Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học bài ôn tập phần tiếng việt trong SGK ngữ văn lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

HÀ THỊ LÝ

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƢ DUY VÀO DẠY
HỌC BÀI ÔN TẬP PHẦN TIẾNG VIỆT
TRONG SGK NGỮ VĂN LỚP 10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

Ngƣời hƣớng dẫn khóa luận : TS. Phạm Kiều Anh

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN

Xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô
giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là TS. Phạm Kiều Anh đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình thực tập và hoàn thành đề tài
khóa luận này.
Do thời gian và khuôn khổ cho phép của đề tài còn nhiều hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô và các bạn để tiếp tục xây dựng đề tài hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2015
Tác giả



LỜI CAM ĐOAN

Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp
của TS. Phạm Kiều Anh.Tôi xin cam đoan khóa luận này là nghiên cứu của
riêng tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác. Nếu sai,
tôi xin chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Hà Thị Lý


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CH

Câu hỏi

ĐHSP

Đại học Sư phạm

GV

Giáo viên

HS

Học sinh


Nxb

Nhà xuất bản

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THPT

Trung học phổ thông

TS

Tiến sĩ

SĐTD

Sơ đồ tư duy



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu

2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5

5. Phương pháp nghiên cứu

5

6. Bố cục khóa luận

6

NỘI DUNG

7


Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn

7

1.1. Cơ sở lý luận về sơ đồ tư duy trong dạy học

7

1.1.1. Tư duy và đặc điểm tư duy của học sinh THPT
1.1.2. Giới thiệu chung về SĐTD

7
10

1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng SĐTD vào dạy học bài “Ôn tập
phần tiếng Việt”

15

1.2.1. Điều tra, thăm dò ý kiến và dự giờ giáo viên

15

1.2.2. Điều tra thăm dò ý kiến HS

16

1.2.3. Đánh giá chung về thực trạng dạy học bài “Ôn tập phần tiếng
Việt”


18

Tiểu kết chương 1

20

Chƣơng 2. Dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt” có sử dụng SĐTD

21

2.1. Vị trí của bài “Ôn tập phần tiếng Việt” trong chương trình Ngữ văn
lớp 10 (bộ chuẩn)

21

2.2. Mục đích của việc dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt” trong
chương trình Ngữ văn lớp 10

21


2.3. Nội dung của bài học “Ôn tập phần tiếng Việt”

22

2.4. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”

24


2.4.1. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống kiến thức “Hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ”

24

2.4.2. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống lý thuyết “Văn bản”

25

2.4.3. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống hóa kiến thức “Phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt” và “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật”

26

2.4.4. Sử dụng SĐTD tổng hợp kiến thức “Những yêu cầu về sử dụng
tiếng Việt”

27

2.5. Quy trình hướng dạy bài “Ôn tập phần Tiếng Việt” có sử dụng
SĐTD
2.5.1. Hoạt động 1: Hướng dẫn HS hệ thống kiến thức của Tiếng Việt
Tiểu kết chương 2

30

Chƣơng 3. Thực nghiệm sƣ phạm

31


3.1. Mục đích thực nghiệm

31

3.2. Đối tượng thực nghiệm

32

3.3. Địa bàn thực nghiệm

32

3.4. Thời gian thực nghiệm

32

3.5. Nội dung thực nghiệm

32

3.6. Cách tiến hành thực nghiệm

42

3.7. Kết quả thực nghiệm

43

KẾT LUẬN


45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

46

PHỤ LỤC

47



MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI- thế kỉ của sự bùng nổ tri thức
khoa học và công nghệ. Để có thể phát triển theo kịp xu thế thời đại, Việt
Nam cần có những con người có tri thức, có tư duy sáng tạo. Yêu cầu đó của
thực tế xã hội đòi hỏi nền giáo dục của nước ta phải đổi mới một cách toàn
diện. Cũng vì thế, một trong những việc làm thiết yếu hiện nay của giáo dục
là nghiên cứu và sử dụng hệ thống phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc đổi mới giáo dục hiện nay còn nhiều tồn tại. Các hoạt động
dạy và học chưa thực sự tạo hứng thú, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh
(HS). Đây là hạn chế chung của nhiều bộ môn trong đó có môn Ngữ văn.
Tiếng Việt là một bộ phận của môn Ngữ văn. Có thể nói, việc dạy học
phân môn này có tầm quan trọng bởi nhờ có nó, HS không chỉ có những hiểu
biết về tiếng mẹ đẻ mà nó còn có vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát
huy tiếng nói dân tộc. Chất lượng dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông có
quan hệ trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy của các thế hệ nối
tiếp và ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh tiếng Việt, vận mệnh văn hoá Việt
Nam. Với tư cách là một môn học, tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS

những tri thức của hệ thống ngôn ngữ học và tiếng Việt, những quy tắc hoạt
động của các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng
Việt là một công cụ giao tiếp và tư duy nên môn Tiếng Việt còn đảm nhận
thêm một chức năng kép mà các môn học khác không có đó là chức năng
trang bị cho HS công cụ để giao tiếp, tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức
khoa học trong nhà trường. Nói cách khác, HS muốn thực hiện tốt nhiệm vụ
học tập, trước hết phải nghiên cứu và rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng
Việt - chìa khoá của nhận thức, của học vấn, của sự phát triển trí tuệ. Thiếu
quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện năng lực tiếng Việt, HS không thể

1


hoàn thành tốt được nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học nào trong
nhà trường. Ngược lại, trong quá trình học tập các môn khoa học đó, HS học
được các thuật ngữ và vốn từ của các em sẽ giàu có hơn. Đồng thời, tiếp xúc
với nhiều môn học, HS sẽ thấy được các cách diễn đạt phong phú của tiếng
Việt trong các phong cách khác nhau, từ đó mà có thể rèn luyện cho mình kĩ
năng sử dụng tiếng Việt. Tóm lại, Tiếng Việt với tư cách là công cụ giao tiếp
của xã hội, là bộ môn công cụ cho mọi bộ môn, đồng thời đó cũng là một
trong những môn có tầm quan trọng đặc biệt trong các môn khoa học xã hội nhân văn, có vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc.
Mặc dù có vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục, song thực tế
thực trạng giảng dạy Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông còn nhiều bất cập
chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS. Có nhiều nguyên nhân
dẫn tới thực tế này, nhưng phải tính đến một nguyên nhân chủ yếu là do quan
niệm và nhận thức của giáo viên (GV) đối với việc dạy học phân môn này.
Nhiều GV chưa xác định được các phương pháp giảng dạy phù hợp với các
bài tập tiếng Việt, các giờ dạy chưa sáng tạo, vẫn tồn tại hình thức dạy học
theo kiểu áp đặt, thụ động khiến HS vốn không hứng thú học tập với môn học
Ngữ văn lại càng thấy không quan tâm tới việc học Tiếng Việt. Cũng vì thế,

hiệu quả giờ học không cao. Nhận thức tầm quan trọng của phân môn Tiếng
Việt trong chương trình THPT cũng như hướng tới việc đổi mới phương pháp
dạy học Tiếng Việt nói riêng, dạy học Ngữ văn nói chung, chúng tôi chọn đề
tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học bài Ôn tập phần tiếng Việt trong SGK
Ngữ văn lớp 10”.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu SĐTD trong giáo dục
Sơ đồ tư duy (SĐTD) là một phương tiện làm việc được một số nhà
khoa học nghiên cứu và đề xuất. Ở nước ngoài, việc ứng dụng SĐTD vào

2


trong cuộc sống hằng ngày đã được Tony Buzan đề cập đến trong cuốn sách
“Sơ đồ tư duy”. Trong cuốn sách này Tony Buzan đã đưa ra các ứng dụng của
SĐTD trên nhiều lĩnh vực: đối với cá nhân, gia đình, trong lĩnh vực kinh
doanh, các lĩnh vực chuyên môn trong đó có giáo dục. Trong giáo dục, ban
đầu, SĐTD được sử dụng để soạn ghi chú cho bài giảng, hoạch định cho năm,
hoạch định cho một học kỳ, hoạch định cho ngày, bài học và cách trình bày,
thi cử, dự án. Trên cơ sở đó, Tony Buzan đưa ra bẩy lợi ích của việc sử dụng
SĐTD trong việc giảng dạy: SĐTD làm cho bài học cũng như cách trình bày
bài học ngẫu hứng, sáng tạo và lý thú hơn đối với cả GV, HS; nhờ SĐTD,
việc ghi chú bài giảng của GV trở nên linh hoạt; GV có thể làm mới, bổ sung
bài giảng một cách dễ dàng và nhanh chóng; SĐTD giúp người học đạt điểm
cao trong các kỳ thi; SĐTD giúp người học hiểu sâu hơn về chủ đề;Số lượng
ghi chú cho bài giảng giảm đi rất nhiều; SĐTD vô cùng hữu ích cho các em
thiếu niên “có vấn đề về học tập”, đặc biệt là những em mắc chứng khó đọc.
Sau cuốn sách này, Tony Buzan viết tiếp cuốn “Bản đồ tư duy trong
công việc” để cụ thể hóa việc vận dụng SĐTD. Kế thừa những kết quả đã
được trình bày trong công trình trên, Adam Khoo đã tiếp tục bàn về lợi ích

