀ XỬ LÝ
VẬT CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Giáo viên hướng dẫn:
ThS. Mạc Giáng Châu
Bộ môn Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Đoàn Thanh Bình
MSSV: 5095403
Lớp: Tư Pháp 1 – K35
Cần Thơ, 5/2013


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHỨNG ...................4
1.1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................................4
1.1.1.


Khái niệm chứng cứ .................................................................................4
1.1.1.1.
Định nghĩa chứng cứ ........................................................................4
1.1.1.2.
Thuộc tính của chứng cứ ..................................................................6
1.1.1.3.
Phân loại chứng cứ...........................................................................8
1.1.2.
Khái niệm vật chứng............................................................................... 11

1.2.

1.1.2.1.

Định nghĩa vật chứng ..................................................................... 11

1.1.2.2.
1.1.2.3.

Đặc điểm của vật chứng.................................................................. 12
Phân loại vật chứng ........................................................................ 13

Cơ sở lý luận về vật chứng............................................................................ 16

1.2.1.
1.2.2.

Mối quan hệ giữa vật chứng và chứng cứ.............................................. 16
Vị trí, vai trò của vật chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ... 17


1.2.3.

Ý nghĩa của vật chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự........... 19

1.2.4.

Nguyên tắc của việc thu thâp, bảo quản và xử lý vật chứng .................. 20

CHƯƠNG 2. THU THẬP, BẢO QUẢN VÀ XỬ LÝ VẬT CHỨNG TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ.......................................................................................................... 24
2.1. Thu thập vật chứng....................................................................................... 24
2.1.1.
Biện pháp thu thập vật chứng ................................................................ 24
2.1.2.
Chủ thể thu thập vật chứng .................................................................... 28
2.1.3.
Trình tự, thủ tục thu thập vật chứng ...................................................... 29
2.2. Bảo quản vật chứng ...................................................................................... 32
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.

Biện pháp bảo quản vật chứng............................................................... 32
Chủ thể bảo quản vật chứng................................................................... 35
Trình tự, thủ tục bảo quản vật chứng..................................................... 36

2.3. Xử lý vật chứng ............................................................................................. 38
2.3.1.
Biện pháp xử lý vật chứng...................................................................... 38
2.3.2.

Chủ thể xử lý vật chứng ......................................................................... 41
2.3.3.

Trình tự, thủ tục xử lý vật chứng ........................................................... 42

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ................................. 44
3.1. Về mặt pháp lý .............................................................................................. 44
3.1.1.

Thu thập vật chứng ............................................................................... 44

3.1.2.
Bảo quản vật chứng ............................................................................... 46
3.1.2.1.
Chủ thể bảo quản vật chứng ........................................................... 46

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

3.1.2.2.
Bảo quản vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ ...................................................... 47
3.1.3.
Xử lý vật chứng...................................................................................... 49

3.1.3.1.
Biện pháp xử lý vật chứng .............................................................. 49
3.1.3.2.
Trình tự, thủ tục xử lý vật chứng .................................................... 53
3.2. Về mặt thực tiễn ............................................................................................ 54
3.2.1.
Về việc đảm bảo nguyên tắc kịp thời, đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục khi
thu thập vật chứng................................................................................................. 54
3.2.1.1.
3.2.1.2.

Tồn tại ............................................................................................. 54
Giải pháp......................................................................................... 55

3.2.2.
Về việc đảm bảo nguyên tắc bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát,
lẫn lộn, hư hỏng vật chứng ................................................................................... 56
3.2.2.1.
Tồn tại ............................................................................................. 56
3.2.2.2.
Giải pháp......................................................................................... 58
3.2.3.

Về việc xử lý vật chứng trong vụ án hình sự .......................................... 59

3.2.3.1.
3.2.3.2.

Tồn tại ............................................................................................. 59
Giải pháp......................................................................................... 60


KẾT LUẬN .................................................................................................................. 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Đấu tranh và phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội mà trước
hết là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Một khi có
vụ án hình sự xảy ra, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng là phải sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để chứng minh và làm rõ sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để từ đó có cơ sở cho việc ra
các quyết định giải quyết đúng đắn vụ án. Muốn chứng minh và làm rõ sự thật
khách quan của vụ án thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải xác định được những chứng cứ cần thiết làm cơ sở cho việc chứng minh.
Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh, thông qua chứng cứ sẽ giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định được những vấn đề cần
phải chứng minh trong vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS 2003) quy
định chứng cứ được xác định bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có vật

chứng. Vật chứng là một trong những nguồn cung cấp chứng cứ đầu tiên và quan
trọng. Thông qua vật chứng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
có thể rút ra được các chứng cứ cần thiết cho việc chứng minh tội phạm và người
phạm tội cũng như những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của vật chứng trong thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự mà BLTTHS 2003 đã có những quy định cụ thể để điều chỉnh về vấn
đề thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng. Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng là
ba hoạt động tố tụng quan trọng diễn ra liền kề và đan xen nhau trong quá trình
giải quyết vụ án. Thu thập vật chứng không ngoài mục đích tìm kiếm chứng cứ
phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án; bảo quản vật chứng trước hết là bảo vệ giá
trị chứng minh, bảo vệ chứng cứ mà vật chứng chứa đựng; xử lý vật chứng nhằm
mục đích tước đoạt công cụ, phương tiện phạm tội, khôi phục lại các quyền sở hữu
và quản lý hợp pháp Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội xâm hại, cũng
như làm giảm nhẹ gánh nặng trách nhiệm bảo quản vật chứng. Việc áp dụng đúng
đắn các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng góp phần quan trọng
vào việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách quan, toàn diện và
đầy đủ. Bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá
nhân bị hành vi phạm tội xâm hại. Tuy nhiên, những quy định về thu thập, bảo
quản và xử lý vật chứng trong BLTTHS 2003 vẫn còn nhiều điểm chưa được quy
định, hướng dẫn rõ ràng và cụ thể, từ đó dẫn đến những khó khăn, vướng mắc khi
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự


áp dụng. Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý
vật chứng trên thực tiễn vẫn còn tồn tại nhiều bất cập gây ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình giải quyết vụ án. Để nhằm hiểu rõ hơn về vai trò cũng như thực tiễn
áp dụng các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong quá trình giải
quyết vụ án. Từ đó, phát hiện ra những điểm còn tồn tại và đề xuất những ra giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật
chứng, giúp cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, khách quan, toàn
diện và đầy đủ, góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh và phòng chống tội
phạm thì việc tìm hiểu, giải thích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về việc thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng có ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì
vậy, người viết đã quyết định chọn đề tài “Thu thập, bảo quản và xử lý vật
chứng trong tố tụng hình sự” để tìm hiểu và nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp.
2.

