Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Những vấn đề cơ bản về Thuế GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.48 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Thuế không những là nguồn thu chủ yếu của ngân sách mà còn là công cụ
điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nớc. Một chính sách thuế thích hợp sẽ nâng cao
đợc hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo đợc nguồn thu cho ngân sách nhà nớc và
đảm bảo độ an toàn trong chính sách hội nhập kinh tế. Do vậy, cùng với việc thực
hiện đờng lối đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc, Đảng và Chính phủ đã dành nhiều sự quan
tâm chú ý lớn cho công tác đổi mới hệ thống thuế.
Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của đất nớc cũng nh bối cảnh quốc tế
mới đòi hỏi chúng ta phải có những cải cách mới, làm cho hệ thống thuế vừa đáp
ứng đợc nhu cầu quản lý trong nớc vừa phù hợp với những luật lệ và thông lệ quốc
tế. Để đáp ứng đợc yêu cầu đó, năm 1999 thuế giá trị gia tăng đã đợc ban hành thay
thế cho thuế doanh thu, đánh dấu một bớc tiến bộ trong công tác quả lý vĩ mô của
Đảng và Nhà nớc. Từ đó đến nay sắc thuế này đã liên tục đợc sửa đổi bổ sung và
ngày càng hoàn thiện.
Vừa qua, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung
một số điêù của Luật thuế GTGT. Bắt đầu từ ngày 1/1/2004 thuế GTGT đã có rất
nhiều thay đổi và việc cập nhật những thay đổi này là vô cùng cần thiết không chỉ
đối với những ngời đang tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế mà còn rất hữu
ích đối với những ngời sẽ tham gia vào các hoạt động đó trong tơng lai - các sinh
viên kinh tế đặc biệt là chuyên ngành kế toán. Do đó em đã chọn đề án này để
nghiên cứu
Trên thực tế, không có giải pháp nào là hoàn hảo. Luật sửa đổi bổ sung đã khắc
phục rất nhiều những khuyết điểm của Luật thuế GTGT trớc đây, tuy nhiên nó vẫn
còn một số bất cập cần đợc nhìn nhận một cách khách quan, từ đó tìm ra nguyên
nhân và phơng hớng khắc phục để phù hợp với mục tiêu và điều kiện của nớc ta
trong giai đoạn này.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng


I. Lịch sử hình thành và phát triển của thuế giá trị gia tăng
(GTGT)
Giá trị gia tăng (GTGT) là phần giá trị của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong
quá trình từ sản xuất, lu thông đến tiêu dùng
Thuế GTGT tiếng Anh là Value Added Tax (VAT), tiếng Pháp là Taxe sur la
Valeur Ajoutee (VAT) là loại thuế đợc tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản suất, lu thông đến tiêu dùng. Do thuế
tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dich vụ nên đối tợng nộp thuế phải là
các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có giá trị tăng thêm, nhng thực chất
phần thuế mà họ nộp là do ngời mua hàng hoá, dịch vụ phải thanh toán. Vì vậy, thuế
GTGT là thuế gián thu
Là một loại thuế hay là một phơng pháp đánh thuế nên thuế GTGT có thể có
nhiều loại nh: thuế GTGT về tài sản, thuế GTGT về thu nhập, thuế GTGT về doanh
thu... Nhng chủ yếu, các nớc chỉ sử dụng thuế GTGT về doanh thu.
Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với Nhà nớc và sản xuất hàng hoá, nên
khi nền sản xuất xã hội phát triển, năng suất lao động tăng, nhu cầu chi tiêu của Nhà
nớc tăng lên, Nhà nớc không ngừng cải tiến bổ sung các loại thuế để tăng thêm
nguồn thu cho mình. Để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nớc trong chiến tranh
Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rông rãi của quảng
đại quần chúng nhân dân, thuế doanh thu đợc nghiên cứu áp dụng đầu tiên ở Pháp từ
năm 1917. Thời kỳ đầu, thuề doanh thu chỉ thu ở giai đoan cuối cùng của quá trình
lu thông hàng hoá (khâu bán lẻ) với thuế suất rất thấp. Do chỉ thu ở khâu bán lẻ với
thuế suất thấp nên số thu từ thuế ít và khó quản lý thu thuế, đến đầu năm 1920, thuế
doanh thu đợc điều chỉnh đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Khi thuế
doanh thu đợc tính và nộp cho từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, lu
thông sẽ làm cho thuế đợc san sẻ qua các khâu nên đáp ứng đợc việc tăng nguồn thu
cho nhà nớc, mặt khác tiền thuế đơc thu kịp thời đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính
phủ. Trên thực tế việc tính và thu thuế theo cách này đã phát sinh nhợc điểm vì tính
trùng lặp. Khi quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu của nhiều cơ sở
sản xuất kinh doanh khác nhau thì thuế càng cao và thuế trùng lên thuế càng nhiều.