của việc sử dụng bản đồ tư duy (Mindmap) trong cuốn “Tôi tài giỏi, bạn cũng
thế”. Công trình này thu hút được sự quan tâm của nhiều người.
Ở Việt Nam, SĐTD được nghiên cứu và sử dụng rất nhiều trong các
hoạt động kinh doanh trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đến năm 2006,
SĐTD ứng dụng vào dạy học được chú ý với dự án “Ứng dụng công cụ phát
triển tư duy- Sơ đồ tư duy” của nhóm tư duy mới (New Thinking Group NTG), Đại học quốc gia Hà Nội triển khai thực hiện. Sau đó các đề tài nghiên
cứu khoa học về SĐTD liên tiếp ra đời như: “Ứng dụng sơ đồ tư duy nâng
cao hiệu quả tiếng Anh” của tác giả Nguyễn Đặng Nguyệt Hương, Phan Thu
Liên; chuyên đề “Giảng dạy và học tập với công cụ bản đồ tư duy” của thạc sĩ

3


Trương Tinh Hà (ĐHSP Hà Nội). Trên Tạp chí Giáo dục cũng có một số bài
viết đề cập đến vai trò, hiệu quả của việc sử dụng SĐTD trong dạy học như:
“Bản đồ tư duy- Công cụ hỗ trợ hiệu quả trong dạy hoc môn toán” của Chu
Cẩm Thơ, “Hệ thống hóa bài tập Vật lí với sơ đồ tư duy” của Lê Công Triêm,
Lương Thị Lệ Hằng, “Sử dụng bản đồ tư du một biện pháp hỗ trợ hiệu quả
trong dạy học môn toán” của Trần Đình Châu. Người đầu tiên đưa SĐTD ứng
dụng vào dạy học văn là thầy Hoàng Đức Huy (Trung tâm Giáo dục thường
xuyên quận 4, Tp. Hồ Chí Minh) với bài nghiên cứu mang tên “Bản đồ tư duy
đổi mới dạy học”. Tuy nhiên, công trình này chỉ đề cập đến phương pháp
giảng dạy bằng bản đồ tư duy với những tác phẩm thơ, văn tự sự và văn
thuyết minh.
2.2. Lịch sử nghiên cứu việc sử dụng SĐTD trong dạy học bài “Ôn
tập phần tiếng Việt”
Ứng dụng SĐTD vào trong giảng dạy đã được quan tâm trong tất cả
các môn học nhưng hiệu quả không cao và chưa được áp dụng một cách triệt
để, đồng bộ. Hiện nay, đối với bài “Ôn tập phần tiếng Việt” nói riêng và phân
môn tiếng Việt nói chung cũng đã sử dụng SĐTD song còn nhiều hạn chế do

GV, HS chưa thực sự thành thạo và khai thác triệt để lợi ích của SĐTD. Vì
vậy, việc sử dụng SĐTD vào dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt” là một
trong những hướng nghiên cứu mới mẻ trong quá trình đổi mới PPDH, nâng
cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm dụng ý tìm ra những cách tổ chức một giờ
ôn tập các tri thức của tiếng Việt một cách hệ thống, giúp cho các em không
chỉ nắm chắc các đơn vị kiến thức mà còn hệ thống được những kỹ năng cơ
bản đã được rèn luyện trong quá trình học tiếng Việt nói riêng, học môn
Ngữvăn nói chung.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, khóa luận phải thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu dưới đây:
- Tổng hợp được nội dung ôn tập phần lý thuyết tiếng Việt theo SGK
Ngữ văn 10.
- Đề xuất cách sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) vào dạy học bài “Ôn tập
phần tiếng Việt”.
- Tổ chức thực nghiệm để đánh giá bước đầu tính khả thi của các đề
xuất trên.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Gắn với nội dung đề tài, khóa luận xác định đối tượng nghiên cứu là
(SĐTD) được sử dụng trong quá trình giáo dục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu SĐTD trong giáo dục, song khóa luận tập trung tìm hiểu sự