Mục tiêu nghiên cứu

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng là chuỗi các hoạt động tố tụng có liên
quan với nhau và có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án
hình sự. Kết quả của hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng là một trong
những nhân tố quan trọng góp phần quyết định đến kết quả của toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án. Nếu việc thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng không được quy
định cụ thể cũng như thực hiện tốt sẽ dẫn đến những khó khăn nhất định, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả của quá trình giải quyết vụ án. Thông qua việc
nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng và việc
vận dụng các quy định này trên thực tiễn. Từ đó, người viết mong muốn làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng, đồng thời chỉ ra
những tồn tại, thiếu sót của quy định pháp luật về thu thập, bảo quản và xử lý vật
chứng cũng như trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong

BLTTHS 2003, phục vụ có hiệu quả cho quá trình giải quyết vụ án, góp phần vào
công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm.
3.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài: “Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự” là
một đề tài phức tạp cả về mặt lý luận cũng như trên thực tiễn. Tuy nhiên, do thời
gian nghiên cứu còn hạn hẹp, kiến thức và kinh nghiệm bản thân còn non yếu nên
người viết chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu một số vấn đề về lý luận cũng như
những quy định cụ thể trong BLTTHS 2003 về thu thập, bảo quản và xử lý vật
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

chứng. Trong phạm vi đề tài, người viết nghiên cứu xoay quanh các vấn đề liên
quan đến định nghĩa, thuộc tính, phân loại chứng cứ; định nghĩa, đặc điểm, phân
loại vật chứng; mối quan hệ giữa vật chứng, chứng cứ; vị trí, vai trò, ý nghĩa của
vật chứng; những quy định về nguyên tắc của việc thu thập, bảo quản và xử lý vật
chứng; biện pháp, chủ thể, trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng.
Thông qua đó, người viết chỉ ra những tồn tại về mặt pháp lý cũng như trên thực
tiễn áp dụng các quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng. Từ đó đưa ra
các giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện.

4.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải
cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong đề tài nghiên cứu này người viết sử dụng kết hợp một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở; phương
pháp phân tích luật viết; phương pháp phân tích, tổng hợp các thông tin trong một
số sách, công trình nghiên cứu, bài viết và tạp chí chuyên ngành có liên quan. Từ
đó, người viết vận dụng vào việc nghiên cứu đề tài này.
5.

Bố cục đề tài

Bố cục đề tài: Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính của đề tài được bố trí thành 3 Chương bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vật chứng.
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, bảo
quản và xử lý vật chứng.
Chương 3: Một số tồn tại và giải pháp đề xuất.
Vì thời gian nghiên cứu có hạn, việc tìm kiếm tài liệu còn hạn chế, và cũng
đây là lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài luận văn tốt nghiệp mang tính
khoa học. Vì vậy, chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót, sai phạm trong việc
phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật cũng như những bất cập còn tồn tại
trên thực tiễn của việc thu thập, bảo quản và xử ý vật chứng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến,
đánh giá, phê bình của quý Thầy, Cô để đề tài được hoàn thiện hơn.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


3

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHỨNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm chứng cứ
1.1.1.1. Định nghĩa chứng cứ
Bản chất của quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động chứng minh.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, tuy nhiên ở
giai đoạn nào thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng nhằm
mục đích chứng minh và làm rõ có hành vi phạm tội xảy ra hay không, ai là chủ
thể thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết cần thiết khác giúp cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Để chứng minh và làm sáng tỏ những vấn đề trên
đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố phải xác định được những
chứng cứ cần thiết phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án.
Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh nhằm xác định các tình tiết
có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nhờ vào chứng cứ mà
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng làm rõ được những vấn đề
cần phải chứng minh từ đó có những quyết định giải quyết đúng đắn vụ án. Khi
bàn về định nghĩa chứng cứ, đã có nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra trong
khoa học Luật tố tụng hình sự. Chẳng hạn như:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Chứng cứ trong vụ án hình sự là những
thông tin xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội được nghi
nhận hoặc lưu giữ trong các nguồn do luật định, được thu thập theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm
căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án”1.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Chứng cứ trong vụ án hình sự là những thông
tin có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định
mà cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay
không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án hình sự”2.

1

Đỗ Văn Đương, Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 15.
Trần Quang Tiệp, Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, tr.
30.
2

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Quan điểm thứ ba cho rằng: “Chứng cứ là những cái có thật mang những

thông tin xác thực về sự kiện thực tế có liên quan đến vụ án hình sự, được thu thập
theo trình tự do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà cơ quan và người có thẩm
quyền tố tụng hình sự dùng để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án hình sự”3.
Dù các quan điểm định nghĩa về chứng cứ nói trên khác nhau về hình thức
diễn đạt ngôn từ, nhưng khi xét về nội dung chúng đều có những điểm chung nhất
định. Đều khẳng định chứng cứ là những gì có thật tồn tại trong thực tế khách
quan, phản ánh đúng thực tế khách quan, có liên quan nhất định đến vụ án hình sự
và được thu thập theo những trình tự, thủ tục nhất định do Bộ luật tố tụng hình sự
quy định để làm căn cứ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Xác định được tầm quan trọng của chế định chứng cứ, cũng như đáp ứng
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, BLTTHS 2003 trên cơ sở kế thừa Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 (BLTTHS 1988) đã nêu định nghĩa một cách khái
quát về chứng cứ tại khoản 1 Điều 64, theo đó: “Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”.
Từ định nghĩa chứng cứ được quy định tại khoản 1 Điều 64 trong BLTTHS
2003 cho thấy, chứng cứ trước hết phải là “những gì là có thật”, những gì có thật ở
đây có thể hiểu là những thông tin có thật và có liên quan về vụ án hình sự được
phản ánh bởi những đối tượng khác nhau tồn tại trong môi trường xung quanh, do
quá trình thực hiện tội phạm, người phạm tội đã tác động vào những đối tượng này.
Thông qua việc thu thập và khai thác những thông tin có thật và có liên quan đến
vụ án sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng làm rõ những
vấn đề cần phải chứng minh từ đó xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh
những gì có thật và có liên quan đến vụ án, định nghĩa chứng cứ còn quy định
chứng cứ phải được thu thập theo những trình tự, thủ tục nhất định do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định. Việc tuân thủ những trình tự, thủ tục khi thu thập chứng cứ
nhằm bảo đảm giá trị pháp lý và tính minh bạch của chứng cứ trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự.

3

Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 80.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Như vậy, chứng cứ phải là những gì có thật và có liên quan về vụ án được
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập theo những trình tự,
thủ tục nhất định do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.1.2. Thuộc tính của chứng cứ
Căn cứ vào định nghĩa về chứng cứ được quy định tại khoản 1 Điều 64
BLTTHS 2003 cho thấy, những gì được xem là chứng cứ đòi hỏi phải đáp ứng đầy
đủ các thuộc tính sau đây:
Thuộc tính khách quan: theo Đại từ điển tiếng Việt thì khách quan là :
“Cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người”4. Chứng cứ
trước hết phải là những gì có thật, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của con người. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chổ nó tồn tại
trong thực tế khách quan, phản ánh một cách trung thực những tình tiết của vụ án

đã xảy ra, không bị bóp méo, giả tạo hay do suy đoán, tưởng tượng mà có. Đây là
thuộc tính cơ bản nhất của chứng cứ.5 Thuộc tính này của chứng cứ đòi hỏi các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự phải
tôn trọng sự thật, không duy ý chí, chủ quan để áp đặt. Nếu những gì là có thật
nhưng được các chủ thể giải quyết vụ án nhận thức không đúng, chủ quan, suy
diễn, áp đặt thì sẽ mất đi thuộc tính khách quan và không được công nhận là chứng
cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, thuộc tính khách quan của chứng
cứ là cơ sở quan trọng đảm bảo để giải quyết đúng đắn vụ án. Nếu thuộc tính
khách quan của chứng cứ không được đảm bảo có thể sẽ dẫn đến quá trình giải
quyết vụ án không còn chính xác, khách quan, xử lý không đúng người, đúng tội,
dẫn đến kết tội oan hoặc để lọt tội phạm.
Thuộc tính liên quan: thuộc tính này đòi hỏi những gì là có thật, tồn tại
khách quan phải có mối liên hệ khách quan nhất định đến những vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án hình sự. Chứng cứ được cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự,
vì vậy đòi hỏi chứng cứ phải có thuộc tính liên quan. Thuộc tính liên quan của
chứng cứ thể hiện ở chổ nó có liên quan đến những vấn đề cần phải chứng minh
4
5

Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 884.
Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2005, tr. 82.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Đoàn Thanh Bình



Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

trong vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng có thể thu thập được nhiều tài liệu, sự kiện khác nhau
tồn tại khách quan nhưng chỉ được coi chứng cứ khi nó có liên quan đến vụ án.
Nếu những gì tồn tại khách quan nhưng không có liên quan đến vụ án thì không
phải là chứng cứ.
Thuộc tính liên quan của chứng giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng xác định được những gì cần thiết cho quá trình giải quyết đúng
đắn vụ án, tránh tình trạng thu thập một cách tràn lan, gây tốn kém, lãng phí.
Thuộc tính liên quan là thuộc tính không thể thiếu của chứng cứ.
Thuộc tính hợp pháp: tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện chứng cứ phải
được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng trình tự, thủ tục mà Luật tố tụng hình
sự đã quy định. Tính hợp pháp của chứng cứ có nền tảng là nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ trong tố tụng hình sự6. Đây là nguyên tắc Hiến định, đòi hỏi các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự
phải tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án nói chung và những quy định về trình tự, thủ tục thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ nói riêng. Tuân thủ những trình tự, thủ tục khi thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ là đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ và góp phần bảo
đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
Ngoài việc chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo những trình
tự, thủ tục nhất định thì tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi chứng cứ phải được
xác định từ những nguồn nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2003 thì chứng cứ được xác định
bằng những nguồn sau: “Vật chứng ; lời khai của người làm chứng, người bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ; kết luận giám định ; biên bản
về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”. Đây là những nguồn hợp
pháp giúp xác định chứng cứ. Nếu những gì là có thật, liên quan đến vụ án nhưng
không được rút ra từ các nguồn chứng cứ và không được thu thập, kiểm tra, đánh
giá theo đúng những trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì sẽ
không đáp ứng thuộc tính hợp pháp và không được xem là chứng cứ trong vụ án.
Tính hợp pháp nhằm đảm bảo cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh.
6

Điều 3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. “ Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định
của Bộ luật này.”

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Như vậy, chứng cứ trong vụ án hình sự phải đáp ứng đầy đủ ba thuộc tính:
tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Tính khách quan và tính liên
quan là nội dung của chứng cứ còn tính hợp pháp là hình thức của chứng cứ. Ba
thuộc tính này của chứng cứ là một thể thống nhất, có mối quan hệ nội tại, gắn bó
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu thiếu một trong ba thuộc tính trên thì một

tài liệu, sự kiện sẽ mất đi giá trị chứng minh và không thể trở thành chứng cứ trong
vụ án hình sự.
1.1.1.3. Phân loại chứng cứ
Phân loại chứng cứ là việc phân chia chứng cứ thành những loại khác nhau
dựa trên những tiêu chí nhất định. Xuất phát từ những tiêu chí khác nhau mà khoa
học Luật tố tụng hình sự có những cách phân chia chứng cứ khác nhau. Chứng cứ
được phân thành những loại sau:
Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp. Cách phân loại chứng cứ này
dựa trên tiêu chí mối quan hệ giữa chứng cứ và những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án hình sự:
Chứng cứ trực tiếp: là chứng cứ mà dựa vào nó có thể xác định được ngay
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Bằng chứng cứ trực tiếp các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể kết luận được ngay có hành
vi phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, yếu tố lỗi,
động cơ, mục đích phạm tội cũng như những tình tiết khác cần phải chứng minh
trong quá trình giải quyết vụ án. Do có liên hệ trực tiếp đến những vấn đề cần phải
chứng minh nên chứng cứ trực tiếp có giá trị chứng minh cao trong quá trình giải
quyết vụ án.
Chứng cứ gián tiếp: là chứng cứ không trực tiếp làm rõ ngay những vấn đề
cần phải chứng minh nhưng khi kết hợp với các tình tiết khác sẽ giúp xác định
được những vấn đề cần phải chứng minh. Khác với chứng cứ trực tiếp, chứng cứ
gián tiếp chỉ chứng minh được tính liên quan đến vụ án đã xảy ra chứ chưa cho
phép xác định được ngay những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Muốn
xác định được phải đặt chứng cứ gián tiếp bên cạnh những tình tiết, sự kiện khác
có liên quan đến vụ án để từ đó so sánh, đối chiếu tìm ra mối liên hệ nhất định đi
đến làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án.
Việc phân loại chứng cứ thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Nếu là
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


8

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

chứng cứ trực tiếp sẽ xác định được ngay những vấn đề cần phải chứng minh, từ
đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dễ dàng xác định sự
thật khách quan của vụ án, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án. Ngược lại, nếu
là chứng cứ gián tiếp thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải tìm kiếm, thu thập thêm những tình tiết, sự kiện khác để kết hợp với chứng cứ
gián tiếp từ đó xác định được những vấn đề cần phải chứng minh.
Chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép, thuật lại. Cách phân loại chứng cứ
này dựa trên tiêu chí nguồn gốc xuất xứ mà chứng cứ được rút ra:
Chứng cứ gốc: là chứng cứ được rút ra từ nguồn xuất xứ đầu tiên mà không
qua khâu trung gian. Nguồn xuất xứ đầu tiên của chứng cứ là nguồn trực tiếp tiếp
nhận và phản ánh những thông tin về vụ phạm tội ngay khi hành vi phạm tội được
thực hiện. Do được rút ra từ nguồn xứ xứ đầu tiên mà không phải trải qua khâu
trung gian nào nên mức độ chính xác về thông tin của chứng cứ càng cao, giúp các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dễ dàng tiếp cận sự thật của vụ
án.
Chứng cứ sao chép, thuật lại: là chứng cứ không được được rút ra từ nguồn
xuất xứ đầu tiên mà thông qua một hay nhiều khâu trung gian. Mặc dù chứng cứ
sao chép, thuật lại được rút ra từ những nguồn trung gian nhưng vẫn phải đảm bảo
tính liên quan với nguồn xuất xứ đầu tiên của chứng cứ. Do được thu thập qua
những nguồn trung gian nên tính chính xác về những thông tin của chứng cứ có
phần hạn chế hơn so với chứng cứ gốc ban đầu.

