Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tiểu luận văn hóa kinh doanh văn hóa doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.3 KB, 56 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PGS.TS . HUỲNH QUỐC THẮNG

VĂN HÓA KINH DOANH –
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
(Tài liệu tham khảo)
Đối tượng: Cử nhân Văn hóa học
Tính chất: Tài liệu kèm theo chương trình
học chính khóa

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


2

LỜI MỞ ĐẦU

Tập tài liệu này bao gồm một số bài viết của tác giả được công bố qua các
hội thảo, hội nghị khoa học về các chủ đề liên quan mối quan hệ kinh tế với văn
hóa (theo nghĩa rộng), trong đó, Văn hóa kinh doanh – Văn hóa doanh nghiệp là
một trong những trục trung tâm của các vấn đề. Trong nghĩa hẹp, Văn hóa kinh
doanh – Văn hóa doanh nghiệp vừa như một hoạt động – thực thể xã hội (một tổ
chức doanh nghiệp, cơ quan đơn vị với các hoạt động mang những giá trị vật chất,
tinh thần của nó…) vừa như là các mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố
chủ quan, khách quan tạo nên chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính thực thể
ấy (bao gồm các thành tố Văn hóa thương hiệu, Văn hóa tổ chức, Văn hóa doanh
nhân, Văn hóa giao tiếp, Văn hóa thương mại). Trên nghĩa rộng và bao quát hơn,


Văn hóa kinh doanh – Văn hóa doanh nghiệp là sản phẩm chủ quan mà xã hội
cùng góp phần xây dựng nên trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh…bởi nó
chính là cơ sở khách quan có thể không chỉ tạo ra các điều kiện phát triển sản xuất
để góp phần đáp ứng các nhu cầu sống của con người mà còn là môi trường lý
tưởng cho các cá nhân & tập thể làm việc, công tác, phát huy tri thức, tài năng,
vốn chuyên môn nghiệp vụ…của mình gắn trong sự vận động, phát triển vững
chắc của các thiết chế, cơ quan, tổ chức…trong bối cảnh chung của đất nước từ xã
hội nông nghiệp cổ truyền tiến lên xã hội công nghiệp hiện đại, từ cơ chế quan
liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường (định hướng xã hội chủ nghiã) và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng …
Gắn với một chương trình học tập chính khóa (30 tiết) bao gồm các chuyên
đề về nhận thức lý luận kết hợp liên hệ thực tế chủ yếu về các thành tố Văn hóa
kinh doanh – Văn hóa doanh nghiệp, tập tài liệu tham khảo này giúp người học có
thêm những luận điểm, luận cứ mang tính hệ thống chặt chẽ theo từng vấn đề của
từng bài viết. Hy vọng nó sẽ có tác dụng bổ ích thực sự cho môn học và cho người
học theo các định hướng như vừa nêu trên.
Tác giả


3

VĂN HÓA KINH DOANH – VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM VỚI CHIẾN LƯỢC HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

Khái niệm văn hóa được đề cập ở đây dựa trên nền tảng lấy ý thức làm cái
gốc để tạo nên “tính người” cùng những gì thuộc về cái bản chất nhất làm cho con
người trở thành là những chủ thể năng động, sáng tạo trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất. Nói tới văn hóa còn là nói tới những nguồn nội lực để con người có
thể “gieo trồng” (sáng tạo, xây dựng) và “điều chỉnh” (cải tạo) cuộc sống của
mình theo định hướng vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Văn hóa vừa là hiện