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để khắc phục nhợc điểm này, năm 1963 Pháp đã cải tiến thuế doanh thu từ việc
đánh vào doanh thu của từng khâu sang hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn
cuối cùng của quá trình sản xuất (tức là trớc khi sản phẩm đợc đa vào lu thông lần
đầu). Việc đánh thuế độc lập một lần nh vậy khắc phục đợc hiện tợng đánh thuế
trùng lặp, nhng cách tính này lại phát sinh nhợc điểm là thuế bị chậm trễ so với trớc,
vì chỉ khi hàng hoá đa vào lu thông thì Nhà nớc mới thu đợc thuế ...
Trớc một thực tế là Nhà nớc muốn thu đợc nhiều thuế và thu kịp thời, vừa thúc
đẩy sản xuất phát triển để bồi dỡng nguồn thu cho giai đoạn sau, các nhà kinh tế đã
liên tục sửa đổi, bổ sung cho thuế doanh thu ngày càng hoàn thiện. Trên cơ sở đánh
thuế doanh thu một lần trớc khi đa sản phẩm vào lu thông.Vào đâu những năm năm
mơi, môt ngời Đức tên là Cart Friedrich Von Simens ( thành viên sáng lập ra công ty
Simensa.G - Một công ty sản xuất máy móc điện tử lớn nhất nớc Đức), đã nghĩ ra
một chính sách thuế có thể thay thế cho thuế Doanh thu. Đó là thuế GTGT tính trên
phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ khi qua mỗi công đoạn từ sản xuất, lu
thông đến tiêu dùng. Mặc dù đợc khai sinh ở Đức, nhng vào thời điểm này những lý
luận của Simens đa ra không đủ sức thuyết phục Chính phủ nên không đợc thực hiện
đầu tiên ở nớc Đức.
Trên thực tế thì thuế GTGT đợc nghiên cứu và áp dụng đầu tiên tại Cộng hoà
Pháp ngày 1 tháng 7 năm 1954. Vì Pháp là một trong những nớc có nền công nghiệp
rất phát triển (tiến hành cách mạng công nghiệp sớm). Ban đầu thuế GTGT ở Pháp
ra đời chỉ nhằm vào một số ngành cá biệt, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế
chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp. với thuế suất đòng loạt là
20% và chỉ khấu trừ thuế ở khâu trớc đối với nguyên liệu,vật liệu. Đến năm 1966,
trong xu hớng cải tiến hệ thống thuế "đơn guản và hiện đại"chung ở châu Âu, TVA
đợc ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu. Đến năm 1986, thuế
GTGT ở Pháp đợc áp dụng cho mọi ngành nghề và trong mọi lĩnh vực.
Năm 1953, ngời Nhật cũng nghiên cứu thuế GTGT và dự thảo ra bộ luật về
thuế GTGT, nhng không đợc quốc hội thông qua (đến năm 1988, Nhật mới áp dụng

loại thuế này).
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng đã chứng minh đợc sự thành
công của việc điều tiết nền kinh tế bằng phơng pháp gián tiếp là chủ yếu.Trong bối
cảnh đó với những u điểm đặc biệt của thuế GTGT mà nó đã đợc nhanh chóng triển
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khai, áp dụng rộng rãi. Từ 1954 đến giữa tháng 7 năm 1991 đã có hơn 100 nớc đa
thuế GTGT vào hệ thống thuế khoá của nớc mình.