Việc phân loại chứng cứ thành chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép, thuật lại
có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ
gốc có giá trị chứng minh cao hơn chứng cứ sao chép, thuật lại do mức độ chính
xác của thông tin trong chứng cứ gốc cao hơn chứng cứ sao chép, thuật lại. Vì vậy,
để giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải thu được những chứng gốc. Nói như vậy không
có nghĩa là chỉ quan tâm thu thập những chứng cứ gốc mà xem nhẹ những chứng
cứ sao chép, thuật lại. Trong nhiều trường hợp, chứng cứ sao chép, thuật lại cũng
giúp khẳng định, củng cố giá trị chứng minh của chứng cứ gốc. Vì vậy, phải quan
tâm thu thập cả chứng cứ gốc kết hợp với chứng cứ sao chép nhằm đảm bảo giải
quyết vụ án được toàn diện, đầy đủ.
Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Cách phân loại chứng cứ này căn
cứ vào tiêu chí mối quan hệ giữ chứng cứ và đối tượng bị buộc tội:
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Chứng cứ buộc tội: là chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của người đó. Các chứng
cứ buộc tội tập trung vào việc chứng minh một người là có tội và phải chịu trách
nhiệm hình sự tương ứng. Bên cạnh đó, chứng cứ buộc tội còn là những chứng cứ
xác định hành vi phạm tội thuộc các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm
hình sự được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự 1999 (BLHS 1999). Đây là

những chứng cứ mang tính chất bất lợi và làm xấu đi tình trạng pháp lý cho người
phạm tội. Chứng cứ buộc tội được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng dùng làm cơ sở cho việc ra các quyết định khởi tố, truy tố, xét xử, xác định
tội danh, định khung hình phạt,… cho người phạm tội.
Chứng cứ gỡ tội: là chứng cứ xác định không có sự việc phạm tội hoặc các
tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người thực hiện tội phạm. Trái lại
với chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội lại tập trung vào việc bác bỏ khả năng
phạm tội của một người, chứng minh là họ không phạm tội, hành vi của họ không
cấu thành tội phạm hoặc cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Chứng cứ gỡ tội cũng là những chứng cứ chứng minh
hành vi phạm tội thuộc những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại Điều 46 BLHS 1999. Chứng cứ gỡ tội là căn cứ đề các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng hủy bỏ các quyết định khởi tố vụ án, đình chỉ vụ án,
đình chỉ điều tra, truy tố về tội nhẹ hơn, miễn hoặc giảm trách nhiệm hình
sự,…cho người phạm tội.
Việc phân loại chứng cứ thành chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ buộc tội cùng
với chứng cứ gỡ tội giúp xác định sự thật của vụ án được khách quan, toàn diện và
đầy đủ. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi
tiến hành giải quyết vụ án phải thu thập đầy đủ cả những chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội. Tránh khuynh hướng chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà bỏ qua
hoặc xem nhẹ những chứng cứ gỡ tội sẽ dẫn đến quá trình giải quyết vụ án không
chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Việc phân chia chứng cứ thành những loại khác nhau chỉ mang tính tương
đối. Một chứng cứ có thể là chứng cứ trực tiếp trong nội dung này nhưng lại là
chứng cứ gián tiếp trong nội dung khác hoặc một chứng cứ vừa là chứng cứ trực
tiếp vừa là chứng cứ gốc, vừa là chứng cứ sao chép, thuật lại... Chứng cứ được
phân thành nhiều loại khác nhau nhưng chung qui lại cũng đều nhằm mục đích
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


10

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

giúp cho việc thu thập, kiểm tra đánh giá, bảo quản, sử dụng và xử lý chứng cứ đạt
hiệu quả trong quá trình giải quyết vụ án.
1.1.2. Khái niệm vật chứng
1.1.2.1. Định nghĩa vật chứng
Quá trình thực hiện tội phạm là một quá trình vật chất xảy ra trong thế giới
khách quan và được thế giới khách quan phản ánh lại thông qua những phản ánh
vật chất và phản ánh ý thức. Phản ánh vật chất là phản ánh bởi các vật thể, còn
phản ánh ý thức là phản ánh thông qua não bộ của con người. Thông qua phản ánh
vật chất, những dấu vết do hành vi tác động của người phạm tội sẽ được các vật thể
khác nhau lưu giữ và phản ánh lại. Hay nói cách khác, những vật thể đó có chứa
đựng các thông tin về vụ phạm tội mà thông qua nó các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng rút ra được những thông tin, tình tiết cần thiết phục vụ cho
quá trình giải quyết vụ án. Những vật thể đó được khoa học tố tụng hình sự gọi là
vật chứng.
Vật chứng được quy tại Điều 74 BLTTHS 2003, theo đó: “Vật chứng là vật
được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết của tội phạm; vật
là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội
phạm và người phạm tội.”
Vật chứng trước hết phải là những vật thể nhất định mà con người có thể
nhận biết, mô tả được. Những vật thể này có giá trị chứng minh trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Giá trị chứng minh của nó thể hiện ở chổ là những vật mà

dựa vào nó các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể xác định
được các thông tin, tình tiết có liên quan đến vụ án, tạo cơ sở cho quá trình giải
quyết đúng đắn vụ án.
Vật chứng được thu thập theo những trình tự, thủ tục nhất định do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định. Bản thân vật chứng có chứa đựng những thông tin, tình tiết
có liên quan đến vụ án, có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng sử dụng để làm chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Chính vì
vậy, để đảm bảo cho những thông tin, tình tiết được rút ra từ vật chứng có giá trị
chứng minh, có thể được sử dụng làm chứng cứ thì đòi hỏi vật chứng phải được
thu thập bằng những biện pháp, tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định. Nếu vật chứng không được thu thập bằng những biện
pháp, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì những thông tin, tình
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

tiết có chứa đựng trong vật chứng cho dù có liên quan đến vụ án cũng không có giá
trị chứng minh, không được sử dụng làm chứng cứ cho quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, vật chứng trong vụ án hình sự là những vật thể được thu thập theo
trình tự, thủ tục nhất định do Bộ luật tố tụng hình sự quy định có chứa đựng những
thông tin, tình tiết có thể được xác định làm chứng cứ cho quá trình giải quyết
đúng đắn vụ án.
1.1.2.2. Đặc điểm của vật chứng

Mỗi một sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan đều mang
trong mình những điểm đặc trưng nhất định, phản ánh đầy đủ bản chất bên trong
của chúng, giúp phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tương khác. Đối
với vật chứng trong vụ án hình sự cũng vậy. Vật chứng cũng mang trong mình
những đặc điểm riêng để từ đó phân biệt với những sự vật, hiện tượng khác không
phải là vật chứng.
Vật chứng trong vụ án hình sự trước hết phải là những vật thể nhất định
tồn tại trong thế giới khách quan mà các chủ thể giải quyết vụ án có thể tri giác
được. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của vật chứng. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì
vật được giải thích là “cái có hình khối, tồn tại trong không gian, có thể nhận biết
được”7. Như vậy, các vật thể mang tính hữu hình cụ thể mà các cơ quan, người
tiến hành tố tụng có thể nhận biết được thông qua cảm nhận giác quan đều có thể
trở thành vật chứng trong vụ án hình sự. Những gì không tồn tại dưới dạng vật thể
nhất định thì sẽ không được xem là vật chứng. Do tồn tại dưới dạng vật thể nên
khả năng vật chứng xuất hiện trong vụ án hình sự rất đa dạng đa dạng và phong
phú. Vật chứng có thể là những vật thể to lớn, đồ sộ nhìn thấy một cách dễ dàng
nhưng cũng có thể chỉ là một vật thể nhỏ bé, li ti cần phải quan sát tỉ mỉ hoặc có sự
hỗ trợ của các phương tiện khoa học kỹ thuật phù hợp mới có thể nhìn thấy được.
Cũng chính vì là những vật thể vô tri, vô giác tồn tại trong thế giới khách quan nên
vật chứng có tính khách quan cao, song vật chứng cũng dễ bị tác động bởi các yếu
tố khác nhau trong môi trường tự nhiên dẫn đến thay đổi, biến dạng hoặc hủy hoại.
Chính vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần lưu ý tới
đặc điểm này của vật chứng để kịp thời có những biện pháp thu thập, bảo quản và
xử lý vật chứng cho phù hợp