tượng cụ thể (tồn tại dưới dạng vật chất, tinh thần hoặc qua quan hệ ứng xử của
con người), nơi in dấu ấn bàn tay, trái tim, khối óc của con người trong hiện thực
đồng thời vừa là những giá trị trừu tượng (con người chỉ có thể thẩm nhận nó qua
trình độ văn hóa đích thực của chính mình), nơi thể hiện những gì thuộc về sự
thăng hoa của cuộc sống con người. Được xem là cái “nền tảng”, “vừa là mục
tiêu vừa là động lực“ làm cho sự phát triển của con người và xã hội người ngày
càng thăng bằng và bền vững hơn, văn hóa có tác dụng tích cực đối với sự phát
triển của mỗi cá nhân cũng như của toàn bộ cộng đồng. Nội lực của một dân tộc
trước hết là mọi nguồn lực tập hợp từ vốn văn hóa truyền thống đã tích luỹ trong
lịch sử của chính dân tộc đó. Qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, gần
nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc trong thế kỷ vừa rồi
chẳng hạn, ai cũng thấy rõ về vai trò, vị trí của những nguồn lực vĩ đại như vậy
của văn hóa Việt Nam .
Tuy nhiên, trong bối cảnh thực tế hiện nay, khi nhìn kỹ lại nền văn hóa
truyền thống của dân tộc, bên cạnh mọi thế mạnh vốn có của nó chúng ta vẫn thấy
còn những chỗ khiếm khuyết rất đáng lưu ý. Do hàng ngàn năm sống tự cấp tự túc
bằng một nền kinh tế tiểu nông sản xuất nhỏ là phổ biến, với chế độ phong kiến
nông nghiệp cổ truyền thường xuyên đeo đuổi chính sách “trọng nông ức thương”
là chủ yếu, hơn nữa lại mới vừa phải trải qua một cuộc chiến tranh dai dẳng với cơ
chế quan liêu bao cấp đã hằn sâu trong nếp nghĩ, nếp làm mọi người thậm chí đã


4

trở thành nếp vận hành của toàn bộ đời sống xã hội kéo dài tận sau ngày giải
phóng thống nhất đất nước: đến hiện thời chúng ta vẫn chưa có một nền văn hóa
kinh doanh đúng nghĩa. Đi vào thời đại công nghiệp hoá – hiện đại hóa, đi vào xã
hội phát triển theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập (chủ
động) với quá trình toàn cầu hóa (trước hết là về kinh tế) như hiện nay hình như
đây là chỗ hạn chế lớn nhất của văn hóa Việt Nam ?! Xây dựng văn hóa kinh

doanh - văn hóa doanh nghiệp chính là một trong những nội dung, biện pháp quan
trọng hàng đầu để xây dựng, củng cố lại nội lực, tạo ra tư thế mới làm tiền đề và là
"điểm tựa" cho chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta trong thời gian
tới.
Vậy, văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp là gì ?
Văn hóa kinh doanh (business culture) hay Văn hóa thương mại
(commercial culture) là những giá trị văn hóa gắn với hoạt động kinh doanh (mua
bán, khâu gạch nối giữa sản xuất và tiêu dùng) một món hàng hóa (một thương
phẩm / một dịch vụ) cụ thể trong toàn cảnh mọi mối quan hệ văn hóa – xã hội
khác nhau của nó. Đó là hai mặt mâu thuẩn (văn hóa : giá trị >< kinh doanh : lợi
nhuận) nhưng thống nhất : giá trị văn hóa thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất
lượng sản phẩm, trong thông tin quảng cáo về sản phẩm, trong cửa hàng bày bán
sản phẩm, trong phong cách giao tiếp ứng xử của người bán đối với người mua,
trong tâm lý và thị hiếu tiêu dùng, rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất
kinh doanh với toàn bộ các khâu của nó… nhằm tạo ra một chất lượng - hiệu quả
kinh doanh nhất định.
Xét về bản chất, kinh doanh không thể chỉ gói gọn trong khâu lưu thông,
phân phối với các chiến lược “thâm nhập thị trường” của các doanh nghiệp đối với
các sản phẩm của mình mà nó còn phải bao quát các khâu có quan hệ hữu cơ nhau
tính từ sản xuất cho tới cả tiêu dùng. Có nghĩa rằng, xây dựng nền văn hóa kinh
doanh là một việc làm có tính thực tế mà mục tiêu cụ thể là nhằm làm cho toàn
bộ quá trình sản xuất kinh doanh, tức yếu tố đóng vai trò quyết định đối với nền