vận dụng cũng như cách sử dụng phương tiện dạy học này vào bài “Ôn tập
phần tiếng Việt” SGK Ngữ văn 10(bộ chuẩn).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp các vấn đề lý thuyết: Nghiên cứu các vấn đề lý
thuyết về SĐTD, các giáo trình lý luận dạy học, sách giáo khoa và các tài liệu
liên quan tới nội dung phạm vi mà đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra cơ bản: Lấy ý kiến của GV đang trực tiếp giảng
dạy trong nhà trường phổ thông đặc biệt là các giáo viên dạy giỏi, có trình độ,
có hiểu biết và sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học tiếng Việt nói chung
và dạy bài “Ôn tập phần tiếng Việt” nói riêng; phát phiếu điều tra, thăm dò ý
kiến của GV, HS; tham gia dự giờ trên lớp; lấy ý kiến của HS về việc ứng
dụng SĐTD trong quá trình học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”.

5


- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý các số liệu thu thập được trong
quá trình khảo sát, thực nghiệm để đưa ra được những kết quả chính xác,
khách quan.
- Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp được sử dụng khi đánh
giá tính khả thi của những đề xuất đã được nêu ở chương 2.
6. Bố cục khóa luận
Theo bố cục của một văn bản khoa học, khóa luận chia thành ba phần:
Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Riêng phần nội dung được kết cấu gồm 3
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng SĐTD vào dạy
học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”
- Chương 2: Sử dụng SĐTD vào dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


6


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận về SĐTD trong dạy học
1.1.1. Tư duy và đặc điểm tư duy của HS THPT
1.1.1.1. Khái niệm tư duy
Lịch sử phát triển của loài người cho thấy, để có thể phát triển như hiện
nay, con người phải lao động. Nhưng hoạt động lao động sẽ không đạt hiệu
quả nếu con người không có những hiểu biết, nhận thức. Con đường để thu
nhận được hiểu biết về thế giới khách quan chính là quá trình tư duy. Cho đến
nay, rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về tư duy và sự phát triển tư duy của
con người. Theo Từ điển Tiếng Việt: Tư duy là giao đoạn cao của quá trình
nhận thức, đi sâu vào nhận thức và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng
những hình thức, như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý (Từ điển Tiếng
Việt, Nxb Từ điển bách khoa, tr.1011).
Với quan niệm trên, có thể khẳng định tư duy là quá trình hoạt động
nhận thức với các mốc thực hiện mở đầu, diễn biến, kết thúc rõ ràng. Có thể
nói, tư duy là một hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục trong bộ não con
người. Nhờ có hoạt động này,con người có thể nhận thức về thế giới hiện thực
một cách sâu sắc hơn, không dừng lại ở giai đoạn nhận thức cảm tính mà
vươn tới một nấc thang cao hơn là nhận thức lí tính. Cũng vì thế, nhắc tới tư
duy là nhắc tới một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan
mà trước đó ta chưa biết. Nói cách khác, trước thực tiễn chằng chịt những mối
quan hệ phức tạp, con người buộc phải nhận thức thế giới bằng những quá
trình mới, phát hiện những thuộc tính mới, mối quan hệ mới của sự vật, hiện


