Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.66 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................3
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:...............................3
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay:.................................................3
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay:..................................................10
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay:..............................................11
1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại:................................................................................................12
1.2.1. Thế nào là Thẩm định trong hoạt động cho vay?....................12
1.2.2. Vai trò của Thẩm định................................................................13
1.2.3. Nội dung Thẩm định ..................................................................15
1.2.4. Nguồn thông tin cho thẩm định ................................................21
1.3. Chất lượng Thẩm định ......................................................................23
1.3.1. Chất lượng Thẩm định là gì?.....................................................23
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Thẩm định .........................23
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng Thẩm định ...............25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
THÀNH CÔNG....................................................................................30
2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chi nhánh
Thành Công................................................................................................30
2.1.1. Lịch sử hình thành:.....................................................................30
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh năm 2006, 2007 của chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công....................................33
2.1.3. Những khó khăn mà chi nhánh đang gặp phải :......................41
2.2. Thực trạng chất lượng Thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công........................................42


2.2.1. Quy trình Thẩm định trong cho vay ........................................42
2.2.2. Những mặt đạt được:..................................................................52
2.2.3. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân..................................53
CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG THÀNH
CÔNG:..................................................................................................54
3.1. Đinh hướng hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Thành
Công trong thời gian tới:..........................................................................54
3.2. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng Thẩm định trong
hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công
.....................................................................................................................55
3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ:........................................55
3.2.2. Các cán bộ thẩm định phải tăng cường chủ động tìm kiếm
những khách hàng có chất lượng, những dự án đầu tư khả thi........57
3.2.3. Đa dạng hóa nguồn thông tin phục vụ công tác thẩm định:...58
3.2.4. Hoàn thiện phương pháp thẩm định và phương pháp chấm
điểm tín dụng - xếp hạng khách hàng: ...............................................60
3.2.5. Một số ý kiến đề xuất khác:........................................................61
3.3. Một số kiến nghị:................................................................................62
3.3.1. Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành..........................................62
3.3.2. Đối với NHNN..............................................................................63
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
3.3.3. Đối với khách hàng:....................................................................63
KẾT LUẬN...........................................................................................65
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
LỜI MỞ ĐẦU
Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những đặc
trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói riêng trong
từng thời kỳ nhất định. Công tác thẩm định trong hoạt động cho vay cũng không

đứng ngoài nguyên tắc này.
Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc
gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu kế hoạch phát triển đến
năm 2010 như thủy sản, dệt may, … Năm qua, GDP tăng trưởng 8,2% cùng với sự
tăng trưởng nhanh của lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghiệp, xây dựng, điện lực,
hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài,… Việc gia nhập và thực hiện các cam kết
WTO sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tạo ra một thị trường mở hơn và có tính
cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực ngân hàng tăng trưởng cả về qui mô và tính
phức tạp.
Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, hàm chứa nhiều rủi ro, đặc
biệt trong hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà
ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả được hoặc
không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Hoạt động cho vay có quy mô lớn nhất trong tất cả
các hoạt động tại ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên khi có
rủi ro, thì rủi ro đó tác động đến tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng như huy
động vốn, kinh doanh dịch vụ, kế toán thanh toán,…Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân
hàng cần tìm kiếm những khách hàng có khả năng vay và trả đúng hạn, tìm kiếm
được những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết
định cho vay. Muốn vậy, ngân hàng cần làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay
để hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận có
thể thu được.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng
cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Đề tài đã nêu ra
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
1
một số kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay của NHTM và công tác thẩm định
trong hoạt động cho vay. Đồng thời, đề tài này cũng nêu lên thực trạng công tác thẩm
định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
trong những năm gần đây, hướng đến một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất

lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh.
Chuyên đề được chia làm ba phần chính:
Chương I: Lý thuyết về Chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi
nhánh NHNT Thành Công
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong
hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công.
Ngoài ra, chuyên đề còn có hệ thống các bảng số liệu, biểu đồ minh họa.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo - Th.s Hoàng Lan
Hương đã giúp em hoàn thành chuyên đề này, cảm ơn toàn thể cán bộ của Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công, đặc biệt là các anh chị ở phòng Quan hệ khách hàng đã
tạo điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp đầy đủ số liệu trong suốt thời
gian em thực tập tại ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
2
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay:
1.1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại thường chiếm
tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng
là một kênh quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi và cung cấp nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
nền kinh tế.
Xét theo phương diện các loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, Peter Rose cho
rằng: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài

chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1997, Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo Nghị định 49-CP của Chính phủ ban hành năm 2000, Ngân hàng thương
mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế của Nhà nước.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay đều có định hướng
hoạt động khá giống nhau là kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, phục vụ đa dạng các
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
3
khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây cũng là xu hướng phát triển hoạt động
kinh doanh của hầu hết các tổ chức tài chính, NHTM trên thế giới
Các chức năng cơ bản của một ngân hàng đa năng ngày nay:
1.1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM nói riêng và của các trung
gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ
lãi lớn nhất và cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.
Theo Điều 4, NĐ 49/2000/NĐ-CP, Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước.
Cho vay là một bộ phận của hoạt động tín dụng. Theo QĐ 1627/2001/ QĐ –
NHNN thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền sử dụng vào một mục đích và trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. Qua hoạt động cho

vay, ngân hàng điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức là phân phối lại nguồn
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
Ngân hàng hiện
đại
Môi giới
Bảo hiểm
Ngân hàng đầu

& bảo lãnh
Thanh
toán
Tiết kiệm
Tín dụng
Ủy thác
Quản lý tiền
mặt
Lập kế hoạch đầu

4
vốn nhàn rỗi huy động được từ dân cư, doanh nghiệp, Nhà nước, các tổ chức tín dụng
khác, để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Điều 5 NĐ này quy định: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân
vay vốn dưới các hình thức :
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Phân loại:
 Căn cứ theo thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: dưới 12 tháng, mục đích của loại cho vay này thường tài

trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động của khách hàng;
- Cho vay trung hạn: từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố
định;
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm, thường là đầu tư vào các dự án.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính tương đối vì nhiều khoản vay
không xác định trước được chính xác thời hạn. Việc phân chia theo thời gian có ý
nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lợi của tài sản.
 Căn cứ vào phương thức cho vay của ngân hàng:
- Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng
(người vay) được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong việc
thanh toán: chủ động, nhanh chóng và kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
5
hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh
nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả
lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Do vậy hình thức này chỉ sử dụng cho
đối tượng khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
- Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận
cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn
mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu
cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay – trả nhiều lần nhưng
số dư không được vượt quá hạn mức tín dụng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho khách hàng vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay dựa trên lưu chuyển
của hàng hóa nên cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kỹ kế hoạch lưu

chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Rất thuận tiện cho
khách hàng vì chỉ cần làm thủ tục 1 lần cho nhiều khoản vay.
- Cho vay gián tiếp: Phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng đều là cho vay
trực tiếp, bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp- là hình
thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội,
hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,…
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của quá trình cho vay sang các tổ chức trung
gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp
cho các thành viên vay vốn. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc
không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí trung gian, ngân hàng trích
một phần thu nhập để lại cho trung gian. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn
chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Hình thức cho vay gián tiếp thường được
áp dụng đối với thị trường có các món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân
hàng, qua trung gian có thể tiết kiệm được chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
6
nợ,…). Mặc dù hình thức cho vay qua trung gian hạn chế được rủi ro và chi phí cho
ngân hàng, nhưng nó cũng bộc lộ một số khuyết điểm như: nhiều trung gian đã lợi
dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho
vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho mình, các nhà bán lẻ có thể
lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
 Căn cứ theo hình thức hoàn trả nợ vay:
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thới hạn tín dụng xác định. Cho vay trả góp thường
được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ hoặc hàng lâu
bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Ngân
hàng thanh toán tiền hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp cho người bán lẻ. Các
cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng, và làm đại lý thu
tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình

thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu
thụ hàng hóa. Đây là hình thức cho vay mang lại rủi ro cao do khách hàng thường
dùng chính hàng hóa mua trả góp để thế chấp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu
nhập đều đặn của người vay. Vì rủi ro cao nên cho vay trả góp thường có lãi suất cao
nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình
ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng, ký hợp
đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu
gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước
hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
7
lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng
món vay cách biệt.
 Căn cứ theo đảm bảo hay dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Cho vay không có tài sản đảm bảo;
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Về nguyên tắc mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy
nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể
bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó các khoản nợ có đảm bảo thực
chất là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản nợ không
gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc
phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng mà chỉ giúp
ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý đảm bảo
khi cần thiết.
 Căn cứ vào mục đích: Cho vay đầu tư theo dự án và cho vay tiêu dùng.

- Cho vay đầu tư theo dự án: Bên cạnh loại hình truyền thống là cho vay ngắn
hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong việc cho vay đối với các dự
án, tài trợ cho xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định,… nhằm thực hiệ
những dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân
hàng là người đi vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng
như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định
phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Do rủi ro trong loại hình
tín dụng này nói chung là rất cao song lãi lại lớn.
- Cho vay tiêu dùng: là những món vay nhỏ lẻ cho cá nhân, phục vụ cho mục
đích tiêu dùng, mua hàng trả góp hàng hóa lâu bền như ô tô, xe máy, nhà cửa,… Cho
vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ, do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
8
hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một số hãng đã phải
vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Trong thời gian đầu hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình, vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dân dẫn đến nhu cầu tiêu dùng
ngày một cao và sự cạnh tranh trong cho vay đã khiến ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như một đối tượng khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng
trưởng mạnh nhất ở các nước phát triển.
Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông
qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các
doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn
bộ, hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Nếu người
vay bị chết, ốm, hoặc mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Nhiều khoản cho vay
với thời hạn dài (mua nhà thế chấp), vì vậy ngân hàng cần lập dự phòng cho vay tiêu
dùng để chuyên theo dõi. Bên cạnh đó ngân hàng thường đòi hỏi lãi suất rất cao, yêu

cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiêp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa
đã mua,…
Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay bằng cách mua trái phiếu trung và
dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài
sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất, tình hình tài chính
của doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai… đều được ngân hàng tính toán khi mud
trái phiếu. Trái phiếu cũng có thể xem như là khoản đầu tư của ngân hàng trung và
dài hạn.
Ngân hàng thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ và hình thức khác nhau, nhằm
đáp ứng nhu câù ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ quốc gia, tổ
chức tài chính, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, các doanh nghiệp, hộ gia
đình,… Các loại hình cho vay không ngừng được mở rộng, đa dạng và hoàn thiện
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
9
theo hướng mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn
và lợi ích cho ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay:
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy
động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
nên các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài
sản lớn nhất và quan trọng nhất. Cho vay là tài sản lớn nhất trong các khoản mục tín
dụng, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế:
- Cho vay là một kênh cung cấp vốn quy mô lớn và quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Có rất nhiều cách để huy động vốn như: góp vốn, đi vay, phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, vốn từ tài trợ, huy động từ các nguồn khác,…tuy nhiên đi vay vẫn là kênh
vốn phổ biến nhất với chi phí vừa phải, và tiết kiệm thời gian.. Mặc dù nếu doanh
nghiệp huy động vốn bằng các hình thức khác, lãi suất sẽ thấp hơn nhưng những chi
phí khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra không phải là nhỏ, lại mất nhiều thời gian.
Ngoài ra đi vay còn giúp doanh nghiệp có một khoản tiết kiệm từ thuế không phải