5

sản xuất của đất nước trở nên ngày càng mang tính văn hóa cao thể hiện trên cả
ba mặt:
(1) Văn hóa thương trường : Văn hóa thể hiện trong cơ chế tổ chức, hệ
thống pháp chế, các chính sách chế độ, trong mọi hình thức hoạt động liên quan

quá trình sản xuất kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh v.v…tất cả nhằm tạo ra một
môi trường kinh doanh thuận lợi, tốt đẹp …
(2) Văn hóa doanh nhân : Văn hóa thể hiện trước hết ở đội ngũ những con

người (gồm cả các cá nhân và các tập thể) tham gia sản xuất kinh doanh chủ yếu
thể hiện ở trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ và vốn tri thức tổng hợp, ở kinh
nghiệm thực tiễn và kỹ năng, phương pháp tác nghiệp, ở năng lực tổ chức sản xuất
kinh doanh và sự nhạy bén với thị trường, ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm hạnh
làm người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ về chính trị – xã hội v.v…
(3) Văn hóa doanh nghiệp : Văn hóa tập trung và tỏa sáng trong các thiết
chế, các đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh thể hiện qua những biểu trưng
(symbol) chung thuộc về hình thức cũng như qua các yếu tố khác tạo nên thương
hiệu của doanh nghiệp như logo, đồng phục, qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ
chức sản xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm và những thành tích, truyền
thống tốt đẹp, qua phong cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn đơn vị (đối
với nội bộ, đối với khách hàng) trong mọi quá trình kinh doanh v.v…
Ba mặt trên có thể xem là ba mặt, ba bộ phận hợp thành một nền văn hóa
kinh doanh theo nghĩa toàn vẹn nhất, trong đó văn hóa doanh nghiệp là đầu mối
trung tâm tập hợp mọi quan hệ và có vai trò, vị trí quyết định. Văn hóa doanh
nghiệp là nơi tập hợp đội ngũ doanh nhân, nơi có thể tích hợp và phát huy những
giá trị tốt đẹp vốn có trong nền văn hóa truyền thống của dân tộc (thí dụ những
truyền thống yêu nước và thương người, đoàn kết cộng đồng và trọng tín nghĩa,
cần cù, năng động và linh hoạt v.v…) kết hợp với các thành tựu văn hóa thế giới
(thí dụ về nếp tư duy, phong cách và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ, về
phương pháp, năng lực tổ chức quản lý kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa,


6

công nghiệp hóa - hiện đại hóa v.v…)… nhằm góp phần làm cho môi trường sản

xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường (thương trường) ở nước ta sẽ ngày
càng được trật tự, lành mạnh và đạt hiệu quả cao nhất, hướng đến những mục tiêu
kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững lâu dài đồng thời vừa có thể đem lại những lợi
ích thiết thực ngay trước mắt, cụ thể như :
- Nâng cao bản lĩnh, trình độ đội ngũ doanh nhân Việt Nam theo hướng
ngày càng “chuyên nghiệp hóa” nhiều hơn, trước hết ở cung cách, khả năng sử
dụng tốt các phương tiện, các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lao động, tổ chức
sản xuất, cạnh tranh và hội nhập với thị trường (nội địa lẫn quốc tế), trong giao
tiếp với khách hàng, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, giới thiệu và bán sản
phẩm v.v…
- Nâng cao năng lực và điều kiện, biện pháp để chăm lo xây dựng đội ngũ
(cả về đời sống văn hóa cá nhân lẫn đời sống văn hóa tập thể) tất cả vì một hệ
thống doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh toàn diện cả về chuyên môn lẫn tư
tưởng, tổ chức v.v…Không ngừng tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cùng một
nề nếp, kỹ cương về tổ chức, lề lối làm việc theo phong cách công nghiệp, hiện đại
dựa trên nền tảng phát huy tốt những giá trị văn hóa truyền thống (đạo lý, nghĩa
tình…) kết hợp xây dựng bản chất tiên tiến của giai cấp công nhân (kỹ luật, khoa
học…) cho mọi loại lực lượng lao động trong các đơn vị doanh nghiệp khác nhau
ở nước ta.
- Tất cả những nội dung nói trên không những nhằm mục đích tạo ra nguồn
nội lực vững chắc cho việc liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, nâng
cao khả năng cạnh tranh trên thương trường mà hơn nữa, đó còn là điều kiện quyết
định để có thể huy động cao nhất các nhân tố chủ quan, khách quan khác nhau đối
với việc tập trung xây dựng thương hiệu của bản thân từng sản phẩm, từng doanh
nghiệp (cả dân doanh lẫn nhà nước), góp phần xây dựng hệ thống thương hiệu
Việt Nam nói chung trong quá trình hội nhập và cạnh tranh kinh tế toàn cầu…