7


tượng. Quá trình nhận thức ấy được gọi là tư duy. Như vậy, có thể khẳng
định: Tư duy là quá trình nhận thức, là sự phản ánh những thuộc tính chung
và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật,
hiện tượng mà ta chưa từng biết.
Để ghi lại những hiểu biết thu nhận được trong quá trình tư duy, con
người sử dụng ngôn ngữ. Cũng bởi vậy,ngôn ngữ được đánh giá là công cụ để
tư duy, tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Thực tiễn cho thấy con
người, nếu khả năng tư duy không phát triển thì cũng không tốt trong việc sử
dụng ngôn ngữ khi biểu đạt các nội dung giao tiếp. Vì thế, có thể khẳng định
ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng tạo thành một
khối thống nhất biện chứng có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình vận
động và phát triển của con người. Quá trình hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức
khoa học tiếng Việt ở trường phổ thông hướng tới mục đích là giúp cho các
em thông hiểu các quy luật cấu trúc nội bộ của tiếng Việt, quy luật hoạt động
của nó và trên cơ sở đó hình thành các kỹ năng và kỹ xảo ngôn ngữ. Cùng với
quá trình đó, GV có thể tiến hành song song với nhiệm vụ hình thành và phát
triển các thao tác, các phẩm chất tư duy. Bởi HS nếu hiểu và nắm vững nội
dung vấn đề cần trình bày, các em sẽ nói và viết lưu loát còn chưa hiểu nội
dung vấn đề, các em sẽ diễn đạt lúng túng, mắc nhiều sai sót. Do đó rèn luyện
ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy là một trong những nguyên tắc đặc thù của
việc dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông.
1.1.1.2.Năng lực tư duy và đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Theo tâm lí học lứa tuổi, HS THPT ở vào thời kỳ mà sự phát triển thể
chất của con người đang đi vào giai đoạn hoàn chỉnh. Bên cạnh sự phát triển
về thể lực, sự phát triển của hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng
do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng não phát triển. Sự
hình thành hệ thống cấu trúc tế bào ở bán cầu đại não và số lượng dây thần


8


kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ đại não lại dẫn tới
kết quả là bộ não của HS ở độ tuổi học THPT có những cấu trúc như trong
cấu trúc tế bào não của người lớn. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức
tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong quá
trình học tập”[11, tr.67]. HS ở tuổi này trưởng thành hơn, sở hữu nhiều kinh
nghiệm sống hơn, các em nhận ra được vị trí, vai trò của mình. Do vậy, thái
độ có ý thức của các em trong hoạt động học tập ngày càng được phát triển.
Đặc biệt ở lứa tuổi này, tính chủ động trong suy nghĩ của các em phát triển
mạnh mẽ. Quan sát của HS trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện
hơn, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Theo đó,
các em sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ, tóm tắt ý chính, so sánh,
đối chiếu…. Không những vậy, trong quá trình nhận thức, các em tạo được
tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, biết phân biệt tài liệu nào cần nhớ từng chữ,
cái gì chỉ cần hiểu mà không cần nhớ. Cũng do đặc điểm lứa tuổi, HS THPT
phát triển mạnh về tư duy hình thức. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư
duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trước những đối tượng quen thuộc
hoặc chưa quen thuộc. Sự tổng hợp về năng lực tư duy và những đặc điểm
tâm lý của HS THPT chính là tiền đề để chúng ta khẳng định việc hình thành
năng lực tự học tập, tự nghiên cứu cho HS với việc sử dụng SĐTD trong dạy
học các bài tiếng Việt là một việc làm hợp lý có cơ sở khoa học.
Mặt khác, HS càng trưởng thành, kinh nghiệm sống ngày càng phong
phú, các em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của
cuộc đời. Do vậy thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát
triển. Thái độ của HS đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em
đã hình thành hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Một
mặt các em rất tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với

nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc

9


chỉ học để đạt điểm trung bình. Vì vậy đòi hỏi trong quá trình dạy học, GV
phải tìm ra phương pháp, phương tiện dạy học tích cực, nhằm mang lại những
hiệu quả đối với HS, giúp các em có hứng thú học tập, để các em có thể đạt
được kết quả cao. Việc sử dụng SĐTD trong dạy học sẽ mang lại hiệu quả, lợi
ích thiết thực cho các em HS ở lứa tuổi này.
1.1.2. Giới thiệu chung về SĐTD
1.1.2.1. Khái niệm SĐTD
Theo Tony Buzan - người đã dành 30 năm để nghiên cứu về vấn đề
này, thì: “Bản đồ tư duy (MindMap -Bản đồ tư duy, Sơ đồ tư duy) là hình thức
ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở
giữa bản đồ là ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm
này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho những ý tưởng chính và đều
được nối với ý trung tâm” [11, tr.19].
Còn trong cuốn “Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kỹ thuật
dạy học” thì: SĐTD là một công cụ tổ chức tư duy, là con đường dễ nhất để
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Đồng thời
là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa
của nó. SĐTD là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh,
để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý
tưởng được liên kết với nhau khiến SĐTD có thể bao quát được các ý tưởng
trên một phạm vi sâu rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh, âm thanh…gây ra
những kích thích rất mạnh lên hệ thống rìa (hệ thống cổ áo) của não giúp cho
việc ghi nhớ được lâu bền và tạo ra những điều kiện thuận lợi để vỏ não phân
tích, xử lí, rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình đối tượng cần nghiên cứu
[5, tr.67]. Với quan niệm trên, có thể khẳng định SĐTD là phương tiện mạnh