Riêng tại châu á theo nhận định của Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, thuế GTGT
ngày càng trở thành một sắc thuế phổ biến trong khu vực này. Khởi đầu tại Korea
(1977), Indonesia (1984), Đài Loan (1986), Philipines (1988), Nhật Bản (1988),
TháiLan (1992) ...
Hiện nay trên Thế giới đã có nhiều nớc chuyển sang áp dụng thuế GTGT, để
hợp nhất và hiện đại hoá cơ cấu thếu quan của nớc mình nh: Chi Lê, Haiti,
Indonesia, Mêhicô... Có những nớc nhờ áp dụng thuế GTGT đã đạt đợc những tiến
bộ to lớn về khoa học kỹ thuật, cải thiện nền kinh tế đất nớc nh: Anh áp dụng mức
thuế suất 15%; Đan Mạch: 25%; Thuỵ điển với 3 mức thuế: 6%, 15%, 22%. Ngoài
ra còn có các nớc: Đức, Sinhgapore, Trung Quốc... và đỉnh cao nhất của sự hoàn
thiện này vẫn là Cộng hoà Pháp. Các nớc thành viên EC đã chọn thuế GTGT nh một
giải pháp tốt nhất để thống nhất việc đánh thuế, khuyến khích quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và tăng năng suất lao động.
Qua khảo sát cho thấy sau khi thay thuế doanh thu hoặc một số loại thuế khác
đã làm gia tăng số thu ngân sách, trở thành một yếu tố quan trọng trong tổng số thu
của các nớc đang sử dụng loại thuế này.
ở Việt Nam, luật thuế GTGT đợc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 thông qua
ngày 10-5-1997 và có hiệu lự thi hành rừ ngày 1-1-1999. Việc chuyển sang áp dụng
thuế GTGT ngoài mục đích từng bớc hoà nhập với chính sách thuế của các nớc
trong khu vực và trên Thế giới, còn vơn tới việc cải cách hệ thống thuế khoá thích
hợp cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nến kinh tế thị trờng
theo định hớng XHCN.

II. Thuế giá trị gia tăng của một số nớc trên thế giới và bài
học kinh nghiệm
1. Đặc điểm của thuế GTGT.
Thuế GTGT có phạm vi thu rất rộng, đối tợng phải nộp thuế là toàn bộ các cơ
sở hoạt động sản xuất, kinh doanh kể cả gia công , chế biến và hoạt động dịch vụ
tiêu thụ trong nớc, kể cả hàng hoá nhập khẩu.Tuy nhiên, một số hàng hoá, dịch vụ
miễn thuế đợc quy định tuỳ thuỗc vào mỗi nớc trong từng thời kỳ cụ thể. Vì vậy,
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bất kỳ một nớc nào khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, đồng thời cũng phải rà
soát lại pham vi và thuế của các chính sách thuế khác.
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụthu thuế GTGT qua việc bán
cá hàng hoá, dịch vụ này. Tiền thuế ẩn trong giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ đ-
ợc các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp vào Ngân sách Nhà nớc thay cho ngời tiêu
dùng. Thuế GTGT là thuế gián thu có tính chất điển hình và vì vậy , đây cũng là
chính sách thuế tốt xét cề mặt "trách nhiệm chính trị ".
Thuế GTGT không đánh vào đầu t vì thuế nằm ngoài giá trị tài sản cố định và
giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Ngời mua phải trả thêm tiền thuế GTGT và
tiền thuế này sẽ đợc tách riêng để khấy trừ khi tính thuế GTGTphải nộp ổ giai đoạn
sau.
Thuế GTGT đợc tính dựa trên giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chứ không
căn cứ vào hình thái hiện vật, cũng nh công dụng của chúng.