7


- Mục tiêu thiết thực chính là vì một hiệu quả kinh doanh bền vững : Chất
lượng sản phẩm và trình độ phục vụ vừa thỏa mãn được nhu cầu, thị hiếu của
khách hàng để “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” đồng thời vừa đáp ứng tốt
các yêu cầu của xã hội (về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội…). Cụ thể là, lợi
nhuận thu được qua việc “làm ăn, mua bán” trong mọi quá trình sản xuất kinh
doanh phải là những “đồng tiền sạch” với nghĩa là lãi suất đó phải đặt lợi ích con
người và xã hội lên trên hết, không thể chấp nhận quan điểm “lợi nhuận bất cứ giá
nào”, kể cả triệt để chống tình trạng hàng gian, hàng giả, hàng lậu, trốn thuế
v.v…Nói cách khác, việc tiêu thụ được sản phẩm, tăng lợi nhuận, đảm bảo khả
năng tái sản xuất mở rộng trong kinh doanh không những chỉ dựa trên cơ sở thiết
lập vững chắc mối quan hệ “Vốn – Thị trường – Khách hàng” mà còn phải là sự
giải quyết hài hòa (không có mâu thuẩn) giữa các lợi ích (của doanh nghiệp, của
người tiêu dùng, của toàn xã hội) cả trước mắt lẫn trong hướng lâu dài…
- Tác dụng tích cực nhất của toàn bộ vấn đề chính là nhằm tạo ra những
“chất xúc tác” đồng thời vừa là “chất keo” để thúc đẩy và gắn kết mọi nguồn lực,
mọi lực lượng trên cơ sở phát huy tính chủ thể (cơ chế tự quản, tự chủ) của từng
cá nhân, đơn vị tham gia sản xuất kinh doanh trong quá trình thực hiện các quy
chế, các biện pháp tổ chức, các luật lệ, chính sách của Nhà nước … để, trước mắt
(trực tiếp) là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát huy năng lực, trình độ làm
chủ thị trường của các lực lượng ấy; lâu dài (gián tiếp), chính là vì sự phát triển
bền vững của hiệu quả kinh doanh thương phẩm / dịch vụ, gầy dựng thương hiệu
và góp phần xây dựng thương trường, xây dựng nền văn hóa kinh doanh Việt Nam
nói chung trong quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế với khu vực và toàn thế giới.1
Một mục tiêu quan trọng mang ý nghĩa như là một trong những cái đích
cuối cùng của việc xây dựng văn hóa kinh doanh - văn hóa doanh nghiệp Việt

Xem Huỳnh Quốc Thắng : Văn hóa doanh nghiệp với chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh Việt Nam;
Tham luận hội thảo “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) và Học viện Hành chính Quốc gia – Bộ Nội vụ tổ chức ngày 23 – 5 – 2003 tại Hà Nội; Báo Diễn đàn
Doanh nghiệp đăng lại, số 54 ngày 4 - 7 - 2003, trang 7