nộp cho Nhà nước.
- Cho vay đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển. Trong mỗi thời kỳ,
Nhà nước đều có những chính sách, chiến lược khác nhau, nhưng đầu tư phát triển
luôn là mục tiêu hàng đầu. Do vậy hoạt động cho vay luôn được khuyến khích, quan
tâm.
1.1.2.2. Đối với ngân hàng:
Cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng nhằm sử dụng nguồn vốn đã huy
động được để thu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay là nguồn lợi nhuận
chính của ngân hàng, (chiếm khoảng 70% tổng lợi nhuận).
Cho vay còn là kênh “tiêu thụ” cho nguồn vốn huy động được, không để nguồn
tiền nhàn rỗi trong dân cư trở nên lãng phí trong khi có rất nhiều dự án phục vụ đầu
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
10
tư phát triển đang cần vốn. Ngân hàng cho vay, thu lãi nhằm bù đắp phần lãi phải trả
cho người gửi tiền, đồng thời kiếm lợi cho mình, đảm bảo duy trì ổn định và kinh
doanh có hiệu quả.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay:
Bản chất của hoạt động cho vay là một loại hình cấp tín dụng nên nó có đầy đủ
những đặc điểm của hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng vì mục tiêu sinh lời,
như vậy, mục tiêu an toàn và sinh lời vẫn là mục tiêu chính trong quản lý tín dụng.
Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.
Thu dự tính từ hoạt động cho vay (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc vào
quy mô, thời gian và lãi suất; và cả ba yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau. Thứ
nhất, ngân hàng sử dụng mọi nỗ lực của mình để tăng quy mô cho vay như mở rộng
mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình cho vay, phát triển công nghệ mới nhằm gia
tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi,…các
biện pháp này một mặt làm tăng quy mô, song mặt khác cũng làm tăng chi phí. Do
vậy, thứ hai ngân hàng phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ giữa các biện pháp
tăng quy mô với thu nhập ròng từ hoạt động cho vay thông qua chênh lệch lãi suất
biên. Mối quan hệ này cho phép ngân hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ

khác với các khách hàng lớn, quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác
trên thị trường.
Cho vay cũng là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho NHTM.
Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất và làm giảm
thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần lớn
vốn chủ sở hữu, đẩy ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, an toàn tín dụng là
nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại. Có hai mối quan
hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động cho vay. Trước khi cho vay, mối quan hệ có
thể là: rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn; cho vay trung và dài hạn, cho vay
tiêu dùng,… rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay
ngắn hạn hoặc cho vay đối với doanh nghiệp,… Tuy nhiên sau khi cho vay rồi thì
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
11
mối quan hệ sẽ là: tổn thất càng cao thì sinh lời càng thấp. Ngân hàng có thể theo
đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối
quan hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài
hạn.
Nếu phân chia theo thời gian có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. Tỷ
trọng cho vay ngắn hạn trong ngân hàng thường cao hơn so với cho vay trung và dài
hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Cho vay
trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và
khan hiếm hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như: kỳ hạn và tính ổn định
của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự
phòng rủi ro trong trung và dài hạn,…
Tín dụng là hoạt động có quy mô rất lớn, khoản mục này thường chiếm khoảng
70% tổng tài sản của ngân hàng, mà trong đó phần lớn là cho vay.
Với quy mô như vậy, cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động của
ngân hàng như dự trữ, huy động vốn, đầu tư,… Khi chứng khoán thanh khoản chưa
có hoặc khan hiếm, hoặc khi khả năng gia tăng huy động vốn bị hạn chế, nhiều ngân
hàng đã phải sử dụng co vay như một tài sản đảm bảo thanh khoản. Vì vậy ngân hàng

thường nghiêng về việc nắm giữ các khoản cho vay ngắn hạn, hoặc các khoản tín
dụng có khả năng chuyển đổi nhanh. Các khoản cho vay 3 tháng nhanh chóng sẽ
được thu hồi để đáp ứng nhu cầu chi trả. Trong điều kiện ngân hàng chuyển hoán kì
hạn của nguồn, việc thu nợ nhiều lần trong kì (nhiều kì hạn nợ) sẽ góp phần tăng tính
thanh khoản cho khoản cho vay.
1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Thế nào là Thẩm định trong hoạt động cho vay?
Cho vay là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho NHTM.Tổn thất nếu xảy ra
sẽ làm giảm thu nhập dự tính của ngân hàng, có thể gây ra thua lỗ hoặc dẫn đến ngân
hàng bị phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
12

×