7

Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998, tr.1803.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


12

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Vật chứng có chứa đựng những thông tin, tình tiết có thể được sử dụng
để làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vật chứng xuất hiện
trong vụ án hình sự và có liên quan nhất định với quá trình xảy ra vụ án do bản
thân vật chứng có chứa đựng những thông tin, tình tiết mà thông qua việc khai thác
những thông tin, tình tiết đó các chủ thể giải quyết vụ án có thể tìm ra được những
chứng cứ cần thiết làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án
hình sự. Đây là đặc điểm không thể thiếu được của một vật chứng. Bản thân sự tồn
tại của mỗi một vật thể có thể mang trong nó rất nhiều đặc điểm khác nhau phản
ánh những thông tin khác nhau. Tuy nhiên, đối với một vật thể được xác định là
vật chứng thì song song với việc mang trong mình những thông tin phản ánh về
các đặc điểm vốn có như tính chất, đặc điểm, cấu tạo lý hóa,… còn đòi hỏi vật thể
đó phải chứa đựng những thông tin, tình tiết phản ánh về vụ án có thể được xác
định làm chứng cứ cho quá trình giải quyết vụ án. Nếu một vật không có chứa
đựng các thông tin, tình tiết phản ánh về vụ án có thể được sử dụng để làm chứng
cứ thì nó không phải là vật chứng mà chỉ là một vật thể bình thường.
Vật chứng mang tính pháp lý tố tụng hình sự. Đặc điểm này của vật chứng
xuất phát từ đặc điểm vật chứng chứa đựng những thông tin, tình tiết phản ánh về
vụ án có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định
làm chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, để đảm bảo
cho những thông tin, tình tiết rút ra từ vật chứng có giá trị chứng minh thì yêu cầu

vật chứng trước hết phải được thu thập theo những trình tự, thủ tục nhất định do
pháp luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài ra, do tính chất đặc thù vật chứng dễ bị
tác động bởi các yếu tố tự nhiên bên ngoài làm giảm sút giá trị chứng minh dẫn
đến có thể gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, pháp luật tố tụng
hình sự quy định vật chứng cũng phải được bảo quản ngay sau thu thập nhằm đảm
bảo giá trị chứng minh. Hơn nữa, khi vụ án kết thúc vấn đề xử lý vật chứng cũng
được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Như vậy, đối với vật chứng vấn đề thu
thập, bảo quản và xử lý đều chịu sự điều chỉnh của quy định Bộ luật tố tụng hình
sự. Chính những quy định này đã góp phần tạo nên đặc điểm pháp lý riêng biệt cho
vật chứng trong vụ án hình sự.
1.1.2.3. Phân loại vật chứng
Phân loại vật chứng là việc chia vật chứng thành những loại khác nhau dựa
trên những căn cứ nhất định. Căn cứ vào đặc điểm của việc xuất hiện và tham gia
vào quá trình xảy ra vụ án hình sự mà vật chứng có thể được phân thành những
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

loại khác nhau. Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS 2003 thì vật chứng được chia
thành các loại sau:
Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội.
Công cụ phạm tội là những vật mà người phạm tội sử dụng để tác động trực tiếp
vào đối tượng tác động của tội phạm từ đó gây thiệt hại cho khách thể của tội

phạm8. Ví dụ, vật chứng là dao để đâm, súng để bắn, dây thừng để siết cổ, thuốc để
đầu độc… Phương tiện phạm tội là những vật mà người phạm tội tuy không dùng
để tác động trực tiếp vào đối tượng tác động của tội phạm, nhưng được sử dụng
vào quá trình thực hiện tội phạm, có tác dụng hỗ trợ, giúp đỡ cho quá trình thực
hiện tội phạm. Ví dụ, vật chứng là điện thoại để liên lạc, xe dùng để đi cướp, tàu
thuyền để di chuyển…
Những vật chứng thuộc loại này đều có chung đặc điểm là những vật có tác
dụng hỗ trợ nhất định vào quá trình thực hiện tội phạm của người phạm tội. Việc
phân loại vật chứng thành vật chứng là công cụ phạm tội và vật chứng là phương
tiện phạm tội chỉ có ý nghĩa tương đối, một vật chứng có thể là công cụ phạm tội
trong vụ án này nhưng lại là phương tiện phạm tội trong vụ án khác.
Vật chứng là những vật mang dấu vết của tội phạm. Vật mang dấu vết tội
phạm là vật chứa đựng những dấu vết phản ánh do người phạm tội để lại trong quá
trình thực hiện tội phạm. Những dấu vết này được gọi là dấu vết hình sự. Dấu vết
hình sự là những phản ánh của các sự vật, hiện tượng để lại trong quá trình thực
hiện tội phạm9. Những dấu vết này là hệ quả của việc người phạm tội có hành vi va
chạm, tiếp xúc với nhũng vật thể trong môi trường xung quanh và được những vật
thể này lưu lại10. Những dấu vết này có thể là dấu vết về mặt cơ học như vết tùy,
8

Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, trực hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến
lợi ích và sự tồn tại của giai cấp thống trị được nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự. Khách
thể của tội phạm bao gồm ba loại: 1. Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội
phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ; 2. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính
chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm xâm hại; 3. Khách thể
trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại (xem Phạm
Văn Beo, Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, tr.100 -102. )
9
Trịnh Tiến Việt, Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Tạp chí
nghề luật số 2, 2006.

10

Căn cứ vào tính chất phản ánh và điều kiện hình thành dấu vết, người ta chia các dấu vết này thành ba loại
chính: 1. Dấu vết hình thành là sự phản ánh hình dạng, kích thước và một số thuộc tính khác của đối tượng gây
vết. Dấu vết này hình thành dưới các dạng như : dấu vết lõm, dấu vết in, dấu vết cắt, dấu vết trượt ; 2. Dấu vết
phản ánh cấu trúc bên trong của đối tượng gây vết, hình thành do sự di chuyển của một phần đối tượng gây
vết.Thuộc tính của dấu vết cũng chính là thuộc tính của đối tượng gây vết. Nó là yếu tổ chủ yếu để truy nguyên,
như dấu vết sinh vật là vết máu, vết tinh trùng…dấu vết hóa học như vết sơn, vết dầu, vết đất… 3. Dấu vết là
một phần vật thể bị tách ra từ tổng thể của đối tượng gây vết. Dấu vết này hình thành chủ yếu từ các đường rạn,
vỡ, đứt, rách, gãy…Thuộc tính của dấu vết là phần vật thể bị tách ra, đó cũng là căn cứ dùng để truy nguyên đối