1


8

Nam như vậy chính là vì chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đã được xác định rõ
ràng của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh việc chủ động mở cửa hội nhập và tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa, góp phần hình thành một thị trường thống nhất ngày càng rộng mở trên
quy mô toàn thế giới thì việc khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trong các doanh
nghiệp Việt Nam trước sự giao thoa ngày càng mạnh mẽ giữa các nền văn hóa
khác nhau ngay trong quá trình ấy đang và sẽ là vấn đề ngày càng có tính cấp
thiết. Đề cao sự năng động và dịch chuyển bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản
sắc theo hướng không những không cản trở mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình toàn cầu hóa tích cực, đó là con đường hợp lý và tất yếu mà chiến lược phát
triển bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam nhất thiết phải thực hiện. Mục tiêu
của quá trình là nhằm tranh thủ và phát huy các nguồn lực phát triển như vốn,
công nghệ, lực lượng lao động… góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức v.v…Tuy nhiên sự tăng trưởng kinh tế
thông qua phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường trao
đổi hàng hóa, thúc đẩy phân công lao động và giao lưu văn hóa…không có nghĩa
là sự dễ dàng chấp nhận những "nguy cơ" như tàn phá môi trường sinh thái tự
nhiên và sự bất bình đẳng cùng các tệ nạn xã hội, nạn thất nghiệp, nạn đói, thất
học, bệnh tật, chiến tranh, xung đột dân tộc, tôn giáo, tội phạm, bạo lực, khủng bố
v.v… 1. Quá trình chuyển giao công nghệ và hội nhập kinh tế vừa có thể biến các
doanh nghiệp Việt Nam không ngừng tiến lên gia nhập sâu hơn vào "ngôi làng kỹ
thuật" của thế giới vừa có thể đòi hỏi cần có sự đối thoại từ nhiều phía để tìm ra
những cái chung trên cơ sở phải chấp nhận cùng chung sống và tôn trọng những
cái riêng trong bản sắc văn hóa của các bên đối tác. Chẳng hạn sử dụng internet

như một công cụ của toàn cầu hóa nhưng phải chống sự độc quyền thông tin, rộng
ra là chống sự lấn át của các nền văn hóa thống trị, tránh sự xung đột về văn hóa
1

Xem Nguyễn Thế Nghĩa : Toàn cầu hóa và một số vấn đề toàn cầu trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí
Khoa học xã hội; số 4 (62); 2003; trang 26 - 30.


9

và truyền thống v.v…Đó thực sự là những vấn đề gay gắt nhất của quá trình xây
dựng và phát triển văn hóa kinh doanh - văn hóa doanh nghiệp Việt Nam đồng
thời cũng là của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của nước ta trong thời gian tới.
o O o

Sản xuất kinh doanh nói riêng, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội nước
ta nói chung đang ở trong giai đoạn lịch sử hết sức đặc biệt. Bối cảnh cạnh tranh
thị trường (trong nước, thế giới) ngày càng gay gắt và quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng sâu sắc, phức tạp không phải chỉ về khía cạnh kinh tế. Lộ trình hội nhập
với AFTA, với WTO… chẳng hạn, đâu phải chỉ góp phần xây dựng khu vực mậu
dịch tự do ASEAN hoặc với nền kinh tế thị trường toàn thế giới mà thực chất đó
còn là việc chúng ta đang / sẽ từng bước thực hiện quá trình “khu vực hóa”, “toàn
cầu hóa” bằng một “nền kinh tế – văn hóa mở”… Xây dựng nền văn hóa kinh
doanh Việt Nam không dừng lại chỉ vì chúng ta cần một “triết lý” hoặc một “đạo
lý” trong kinh doanh mà hơn nữa, đây là việc xây dựng một “trường phái kinh
doanh Việt Nam”, việc làm cần thiết và có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình hội
nhập đặc biệt như vậy. Một thương trường luôn phát triển có trật tự, kỷ cương, có
“ý thức tự giác” đầy đủ, một hệ thống doanh nghiệp các loại luôn lấp lánh toả
sáng những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại - thời đại với chất lượng - hiệu quả
cao trong mọi hoạt động, cùng một đội ngũ đông đảo doanh nhân có trình độ,