để “tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. SĐTD là hình thức ghi
chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của

10


một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…bằng cách kết hợp việc sử dụng hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Ta có thể nhận thấy nhận xét trên trong ví
dụ dưới đây:

1.1.2.2. Cấu tạo và phân loại SĐTD
SĐTD được đánh giá là “công cụ vạn năng cho bộ não”, là phương tiện
giúp con người có thể ghi chú đầy sáng tạo. Theo Tony Buzan “một hình ảnh
có giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc có tác dụng kích thích não như hình
ảnh. Màu sắc mang đến cho SĐTD những rung động cộng hưởng mang lại
sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”. Như vậy, SĐTD là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một
chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời
hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết và sự tư duy tích cực. Đặc biệt việc
thiết kế SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu tỷ lệ, chi tiết
khắt khe như bản đồ địa lí, có thể thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một
kiểu khác nhau dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng

11


một nội dung nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó theo một cách riêng. Do
đó, việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng của mỗi người.
Cấu tạo của SĐTD rất đơn giản, nó bao gồm: Ở vị trí trung tâm của sơ
đồ là hình ảnh hay một từ khóa thể hiện ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Ý

trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa bậc 1 bằng các nhánh
chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa bậc 2 để
nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay
hình ảnh liên quan được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một
“bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ, rõ ràng. Ta có thể
nhận thấy điều đó qua sơ đồ sau:

Với đặc điểm cấu tạo như trên, để thiết kế một SĐTD chúng ta cần tiến
hành theo các bước như sau:
Bước 1: Xác định từ khóa: đây là những từ quan trọng tập trung chủ đề
một cách cô đọng nhất.

12


Bước 2: Vẽ chủ đề trung tâm.
Bước 3: Vẽ thêm các tiêu đề phụ (nhánh cấp 1).
Bước 4: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính, các chi tiết hỗ trợ (nhánh
bậc 2, 3).
Bước 5: Thêm các hình ảnh minh họa. Ở bước cuối này, hãy để trí
tưởng tượng của bạn bay bổng. Bạn có thể thêm nhiều hình ảnh để giúp các ý
quan trọng trở nên nổi bật cũng như giúp chúng lưu vào trí nhớ của bạn tốt
hơn.
Với cấu tạo sơ giản như trên, các nhà khoa học cũng xác định và phân
loại SĐTD nhằm tạo ra sự thuận lợi cho người sử dụng phương tiện giáo dục
hiện đại này.Theo Adam Khoo có 3 loại SĐTD giúp con người có thể sắp xếp
kiến thức học tập hiệu quả:
Loại thứ nhất là SĐTD được xác lập theo đề cương. Cơ sở để tạo ra
loại sơ đồ này được tạo ra dựa vào phần mục lục trong sáchnhằm mục đích
mang lại một cái nhìn tổng quát về toàn bộ môn học, tiết kiệm được thời gian

học tập.
Loại thứ hai là xây dựng SĐTD theo chương. Đây là loại sơ đồ được
người sử dụng tạo ra trên cơ sở tóm tắt toàn bộ kiến thức của chương học. Để
xây dựng loại SĐTD này chúng ta cần phải đọc lướt qua toàn bộ chương sách
(nội dung bạn muốn dựng SĐTD). Tìm các từ khóa, từ khóa là những từ
mang ý nghĩa khái quát cho cả chương. Chúng ta có thể dựa vào tên chương,
nội dung chính của chương để xác định chủ đề trung tâm của SĐTD (thường
tên chương đã bao hàm ý tổng quát của cả chương). Xác định ý lớn, nhỏ,
chính, phụ của chương sách trên cơ sở đó HS có thể dễ dàng để phân cấp các
nhánh của SĐTD.
Loại cuối cùng có thể được sử dụng là xây dựng SĐTD theo đoạn văn.
Loại sơ đồ này thường được sử dụng khi tóm tắt đoạn văn hoặc một trích
đoạn trong sách giáo khoa. Vẽ SĐTD để tóm tắt nội dung chính của mỗi đoạn