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

vết hằng, dấu vết sinh học như vết máu, vết tinh dịch, vết nước bọt, dấu vết về mặt
hóa học.... Ví dụ, vật chứng là con dao có vết máu, tàn thuốc có vết nước bọt, cánh
cửa có dấu vân tay, quần áo có vết tinh dịch…
Vật chứng mang dấu vết tội phạm thể hiện mối quan hệ tác động qua lại
giữa vật mang dấu vết và người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm.
Thông qua thu thập, nghiên cứu những dấu vết có trên vật chứng các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ có được những thông tin cần thiết cho quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Những dấu vết tội phạm có trên vật chứng cũng rất

dễ bị tác động bởi các yếu tố tự nhiên trong môi trường xung quanh dẫn đến làm
biến đổi, sai lệch, không còn nguyên vẹn như khi hình thành. Chính vì vậy, những
vật chứng mang dấu vết tội cần được thu thập, bảo quản kịp thời để giảm thiểu
những tác động từ môi trường tự nhiên làm ảnh hưởng tới giá trị chứng minh của
vật chứng.
Vật chứng là những vật được xem là đối tượng của tội phạm. Vật là đối
tượng của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác
động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ11. Đây là những vật thể bị hành vi phạm tội tác động làm biến
đổi tình trạng bình thường về vị trí, hình dáng, kích thước, tính chất,… qua đó gây
thiệt hại cho quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Sự làm biến đổi tình trạng
bình thường có thể do các hành vi khác nhau của tội phạm gây ra như hành vi
chiếm đoạt, hành vi hủy hoại, hành vi làm hư hỏng, hành vi sử dụng trái phép… Ví
dụ, vật chứng là xe máy bị trộm, túi xách bị cướp, tài sản bị hư hỏng do hành vi cố
ý hủy hoại tài sản…
Vật chứng là tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và
người phạm tội. Trong một số vụ án hình sự nhất định, quá trình phạm tội người
phạm tội không chỉ sử dụng những vật thể khác nhau mà còn sử dụng đến tiền bạc
để phục vụ cho quá trình thực hiện tội phạm. Khi đó tiền bạc có giá trị chứng minh
tội phạm và người phạm tội thì cũng được xem là vật chứng trong vụ án hình sự.
Ví dụ, vật chứng là tiền bạc thu giữ trong sòng bạc, tiền bạc dùng để đưa và nhận
hối lộ, tiền bạc dùng để buôn lậu,…

tượng gây vết ( xem Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội,
2005, tr. 168 -169.)
11
Trần Quang Tiệp, Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, tr.
52.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


15

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Ngoài những vật, tiền bạc được xem là vật chứng thì trong thực tiễn xảy ra
vụ án hình sự có nhiều vật có liên quan đến vụ án, có giá trị chứng minh cho tội
phạm và người phạm tội khi xét về đặc điểm tính chất thì không thuộc những loại
vật chứng nêu trên nên được xem là vật “khác”. Vật khác ở đây có thể được xem là
bất cứ vật gì có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội được các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự, thủ tục pháp
luật thì cũng được xem là vật chứng. Chẳng hạn, vật chứng là các loại giấy tờ tùy
thân, quần áo, giầy, dép,…của hung thủ hoặc nạn nhân đánh rơi tại hiện trường.
Tóm lai, việc phân chia vật chứng thành các loại khác nhau chỉ mang tính
chất tương đối. Một vật chứng có thể vừa là công cụ, phương tiện phạm tội vừa là
vật mang dấu vết của tội phạm hoặc vừa là đối tượng tác động của tội phạm vừa là
vật mang dấu vết của tội phạm... Mục đích của việc phân chia vật chứng thành các
loại khác nhau nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng nhận thức đầy đủ, cụ thể hơn về vật chứng. Từ đó có những biện pháp thu
thập, bảo quản và xử lý vật chứng cho phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
1.2. Cơ sở lý luận về vật chứng

1.2.1. Mối quan hệ giữa vật chứng và chứng cứ
Giữa vật chứng và chứng cứ trong vụ án hình sự có mối quan hệ mật thiết

và chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa vật chứng và chứng cứ được thể hiện chủ
yếu trên những phương diện sau:
Vật chứng là một nguồn của chứng cứ còn chứng cứ là cái có thể được
rút ra từ vật chứng. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì nguồn là “nơi bắt đầu, nơi
phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp”12. Như vậy, có thể hiểu nguồn chứng cứ là
nơi chứa đựng chứng cứ, là nơi chứng cứ được rút ra để làm sáng tỏ những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án. Chứng cứ trong vụ án hình sự thực chất là những
thông tin có liên quan đến vụ án được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố
tụng hình sự quy định mà thông qua nó các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng có thể nhận biết được sự thật khách quan của vụ án. Những thông tin
được xác định là chứng cứ phải gắn liền với những vật mang thông tin tức là
nguồn chứng cứ thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mới có
thể nhận biết được. Vật chứng là một nguồn của chứng cứ, bởi bản thân vật chứng
12

Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998, tr. 880.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

có chứa đựng những thông tin xác thực liên quan đến vụ nếu được thu thập theo
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì những thông tin này được xem là

chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Chẳng hạn, tại hiện trường Cơ
quan điều tra thu được vật chứng là con dao gây án có dấu vân tay của hung thủ và
vết máu của nạn nhân. Con dao trong trường hợp này là vật chứng và cũng được
xem là một nguồn của chứng cứ, còn chứng cứ là những thông tin về dấu vân tay,
thông tin về nhóm máu mà con dao mang trên mình. Như vậy, vật chứng được xem
là một nguồn của chứng cứ chứ không phải là chứng cứ, còn chứng cứ là những
thông tin xác thực có liên quan về vụ án có thể được rút ra từ nguồn là vật chứng.
Vật chứng là tiền đề của chứng cứ, muốn có chứng cứ thì trước tiên phải
xác định được vật chứng. Vật chứng có chứa đựng những thông tin, tình tiết xác
thực có liên quan đến vụ án được rút ra để làm chứng cứ cho việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Vì vậy, muốn có được chứng cứ từ vật chứng thì trước tiên
phải xác định được vật chứng. Vật chứng là tiền đề cần có để có thể xác định được
chứng cứ. Nếu không có vật chứng thì không thể có được chứng cứ từ vật chứng.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là khi có vật chứng là có được chứng cứ.
Vật chứng chỉ mới là điều kiện cần để có được chứng cứ. Để có được chứng cứ đòi
hỏi phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Vật chứng có được phát hiện và thu
thập kịp thời, đúng trình tự, thủ tục như quy định hay không, những thông tin được
rút ra từ vật chứng có đáp ứng đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ hay không...
Tóm lại, vật chứng vẫn là tiền đề cần có để từ đó có thể xác định được những
chứng cứ cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, giữa vật chứng và chứng cứ có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ.
Vật chứng có chứa đựng những thông tin, tình tiết xác thực có liên quan đến vụ án
có thể được rút ra để làm chứng cứ nên vật chứng được xem là một nguồn của
chứng cứ, còn chứng cứ là cái có thể được rút ra từ vật chứng hay nói cách khác là
vật chứng chứa đựng chứng cứ. Muốn có chứng cứ trước tiên phải tìm thấy được
vật chứng, vật chứng được xem là điều kiện đầu tiên để có thể xác định được
chứng cứ.
1.2.2. Vị trí, vai trò của vật chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 bên cạnh các loại nguồn chứng cứ

khác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2003 thì chứng cứ được xác
định bằng nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: vật chứng; lời khai của người làm
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám
định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Như vậy,
chứng cứ trong vụ án hình sự có thể được xác định bằng nhiều nguồn khác nhau
trong đó có vật chứng. Vật chứng là một nguồn cung cấp chứng cứ đầu tiên và
quan trọng. Do đặc tính tồn tại khách quan, không bị chi phối bởi ý thức chủ quan
của con người nên vật chứng phản ánh một cách nguyên si, trung thực về những
tình tiết, sự kiện đã xảy ra trong vụ án hình sự, do đó chứng cứ được rút ra từ
nguồn vật chứng có giá trị chứng minh rất cao và trong nhiều trường hợp, không
có gì có thể thay thế được chúng. Cho nên, có người còn gọi vật chứng là “nhân
chứng câm” trong vụ án hình sự13. Chứng cứ được rút ra từ nguồn vật chứng kết
hợp với những chứng cứ thu được từ lời khai của những người tham gia tố tụng,
bản kết luận giám định, biên bản về các hoạt động điều tra và các tài liệu, đồ vật
khác sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định được
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, góp phần giải quyết đúng đắn vụ
án.
Vật chứng là một trong những căn cứ quan trọng góp phần giúp Cơ quan