phẩm chất văn hóa tương ứng (với những yêu cầu như đã nêu ở trên, với kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…) đó chính là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế đất
nước gắn với các chiến lược xây dựng văn hóa - xã hội giai đoạn hiện nay. Công
việc ấy hoàn toàn phù hợp với đất nước này, một đất nước từng có “ngàn năm văn
hiến”, đồng thời nó cũng hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu của thời đại,
không chỉ là những xu thế mới mẻ như xã hội thông tin và nền kinh tế tri
thức…mà còn là những chương trình hành động về văn hóa toàn thế giới do
Unesco phát động v.v…và đặc biệt phù hợp với các mục tiêu, phương hướng


10

chiến lược đã xác định của Đảng, Nhà nước ta :“Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” trong quá trình tiếp tục thực hiện
“đổi mới”, “mở cửa”, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và
“phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tất cả nhằm mục tiêu
“DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, XÃ HỘI DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH”./.


11

THU HOẠCH TỪ
LỚP “VĂN HÓA DOANH NGHIỆP” ĐẦU TIÊN
___________________________________________________________________________

Lớp “Văn hóa doanh nghiệp…” lần đầu tiên được tổ chức và tổ chức tốt
bởi công ty Mai Linh, gồm hai đợt : đợt thứ nhất tại TP. Hồ Chí Minh từ ngày
01/8 đến ngày 31/8/2002; đợt thứ hai tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 10/10 đến ngày
29/10/2002. Nội dung của lớp gồm các nhóm chuyên đề xoay quanh các chủ đề

chính như “Văn hóa trong kinh doanh dịch vụ vận chuyển”, “Văn hóa trong giao
tiếp phục vụ khách hàng” v.v…mang tính chất vừa giải quyết nhận thức vừa liên
hệ vận dụng thực tế. Là người trực tiếp tham gia thiết kế chương trình, giảng dạy
chính và từ sau khi đọc những bài “thu hoạch” cũng như theo dõi những “dư âm”
của lớp cho đến nay, chúng tôi đã thu hoạch được khá nhiều điều lý thú, bổ ích, có
ý nghĩa cả về khoa học lẫn thực tiễn.
Ấn tượng lớn nhất của lớp học này trước hết có lẽ là không khí học tập tích
cực, thảo luận sôi nỗi và làm bài thu hoạch nghiêm túc bằng sự tham dự đông đảo
của hàng ngàn lượt học viên với nhiều lứa tuổi, nhiều vị trí công tác khác nhau từ
Ban lãnh đạo Tổng công ty, lãnh đạo các công ty thành viên cho đến nhân viên các
phòng ban, tài xế, kỹ thuật viên…của “gia đình” Mai Linh ở các địa phương trong
khắp cả nước…Điều đó không những chỉ thể hiện sự thành công của công tác tổ
chức lớp mà còn làm tốt ý nghĩa và tính chất “công nghiệp” trong sinh hoạt của
một tập thể lao động có nề nếp, kỷ cương, của một ý thức và tác phong giai cấp
“công nhân mới” đang hình thành tương đối phổ biến trong toàn đơn vị và hơn
nữa, đó còn là hình ảnh, là cái chất “lính”, một trong những nét truyền thống đặc
thù của Mai Linh được bộc lộ khá rõ. Phải chăng đây chính là một trong những
vốn văn hóa mà Mai Linh đã từng tích lũy được, bên cạnh các truyền thống tốt đẹp