Một đặc điểm quan trọng của thuế GTGT là cho dù sản phẩm có trải qua bao
nhiêu giai đoạn thì tổng số thuế phải nộp cũng không thay đổi. Đó chính là số thuế
mà ngời tiêu dùng cuối cùng phải trả
Tổng thuế GTGT phải nộp
của một sản phẩm
=
Thuế
suất

x
Giá mua của ngời tiêu
dùng cuối cùng
Thuế GTGT ở mỗi khâu nhiều hay ít tuỳ thuộc vào GTGT ở khâu đó, vì vậy
thuế GTGT không làm tăng giá đột biến khi sản phẩm trải qua nhiêu giai đoạn sản
xuất, lu thông, cung ứng dịch vụ nên không gây xáo trộn lớn cho hoat động sản
xuất, kinh doanh.
Thuế GTGT là loại thuế mang tính trung lập cao. Xét về cơ bản, thuế GTGT
không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất kinh doanh ,
cung ứng dịch vụ, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể, không gây phức tạp trong việc
xem xét từng mặt hàng, ngành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều, không
khuyến khích việc hội nhập doanh nghiệp theo chiều dọc để tránh thuế. Mục tiêu
của thuế GTGT không phải để trực tiếp điều chỉnh sự chênh lệch về thu nhập hay tài
sản nh thuế thu nhập, thuế tài sản.Vì thế, thuế GTGT thờng ít mức thuế suất, số đối
tợng đợc miễn giảm rất hạn chế, đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng và ít gây sự rối loạn
hay méo mó .
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
GTGT của hàng hoá, dịch vụ phát sinh là căn cứ để tính số thuế GTGT phải
nộp. Điều quan trọng là phải xác định một cách đúng đắn phần GTGT thực sự phát
sinh qua mỗi giai đoan sản xuất, kinh doanh, lu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ
đến tiêu dùng. Để thực hiện đợc điều đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh cần phải áp
dụng nghiêm ngặt chế độ sử dụng hoá đơn, chứng từ. Các đối tợng nộp thuế cần có
đầy đủ hoá đơn đầu ra và hoá đơn đầu vào tơng ứng .
Thuế suất thuế GTGT căn cứ vào loại hàng hoá, dịch vụ chứ không phân biệt
ngành nghề và gía trị sử dụng của hàng hoá, dịch vụ .
2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở một số nớc
2.1. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở Pháp.
Thuế GTGT ở Pháp đợc ban hành năm 1954, với tên gọi theo tiếng Pháp là
Taxe sur la valeur ajoutée (đợc viết tắt là T.V.A) - thuế trị giá gia tăng (TGGT).

* Phạm vi áp dụng của thuế TGGT.
Đợc xem xét trên các mặt: Những hoạt động và đối tợng phải nộp thuế, tính
lãnh thổ và những trờng hợp không thuộc diện đánh thuế. Cụ thể:
Những hoạt động và đối tợng phải nộp thuế TGGT đợc xác định theo 3 điều
kiện cơ bản là:
- Thực hiện việc giao bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ thuộc loại phải trả
tiền.
- Thuộc phạm vi hoạt động kinh tế, mang tính độc lập.
- Do một đối tợng thuộc diện nộp thuế TGGT thực hiện.
Tính lãnh thổ của thuế TGGT dợc xác định theo 2 nguyên tắc cơ bản là:
- Việc giao hàng hoá đợc thực hiện tại nớc Pháp.
- Việc cung ứng dịch vụ do ngời hoạt động dịch vụ có của hàng giao dịch và cơ
sở ổn định, hoạt động trên nớc Pháp hoặc có chỗ c trú trên nớc Pháp.
- Từ 2 nguyên tắc trên, nói chung hàng xuất khẩu không phải nộp thuế TGGT.
Ngợc lại, hàng nhập khẩu vào nớc Pháp phải nộp thuế TGGT. Từ 1-1-1993, hàng từ
các nớc ngoài nhập khẩu vào Cộng đồng châu Âu phải nộp thuế TGGT, còn hàng
nhập khẩu giữa các nớc trong Cộng dồng châu Âu không phải nộp thuế TGGT.
Những trờng hợp không thuộc diện đánh thuế TGGT. Đó là những hoạt động
thông thờng thuộc phạm vi đánh thuế, đợc chia thành 3 nhóm theo nột số điều kiện
nhất định sau đây:
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đối với hoạt động thông thờng trong nội địa: có tính chất phụ, hoạt động
trong ngành giáo dục, văn hoá, thể thao, xã hội, ngân hàng, bảo hiểm phục vụ nông
nghiệp, ng nghiệp, cơ sở kinh doanh nhỏ, phục vụ công cộng ...