điều tra đề ra phương hướng, kế hoạch điều tra vụ án hình sự. Đối với giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, việc thu thập được những vật chứng của vụ án nói riêng và
những thông tin, tình tiết có liên quan đến vụ án nói chung giữ vai trò quan trọng
để từ đó làm manh mối đi đến khám phá toàn bộ sự thật khách quan của vụ án.
Thông thường vật chứng được thu thập trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
thông qua các biện pháp điều tra như; lấy lời khai, khám xét, khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi.v.v... Nhờ thu thập được vật chứng, qua khai thác, tổng
hợp những thông tin, dấu vết mà vật chứng chứa đựng sẽ giúp Cơ quan điều tra
nhận định, phán đoán về diễn biến, tính chất của tội phạm, âm mưu, phương thức,
thủ đoạn hoạt động của người tội phạm để từ đó đề ra phương hướng, kế hoạch,
điều tra thích hợp để truy tìm thủ phạm14. Chẳng hạn, trong vụ án Lê Trung Sơn
giết người ném xác xuống giếng ở Phú Thọ vào cuối năm 2009. Quá trình điều tra
rất mong manh và tưởng chừng như bế tắc, nhưng nhờ tìm thấy tìm thấy một cây
gậy bạch đàn nhỏ có dấu máu nằm khá xa hiện trường nơi nạn nhân tử vong, qua
giám định cho thấy vết máu trên cây gỗ bạch đàn là của nạn nhân. Hàng loạt giả
thuyết điều tra được đặt ra từ cây gậy bạch đàn nhỏ này để rồi cuối cùng cơ quan
13
14

Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp – Hà Nội, 2005, tr.96.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình điều tra hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr. 108.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp


Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

điều tra đã bắt hung thủ phải cúi đầu nhận tội15. Hay trong vụ Hoàng Minh Sáng
“giết người, cướp tài sản” xảy ra tại khu vực phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà,
Đà Nẵng vào đêm 19/3/2010. Quá trình điều tra cũng tưởng chừng như bế tắc
nhưng nhờ thu được vật chứng là đôi dép tại hiện trường đã giúp Cơ quan điều tra
nhanh chóng bắt được thủ phạm gây án16. Như vậy, vật chứng là một trong những
cơ sở giúp Cơ quan điều tra vạch ra kế hoạch, phương hướng điều tra vụ án được
kịp thời và đúng đắn để truy tìm thủ phạm gây án.
Vật chứng là cơ sở để Cơ quan điều tra kiểm tra, đánh giá tính xác thực,
đúng đắn trong lời khai bị can. Với mục đích nhằm che giấu hành vi phạm tội do
mình gây ra, bị can thường có thái độ quanh co, chối tội, khai không đúng sự thật
những tình tiết khách quan của vụ án. Để kiểm tra, đánh giá lời khai của bị can,
qua đó phát hiện, vạch trần những lời khai không khách quan, không đúng sự thật,
Cơ quan điều tra có thể sử dụng nhiều biện pháp, tài liệu chứng cứ khác nhau trong
đó có vật chứng. Vật chứng là một trong những cơ sở giúp Cơ quan điều tra kiểm
tra, đánh giá tính xác thực, khách quan trong lời khai của bị can. Lời khai của bị
can có thể không khách quan với sự thật vụ án nhưng bản thân vật chứng là những
vật vô tri, không bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm, tâm lý nên vật chứng phản
ánh một cách khách quan những tình tiết xảy ra trong vụ án, qua đó có thể dùng để
kiểm tra, đánh giá tính xác thực, khách quan trong lời khai của bị can.
1.2.3. Ý nghĩa của vật chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Vật chứng giúp xác định những chứng cứ cần thiết làm cơ sở cho việc
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Để giải quyết vụ án được nhanh chóng, đúng
đắn điều quan trọng đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
xác định được đầy đủ những chứng cứ cần thiết để từ đó làm cơ sở cho việc xác
định những vấn đề cần phải chứng minh, đi đến khám phá toàn bộ sự thật khách
quan của vụ án. Với vai trò là một loại nguồn của chứng cứ, chứa đựng trong mình
những thông tin, tình tiết có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội, vật

chứng có ý nghĩa là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng tìm ra những chứng cứ cần thiết để từ đó góp phần vào việc giải
quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án. Chẳng hạn, trong vụ án “giết người, hiếp
dâm” xảy ra tại xã Xuân Thắng, huyện Thới Lai, TP.Cần Thơ vào năm 2012. Nhờ
15

Phụ nữ today, Phá án nhờ dấu vết biết nói trên cây bạch đàn, Văn Hương, [truy cập ngày 27-03-2013].
16
Báo mới, Phá án từ đôi dép, Bùi Giàu, [truy
cập ngày 27/3/2013].

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

thu thập được vật chứng là một sợi lông còn vướng lại trên vùng kín nạn nhân
Đ.L.T.A, kết hợp với lấy mẫu lông trên bộ phận sinh dục của đối tượng tình nghi
để tiến hành giám định. Kết quả đã bắt đối tượng tình nghi Phạm Minh Trí phải
cuối đầu nhận tội và lần lượt khai ra các đồng phạm khác là Phan Thành Dương và
Nguyễn Thanh Lâm17. Trong một số vụ án vật chứng còn có ý nghĩa quyết định
trong việc xem xét, kết luận có hay không có tội phạm xảy ra mà thiếu nó thì
không có cơ sở để giải quyết vụ án hoặc việc giả quyết vụ án không đảm bảo được
nhanh chóng, đúng đắn. Chẳng hạn, trong các vụ án về ma túy, buôn lậu, sản xuất,