13


và phát triển thêm nhiều ý chi tiết hơn. Việc làm này sẽ giúp cho chúng ta tiết
kiệm được thời gian hơn khi học hoặc ôn tập bài cũ.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc sử dụng SĐTD trong dạy học tiếng Việt
Việc sử dụng SĐTD trong dạy học tiếng Việt mang lại ý nghĩa to lớn
trong việc dạy và học cho GV và HS. Bởi lẽ,SĐTD là hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD một công
cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự
kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc,
hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô
tận của bộ não. Theo đó, việc dạy học bằng SĐTD giúp HS có được phương
pháp học hiệu quả hơn.Nhờ có SĐTD, GV có thểrèn luyện phương pháp học
tập cho HS. Thực tế cho thấy trong quá trình học tập, một số HS học rất
chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học

phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau,
không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần
lớn số HS khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép
để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng
thành thạo SĐTD trong dạy học sẽ giúp các em có được phương pháp học,
tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Việc sử dụng SĐTD trong dạy học tiếng Việt mang lại hiệu quả cao và
đáng khích lệ trong việc dạy và học cho GV và HS. SĐTD là một phương
tiện dạy hoc trực quan, có tác dụng kích thích hứng thú tìm hiểu của HS, qua
đó giúp các em tham gia hoạt động học tập một cách tích cực. Một số kết
quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình vì vậy việc sử dụng SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não.

14


Không chỉ có vậy, việc sử dụng SĐTD trong dạy học còn giúp cho GV
sẽ tìm ra cách thức liên kết các đơn vị kiến thức đã học, đang học và sắp học
một cách phù hợp. Trên cơ sở đó, GV có thể điều chỉnh các đơn vị kiến thức
trong bài dạy, tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng và
quan trọng hơn sẽ giúp cho HS nắm được kiến thức thông qua sơ đồ. Việc vận
dụng SĐTD trong dạy học tiếng Việt nói riêng và Ngữ Văn nói chung ở
trường THPT sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một
cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng
SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp,
thuyết trình, xem phim minh họa… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
phương pháp dạy học.
1.2. Cơ sở thực tiễncủa việc sử dụng SĐTD vào dạy học bài “Ôn tập phần

tiếng Việt”
Đểcó cơ sở thực tiễn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát nghiên cứu thực
trạng dạy và học tiếng Việt nói chung và thực tế dạy học bài “Ôn tập phần
tiếng Việt” nói riêng có sử dụng SĐTD trong nhà trường THPT hiện nay. Đối
tượng được tiến hành khảo sát là các GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong
nhà trường và những HS ở các khối lớp 10 tại Trường THPT Tiên Du 1(Bắc
Ninh). Việc đánh giá cơ sở thực tiễn được tiến hành trên các phương diện sau:
1.2.1. Điều tra thăm dò ý kiến và dự giờ của GV
Để có thể nắm bắt được ý kiến của đội ngũ chủ thể định hướng các hoạt
động dạy và học, chúng tôi biên soạn phiếu điều tra và thăm dò ý kiến cho
GV trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn với những câu hỏi (CH) (xem phần
mục lục). Chúng tôi đã phát ra 15 phiếu điều tra gồm 3 câu hỏi (CH) về các
nội dung liên quan đến SĐTD trong quá trình dạy học ở trường phổ thông.
Bên cạnh việc khảo sát thông qua phiếu điều tra, chúng tôi cũng trực tiếp dự
giờ của một số GV tại lớp để đưa ra những đánh giá khách quan về việc sử

15


dụng SĐTD trong dạy học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”. Việc dự giờ của GV
được tiến hành tại hai lớp 10A2, 10A6Trường THPT Tiên Du 1 (Bắc Ninh)
do hai cô giáo Nguyễn Thị Lộc, Nguyễn Thị Bích Liên giảng dạy.
Sau khi phát phiếu và được các GV giúp đỡ, trả lời CH, chúng tôi thu
được kết quả như sau:
Với CH thứ nhất, hầu hết các thầy cô giáo đều lựa chọn các phương
pháp giảng dạy truyền thống như phương pháp pháp vấn, đàm thoại, phương
pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp thuyết giảng. Các thầy cô đều biết và
ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học nhưng không thường xuyên do chưa
thành thạo cách sử dụng SĐTD thông qua phần mềm Mindmap.
Ở CH thứ hai,SĐTD được các thầy, cô sử dụng nhiều nhất trong bài ôn