- Đối với hàng nhập: đang chờ làm thủ tục hải quan, tái xuất, tái sản của cá
nhân, hàng của các tổ chức từ thiện, hàng với số lợng ít không mang tính chất buôn
bán, hàng thuộc hành lý, văn hoá phẩm không có tính chất kinh doanh, một số cổ
phần, trái phiếu đợc phép nhập...
- Đối với hàng xuất khẩu: hàng xuất, cung ứng dịch vụ gắn với thông thơng

quốc tế, giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ thuộc loại tiếp tế cho táu thuỷ, máy bay...
* Căn cứ tính thuế
Về cơ bản , căn cứ tính thuế TGGT đối với mọi hoạt động giao bán hàng hoá
hoặc cung ứng dịch vụ là trị giá hàng hoá (hoặc tiền dịch vụ) bằng tiền hoăc bằng
hiện vật. Trị giá hành hoá (hoặc tiền dịch vụ) bao gồm mọi khoản cấu thành trong
giá, nh chi phí vật chất, các chi phí khác, tiền lãi của đơn vị kinh doanh, các khoản
thuế , lệ phí phải nộp, trừ vản thân thuế TGGT. Nói cách khác, thuế TGGT tính trên
trị giá hàng hoá (hoặc tiền dịch vụ) không gồm bản thân thuế TGGT.
Riêng đối với hoạt động đại lý, môi giới, thuế tính trêm tiền hoa hồng đợc h-
ởng khi có đủ điều kiện về hợp đồng và hoạt động đúng hợp đồng đại lý (hợp đồng
ghi rõ giá bán, tiền hoa hồng đợc hởng, thực hiện hạch toán trên sổ kế toán đầy đủ,
rõ ràng).
Đối với bất động sản, bao gồm cả việc mua bán bất động sản và hoạt động xây
dựng, sửa sang để bán. Căn cứ tính thuế là giá ghi trên hợp đồng mua bán, hoặc bản
thanh toán, hay hoá đơn hợp lệ...
Đối với hàng nhập, thông thờng, căn cứ tính thuế là giá hàng đợc xác định theo
luật thuế quan, bao gồm cả những yếu tố cấu thành trong giá hàng nhập (giá CIT) và
các loại thuộc lệ phí, các khoản thu lhác giống nh đối với hàng hoá trong nớc, trừ
bản thân thuế TGGT.
Thuế TGGT không tính đối với khoản tiền giảm giá do khách hàng đặt tiền tr-
ớc hoạc trả tiền mặt, tiền hoa hồng đợc trích hay tiền phạt do ngời kinh doanh giao
hàng chậm.
*Thuế suất thuế TGGT.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ năm 1986, thuế TGGT có 4 thuế suất: 5,5%; 7%; 18,6% và 33,3%, tuỳ mặt
hàng và ngành nghề kinh doanh cần thiết nhiều hay ít cho sản xuất, đời sống nhân
dân.
Để đơn giản hoá cơ cấu hệ thống thuế suất, từ 1-1-1989, các hoạt động trớc
đây chịu thuế suất 7% đuợc gộp chung với thuế suất 5,5% và loại chịu thuế suất

33,3% đợc điều chỉnh dần xuống 28%, 25%, 22% rồi hoà nhập vào loại 18,6%.
Hiện nay thuế GTGT ở Pháp có 2 thuế suất là:
- 5.5% áp dụng đối với nông sản cha chế biến, cho thuê nhà ở, vận chuyển
hành khách, biểu diễn văn nghệ, thuốc chữa bệnh...
- 18,6% áp dụng đối với các mặt hàng, dich vụ khác.
* Chế độ khấu trừ thuế TGGT.
Theo nguyên tắc cơ bản của thuế TGGT, nghiệp vụ tính và thu thuế TGGT qua
từng khâu chỉ mang tính chất "tạm ứng". Số thuế TGGT đã nộp ở khâu trớc sẽ đợc
khấu trừ ở khâu sau cho đơn vị kinh doanh, còn đối với ngòi tiêu dùng, không phải
trả thuế TGGT đối với từng khâu riêng biệt mà phải trả toàn bộ số thuế TGGT phải
nộp cho đến khi kết thúc chu kỳ kinh tế.