buôn bán hàng giả, hàng cấm,... nếu không thu thập được vật chứng thì sẽ không
có đủ chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội.
Vật chứng còn có ý nghĩa là tình tiết định khung hình phạt trong một số
loại tội phạm. Đối với một số loại tội phạm, khi căn cứ vào tính chất, đặc điểm của
vật chứng mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội hoặc căn cứ
vào giá trị vật chứng thu được sẽ giúp Hội đồng xét xử quyết định khung hình phạt
phù hợp cho người phạm tội, góp phần xử lý đúng người, đúng hành vi phạm tội.
Chẳng hạn, đối với tội phạm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
134 BLHS 1999. Nếu vật chứng thu được là vũ khí, phương tiện nguy hiểm được
người phạm tội sử dụng thì sẽ thuộc một trong những tình tiết định khung tại
khoản 2, nếu vật chứng thu được là tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt có giá trị
từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng thì sẽ thuộc một trong những
tình tiết định khung tại khoản 3. Như vậy, vật chứng còn có ý nghĩa là tình tiết góp
phần định khung hình phạt đối với một số loại tội phạm.
1.2.4. Nguyên tắc của việc thu thâp, bảo quản và xử lý vật chứng
Vật chứng phải được thu thập kịp thời, đầy đủ (khoản 1 Điều 75 BLTTHS
2003). Thu thập kịp thời là việc khẩn trương, nhanh chóng tiến hành các biện pháp
thu thập vật chứng do BLTTHS quy định ngay khi nhận được tin báo, tố giác tội
phạm xảy ra. Thu thập kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác động từ
các yếu tố bên ngoài làm ảnh hưởng đến tới giá trị chứng minh của vật chứng trong
quá trình giải quyết vụ án. Xuất phát từ đặc điểm của vật chứng là những vật chất
cụ thể tồn tại trong môi trường xung quanh nên vật chứng rất dễ bị tác động bởi
các yếu tố khác nhau trong môi trường dẫn đến làm biến đổi, sai lệch những đặc
điểm, dấu vết, tính chất có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Chính
17

Phụ nữ today, Giết, hiếp kinh hoàng ở miền tây, Lạc Vinh, [truy cập ngày 29/3/2013].

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


20

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

vì vậy, vật chứng cần được thu giữ kịp thời nhằm đảm bảo cho vật chứng có được
giá trị chứng minh cao nhất. Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người
thực hiện tội phạm là sau khi gây án xong thường hoang mang, lo sợ nên tìm cách
quay lại hiện trường gây án để tìm và xóa những dấu vết có liên quan đến vụ án
nhằm che giấu hành vi phạm tội và gây khó khăn cho quá trình tìm kiếm chứng cứ
xác định sự thật của vụ án. Do đó, việc thu thập vật chứng kịp thời, nhanh chóng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định những chứng cứ từ vật chứng, từ đó góp
phần giải quyết nhanh chóng vụ án.
Bên cạnh yêu cầu thu thập kịp thời thì vật chứng còn phải được thu thập
đầy đủ. Thu thập đầy đủ là thu thập tất cả những vật chứng được xác định có liên
quan và cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án, không bỏ sót vật chứng. Khi tiến
hành thu thập vật chứng đối với những vật đã xác định được ngay là vật chứng thì
phải thu giữ, tạm giữ ngay. Đối với những vật chưa đủ căn cứ để kết luận là vật
chứng nhưng có căn cứ để nghi ngờ là vật chứng thì cũng phải thu giữ, tạm giữ để
có thời gian nghiên cứu thêm có phải là vật chứng hay không. Sở dĩ phải thu giữ,
tạm giữ cả những vật nghi là vật chứng, bởi vì việc đánh giá, xác định một vật có
phải là vật chứng trong vụ án hay không, trong một số trường hợp phức tạp đòi hỏi
phải cần tới sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại. Ngay tại nơi
phát hiện chưa có đủ điều kiện để kết luận ngay nhưng nếu bỏ qua không thu thập
thì sau này có thể sẽ không có điều kiện để thu thập, dẫn đến vật thu thập không
đầy đủ vật chứng, bỏ sót vật chứng. Tuy nhiên, thu thập đầy đủ vật chứng, không

bỏ sót vật chứng không có nghĩa là thu thập một cách tràn lan ngay cả những vật
không có căn cứ nghi là vật chứng. Thu thập đầy đủ, không bỏ sót vật chứng
nhưng phải đảm bảo có trọng tâm khi thu thập. Nếu để sót vật chứng hoặc thu thập
vật chứng không đầy đủ có thể sẽ dẫn đến tình trạng không đủ chứng cứ, gây khó
khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Thu thập kịp thời và đầy đủ vật
chứng là hai yêu cầu cần thiết gắn chặt với nhau trong quá trình thu thập vật
chứng. Nếu vật chứng được thu thập kịp thời mà không đầy đủ thì có thể dẫn đến
không xác định được đầy đủ những chứng cứ cần thiết cho quá trình giải quyết vụ
án. Ngược lại nếu vật chứng được thu thập đầy đủ nhưng không kịp thời thì có thể
vật chứng sẽ mất đi những giá trị chứng minh cần thiết cho quá trình giải quyết vụ
án. Vì vậy, đảm bảo nguyên tắc thu thập kịp thời, đầy đủ vật chứng là một nhân tố
góp phần đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được thuận lợi, chính xác,
khách quan, toàn diện và đầy đủ.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

21

SVTH: Đoàn Thanh Bình


Luận văn tốt nghiệp

Thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự

Vật chứng phải được thu thập theo những trình tự, thủ tục nhất định do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tuân thủ nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho
những thông tin, tình tiết rút ra từ vật chứng có giá trị chứng minh. Vật chứng chứa
đựng những thông tin, tình tiết có thể được xác định làm chứng cứ phục vụ cho
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, để những thông tin, tình tiết rút ra từ

vật chứng có giá trị chứng minh, có thể được sử dụng để làm chứng cứ thì đòi hỏi
khi tiến hành thu thập vật chứng các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải thu thập bằng những biện pháp, tuân theo những trình tự, thủ tục nhất
định do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Những vật chứng không được thu thập
bằng những biện pháp, theo những trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định thì không có giá trị pháp lý, những thông tin, tình tiết mà vật chứng chứa
đựng cho dù phản ánh đúng sự thật khách quan cũng không có giá trị chứng minh,
không được xem là chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tiễn điều tra
giải quyết vụ án hình sự cho thấy, bên cạnh việc áp dụng các biện pháp do Bộ luật
tố tụng hình sự quy định thì các cơ quan điều tra còn áp dụng các biện pháp nghiệp
vụ để thu thập vật chứng, vật chứng được thu thập bằng biện pháp nghiệp vụ thì
không có giá trị chứng minh về mặt pháp lý mà chỉ có giá trị tham khảo dùng để
phục vụ cho công tác điều tra giải quyết vụ án.
Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn,
hư hỏng (khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003). Xuất phát từ đặc điểm của vật chứng
là dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài làm biến đổi, sai lệch, vì vậy vật chứng
không chỉ cần được thu thập kịp thời, đầy đủ mà còn phải được bảo quản. Giải
quyết vụ án hình sự là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và phải tốn
một khoảng dài, ngắn khác nhau tùy theo tính chất của mỗi vụ án. Do đó, vật
chứng cần phải được bảo quản để đảm bảo sự nguyên vẹn về mặt giá trị chứng
minh, giá trị sử dụng như khi mới thu thập được để phục vụ cho suốt quá trình giải
quyết vụ án. Bảo quản vật chứng cũng có vai trò quan trọng không kém so với hoạt
động thu thập vật chứng. Bảo quản vật chứng không phải chỉ là việc đưa vật chứng
vào kho cất giữ cẩn thận mà yêu cầu đặt ra đối với công tác bảo quản vật chứng là
phải giữ được sự nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng vật chứng đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng vật chứng phục vụ công tác
điều tra, xử lý vụ án. Nếu vật chứng không được bảo quản có thể dẫn đến bị biến
đổi, phá hủy, mất mát, hư hỏng từ đó gây khó khăn cho việc tìm kiếm chứng cứ
giải quyết vụ án và đồng thời gây ra những lãng phí không đáng có.


GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Đoàn Thanh Bình


×