tập, kiểm tra, đôi khi sử dụng trong khâu trả bài tập làm văn và rất ít sử dụng
SĐTD trong dạy học bài mới.
Trong CH thứ 3, tất cả các thầy cô giáo đều sử dụng SĐTD trong quá
trình dạy học nhưng đa phần lựa chọn cách đơn giản nhất là dùng bút, giấy,
mầu... để thiết lập SĐTD.Chỉ một số ít giáo viên sử dụng thành thạo phần
mềm SĐTD Mindmap. Qua trao đổi với GV, chúng tôi nhận thấy rằng nguyên
nhân chủ yếu do hạn chế về mặt thời gian, điều kiện cơ sở vật chất, trình độ tư
duy… Với thực tế đó, có thể nhận thấy, trong điều kiện cho phép, nếu GV sử
dụng thành thạo SĐTD vào quá trình dạy học sẽ tạo ra những chuyển biến
nhất định.
1.2.2. Điều tra thăm dò ý kiến của HS
Bên cạnh việc thăm dò ý kiến của đội ngũ GV, chúng tôi tiến hành điều
tra khảo sát nhằm hiểu hơn về thái độ và không khí học tập của chủ thể nhận
thức - HS. Gắn với nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi xác định đối tượng điều
tra là HS lớp 10 của Trường THPT Tiên Du 1 (Bắc Ninh). Công cụ giúp
chúng tôi nắm được ý kiến của các em là “phiếu điều tra HS” với 397 phiếu

16


điều tra, mỗi phiếu là 5 CH. Bên cạnh những CH điều tra về thái độ và tình
hình học tập, điều kiện học tập của HS, chúng tôi còn tiến hành tìm hiểu thực
tiễn và phương pháp học tập của HS, đặc biệt là việc sử dụng SĐTD vào việc
học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”. Kết quả điều tra giúp chúng tôi đưa ra nhận
xét như sau:
Đa số HS không thích học phân môn Tiếng Việt, coi việc học tiếng
Việt là một nhiệm vụ học tập (chiếm 46,10%) phải học một cách miễn cưỡng
không chút hứng thú, say mê với môn học (30,04%). Tỷ lệ HS hứng thú với
phân môn tiếng Việt là rất nhỏ chiếm 14,86%. Phần lớn các em không thích
học tiếng Việt vì chương trình tiếng Việt quá khô khan (30,73%), đôi khi vượt

quá tầm nhận thức của các em, GV chưa có phương pháp dạy học phù hợp
(59,70%), các em học tiếng Việt mà không được thực hành (9,57%)nên HS
không hứng thú học tập, trong giờ học chỉ thụ động nghe giảng rồi ghi chép
và về nhà học một cách thụ động máu móc vì thế HS không biết cách vận
dụng kiến thức tiếng Việt trong thực tiễn. Qua khảo sát và tiếp xúc với nhiều
HS, chúng tôi thấy rõ thái độ thờ ơ của các em đối với phân môn Tiếng Việt.
Qua khảo sát chúng tôi biết được tất cả HS đều sử dụng SĐTD trong
quá trình học tập song số HS thường xuyên sử dụng SĐTD chiếm tỷ lệ thấp
(27,20%), số HS thỉnh thoảng sử dụng SĐTD chiếm phần đông (72,80%). HS
thường sử dụng SĐTD khi kết thức bài chiếm 71,80%, HS sử dụng SĐTD
vào phần kiểm tra bài cũ chiếm 12,34% và bài mới 15,86%.
Cũng qua phiếu điều tra chúng tôi biết được rằng các em cho rằng sử
dụng SĐTD vào quá trình dạy học sẽ đạt hiệu quả cao (29,72%), hiệu quả
chiếm 48,61%. Chỉ một số ít HS cho rằng sử dụng SĐTD ít mang lại hiệu quả
(16,62%) và 5,04% HS cho rằng SĐTD không đem lại hiệu quả gì.
Sau khi tiến hành điều tra, khảo sát thái độ, không khí học tập của HS
trong giờ học bài “Ôn tập phần tiếng Việt”, chúng tôi tiến hành cho các em

17


×