12

đã được khẳng định như “sẵn sàng trả tài sản bỏ quên của khách”, “nhiệt tình giúp
đở người bị nạn”, tích cực với các hoạt động văn hóa văn nghệ, tương tế nội bộ
cùng các hoạt động xã hội – từ thiện khác v.v…? Có nghĩa rằng lớp “Văn hóa
doanh nghiệp…” lần đầu tiên được tổ chức như vậy không phải chỉ là do một sự
ngẫu nhiên nào đó mà ngược lại, hình như nó đã có một qui trình chuẩn bị trước
đó bởi một nền tảng vật chất – tinh thần tích cực, bởi một nội lực có thật, hơn nữa
còn là từ những động lực khách quan, chủ quan to lớn rất đáng chú ý khác…
Một nội dung cơ bản trong các nội dung lớp học đã được bước đầu nêu lên

khá rõ, đặc biệt được các học viên bày tỏ trong các bài thu hoạch như là những
điều tâm đắc nhất, đó là: Nói đến văn hóa truyền thống Việt Nam, ai cũng thừa
nhận rằng đây là một nền văn hóa lớn, cụ thể là lịch sử hàng ngàn năm qua và gần
gũi là hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc vừa rồi đã từng chứng minh
rõ ràng về những nguồn lực vĩ đại của nó, thế nhưng khi đi vào thời đại công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi vào kinh tế thị trường như hiện nay nền văn hóa này
vẫn có chỗ khiếm khuyết rất đáng quan tâm. Đó là cho đến hiện thời chúng ta vẫn
chưa có một nền văn hóa kinh doanh đúng nghĩa! Xây dựng nền văn hóa kinh
doanh ở nước ta là một việc làm có tính thực tế và mang ý nghĩa chiến lược với
mục tiêu cụ thể là nhằm làm cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh – trong đó
từng doanh nghiệp có vai trò, vị trí rất quyết định – sẽ ngày càng được nâng cao
nhiều hơn tính văn hóa, với nghĩa nôm na, dân dã là việc “làm ăn, mua bán” trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ ngày càng được nâng cao tính tự giác, nâng cao
trình độ, chất lượng và hiệu quả, vừa hạn chế được tính tự phát để thật sự trật tự,
lành mạnh hơn đồng thời vừa đem lại lợi ích kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững
cho đất nước, cho toàn dân, cho tập thể doanh nghiệp và cho bản thân từng thành
viên trong doanh nghiệp. Quá trình xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh,
trực tiếp là văn hóa doanh nghiệp theo hướng như vậy thực chất đó là quá trình
tích hợp và phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có trong nền văn hóa truyền thống
của dân tộc (thí dụ những truyền thống yêu nước và thương người, đoàn kết cộng


13

đồng và trọng tín nghĩa, cần cù, năng động và linh hoạt v.v…) kết hợp với các
thành tựu văn hóa thế giới (thí dụ về nếp tư duy, phong cách và trình độ khoa học
kỹ thuật công nghệ của thời đại, về phương pháp, năng lực tổ chức quản lý kinh
doanh, quản lý xã hội trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa – hiện đại hóa
và trong cơ chế kinh tế thị trường …) v.v… nhằm những mục tiêu rất cụ thể,
chẳng hạn như :

- Nâng cao bản lĩnh, trình độ kinh doanh theo hướng ngày càng “chuyên
nghiệp hóa” nhiều hơn, trước hết ở cung cách, khả năng sử dụng tốt các phương
tiện, các thành tựu khoa học kỹ thuật trong việc tổ chức lao động sản xuất, trong
giao tiếp với khách hàng, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, giới thiệu và bán sản
phẩm v.v…
- Nâng cao năng lực và điều kiện, biện pháp để chăm lo xây dựng đội ngũ
(cả về đời sống văn hóa cá nhân lẫn đời sống văn hóa tập thể) tất cả vì một doanh
nghiệp vững mạnh toàn diện cả về chuyên môn lẫn tư tưởng, tổ chức v.v…
- Văn hóa doanh nghiệp không phải chỉ nhằm mục đích tạo ra các nguồn
nội lực vững chắc cho việc liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, nâng
cao khả năng cạnh tranh trên thương trường mà hơn nữa, đó còn là điều kiện để có
thể huy động cao nhất các nhân tố chủ quan, khách quan khác nhau đối với việc
tập trung xây dựng thương hiệu của bản thân doanh nghiệp v.v…
Tất nhiên những nhận thức mang tính chất nguyên lý nói trên nếu muốn
biến thành hiện thực chắc chắn phải trải qua rất nhiều cố gắng với nhiều động tác
phải thực hiện, thậm chí có việc phải nỗ lực dài lâu. Điều đáng quý là bên cạnh sự
tâm đắc, các bản thu hoạch đã có rất nhiều ý kiến đóng góp thiết thực mang tính
chất hiến kế đối với những nội dung cần bổ sung, sửa chữa hoặc các điều kiện,
biện pháp để tổ chức thực hiện các điều khoản dự thảo trong Quy chế công ty (đối
với việc xây dựng nội bộ, đối với khách hàng…) của Mai Linh. Qua đó trí tuệ và
tinh thần làm chủ của tập thể được huy động khá tốt, nhiều đề xuất đã được lãnh