Phần thuế TGGT đợc khấu trừ chỉ đợc giải quyết cho đối tợng nộp thuế đã thực
hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết về đăng ký, sổ kế toán, chứng từ, hoá đơn và có cơ
sở để chứng minh đợc là: trong toàn bộ giá thành của hoạt động giao bán hàng hoặc
cung ứng dịch vụ, thực tế đã có thuế TGGT nộp ở khâu trớc.
Khi số tiền đợc khấu trừ lớn hơn số thuế phải nộp, số chênh lệch sẽ đợc hoàn
dần vào số thuế TGGT nộp lần sau cho đến khi hết số tiền đợc hoàn và đợc coi là
một " khoản tín dụng thuế".
Về nguyên tắc, thuế TGGT phải nộp vào kho bạc trong tháng phát sinh hoạt
động bán hàng hoạc cung ứng dịch vụ. Trên thục tế, chỉ có vất động sản , ô tô , máy
móc ... mới đựơc tính khấu trừ thuế theo nguyên tắc đó. Còn thuế TGGT đối với hàn
hoá, dịch vụ khác chỉ đợc khấu trừ vào tháng tiếp theo sau tháng đơn vị kinh doanh
phải nộp thuế. Quy định này gọi là "Quy định chênh lệch một tháng" nhằm tạo cho
Nhà nớc đợc hởng một khoản tiền trong kho bạc tơng đơng với một tháng khấu trừ
đối với hàng hoá, dịch vụ nói trên. Đây cũng là điều kiện không hợp lý mà Chính
phủ Pháp đang nghiên cứu khắc phục.
* Chế độ hoàn thuế TGGT:
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các đối tợng nộp thuế có quyền làm đơn gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý

cở để xin đợc xét hoàn lại số thuế TGGT đã nộp thừa hoặc khoản thuế đợc giảm nh-
ng cha đợc gải quyết.
Việc hoàn thuế đợc giải quyết theo năm dơng lịch.Trong năm, các đơn xin
hoàn thuế phảu nộp theo quý, vào các tháng 4, 7, 10 để họ đợc xét cho 3 quý đầu
năm. Hoàn thuế theo quý đợc giải quyết trong trờng hợp số tiền hoàn trong quý ít
nhất là 5000 FRF (tơng đơng 1000 USD). Việc hoàn thuế cho tháng 1 năm sau đợc
giải quyết mang tính tổng kết số thuế TGGT phải nộp cho cả năm trớc.
Trong chế độ thuế TGGT có quy định việc giảm thuế TGGT đối với một số tr-
ờng hợp liên quan đến bất động sản mà bản thân xí nghiệp là ngời chịu thuế ( việc
giảm thuế đợc định theo tỷ lệ tính trên giá trị bất động sản...). Thuế chỉ đợc giảm khi
điều đó đợc ghi trong tờ khai của ngời chịu thuế. Khi số thuế đợc giảm lớn hơn số
thuế phải đóng, số d sẽ là "tín dụng thuế" và thông thờng đợc chuyển dần cho đến
hết đối với tờ khai tiếp theo. Giảm thuế đối với việc mua bất động sản sẽ bị ngừng
lại khi những bất động sản không còn sử dụng cho nhu cầu kinh doanh nữa. Việc rút
quyền đợc giảm thuế còn đựơc thực hiện trong trờng hợp chuyển nhợng bất động
sản giữa các ngành khác nhau.
* Chế độ khoán miễn nộp thuế TGGT.
Những đơn vị kinh doanh thuộc loại vừa, đợc áp dụng chế độ thuế TGGT
khoán trong trờng hợp doanh thu hàng năm (không gồm thuế TGGT) không quá giới
hạn dới đây:
- 500.000 FRF đối với cơ sở buôn bán bách hoá, thực phẩm mua mang về, đồ
ăn uốmg tại chỗ, cho thuê nhà.
- 150.000 FRF đối với cơ sở buôn bán khác.
- 175.000 FRF đối với các cơ sở kinh doanh không phải là buôn bán.
Chế độ thu khoán không hoàn toàn bắt buộc mà các cơ sở này có thể đề nghị
cho áp dụng chế độ thu thuế khoán hoặc chế độ thu đơn giản. Viêc lựa chọn này đ-
ợc áp dụng đối với các đối tợng nộp thuế lợi tức theo chế độ khoán.
- Từ ngày 1-1-1991, thuếTGGT đợc miễn cho các cơ sở kinh doanh thuộc diện
nộp thuế TGGT là loại nhỏ mà doamh thu (không gồm thuế TGGT) của năm trớc
không vợt quá 700.000 FRF. Nếu trong năm sau mà doanh thu vợt 70.000 FRF thì

đơn vị bắt đầu phải nộp thuế TGGT từ ngày 1-1 năm tiếp theo. Trong quá trình thêo
dõi hoạt động của cơ sở, nếu phát hiện doanh thu trong năm vợt 100.000 FRF thì
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đơn vị bắt đầu phảo nộp thuế TGGT từ 1-4-1991, thuế TGGT còn đợc miễn đối với
các hoạt động nghề nghiệp hợp pháp của các luật s có doanh thu của năm trớc
(không gồm thuế TGGT) không vơt quá 245.000 FRF.
* Nghĩa vụ khai báo, nộp thuế TGGT:
Về nguyên tắc, những đối tợng thuộc diện áp dụng thuế TGGT phải thực hiện
đầy đủ sổ kế toán, chứng từ hóa đơn. Sổ kế toán và các tài liệu có liên quan phải đợc
bảo quản, lu trữ cẩn thận trong thời gian 6 năm.
Nếu không thuộc diện đựoc nộp thuế TGGT khoán thì hàng tháng hàng quý
tuỳ quy định của cơ quan thuế, cơ sở kinh doanh phải làm tờ khai theo mẫu về tình
hình hoạt động trong tháng (hoặc quý) và phải nộp đầy đủ thuế TGGT trong thời
hạn quy định.
Đối với số cơ sở kinh doanh gặp khó khăn, không có điều kiện nộp tờ khai
dúng hạn, có thể xin cơ quan thuế xem xét, gia hạn thời gian nộp tờ khai, nộp thuế
hoặc đơn giản là tạm nộp trớc khoảng 80% số thuế TGGT phải nộp.
Từ 1-1-1991, những đối tợng thuộc diện nộp thuế TGGT có doanh thu trên
mức quy định đối với loại thuế nộp rhuế khoán có thể đợc xin áp dụng chế độ thanh
toán và nộp thuế theo biện pháp đơn giản, nếu doanh thu hàng năm (không gồm
thuế TGGT) thấp hơn mức quy định dới đây:
- 3.500.000 FRF đối với các cửa hàng bán bách hoá, thực phẩm mua mang về,
hàng uống tại chỗ hiặc cho thuê nhà.
- 1.000.000 FRF đối với các cơ sở kinh doanh khác.
Hàng tháng hoặc quý, các đối tợng náy phải kê khai đơn giá, tạm ứng một số
thuế TGGT nhất định và thanh toán số thuế phải nộp chính thức vào cuối năm.
2.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở Hung- ga-ri.
Hung-ga -ri là nớc XHCN đầu tiên áp dụng thuế GTGT từ năm 1989. Mục
đích của cuộc cải cách thuế lúc ấy nhằm iảm bớt gánh nặng về thuế đối với cơ sở

kinh doanh, xây dựng hệ thống thuế thống nhất hơn, đơn giản hoá việc đánh thuế và
quan hệ giữa thuế với ngân sách Nhà nớc.
Trớc đây, Hung-ga-ri áp dụng thuế chu chuyển đánh trên toàn bộ doanh thu
qua từng khâu gán hàng (nh thuế doanh thu ở nớc ta). Loại thuế này có nhợc điểm là
thuế đánh trùng lên thuế, đẩy giá cả tăng cao. Sau nhiều năm chuẩn bị, năm 1989,
10

×