14

đạo công ty nghiêm túc nghiên cứu và từng bước tổ chức thực hiện với hiệu quả
ngày càng rõ nét...
Đáng chú ý là lớp “Văn hóa doanh nghiệp…” này không chỉ có tác dụng
tích cực bước đầu cho bản thân Công ty Mai Linh mà còn góp phần tạo ra một sự
chuyển động quan trọng đối với dư luận chung. Các thông tin trên báo, đài, các ý

kiến trao đổi và các dự định mới của các cơ quan quản lý, các cơ quan nghiên
cứu, các cơ sở đào tạo; đặc biệt, hai cuộc hội thảo về đề tài “Văn hóa kinh doanh
– văn hóa doanh nghiệp” mang tầm vóc quy mô lớn đang được dự kiến tổ chức ở
TP. Hồ Chí Minh và ở Hà Nội ngay trong giữa năm 2003 này…Tất cả khẳng định
rằng hướng đi của Mai Linh đối với vấn đề triển khai đề tài “Văn hóa doanh
nghiệp…” một cách bài bản là hoàn toàn đúng đắn. Vấn đề còn lại là tiếp tục củng
cố một quyết tâm cao trên tinh thần đồng lòng nhất trí của tòan bộ hệ thống gia
đình Mai Linh trong cả nước, một biện pháp tổ chức thực hiện khoa học, chặt chẽ,
có tính toán căn cơ trên cơ sở gắn chặt với các chiến lược, các chương trình mục
tiêu kinh doanh được xác định rõ của Công ty.
Thời điểm năm 2003 đang diễn ra bằng nhiều thời cơ cùng nhiều thách
thức, đặc biệt là việc tổ chức SEAGAME 22 và hội nhập AFTA…, nhưng với vốn
văn hóa truyền thống của dân tộc đã có, với quá trình tích hợp những sức mạnh
thời đại thông qua thực hiện đường lối “đổi mới” và “phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng, đặc biệt với các Nghị quyết gần đây của
BCH Trung ương Đảng (Khóa IX) nhằm phát huy mọi nguồn “nội lực” của nền
kinh tế đất nước, làm cho đề tài “Văn hóa doanh nghiệp…” ngày càng có cơ hội
và điều kiện để triển khai tốt, nhất định Công ty Mai Linh nói riêng và các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung sẽ tiếp tục vươn lên giành được nhiều thành quả vững
chắc hơn nữa thông qua con đường tích cực là cùng vươn lên góp phần xây dựng
Nền văn hóa kinh doanh Việt Nam bằng những biện pháp căn cơ nhất ./.


15

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DOANH NHÂN

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Cùng với nền kinh tế hàng hoá đang ngày càng mở rộng, đội ngũ doanh

nhân Việt Nam đang ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh
“Văn hóa doanh nghiệp”, gần đây vấn đề “Văn hóa doanh nhân” ngày càng được
quan tâm xem như là một trong những thành tố quan trọng góp phần xây dựng
“Nền văn hóa kinh doanh Việt Nam”. Tuy nhiên quan niệm, nhận thức khoa học
đối với vấn đề hình như vẫn chưa có sự thống nhất cao, thậm chí có ý kiến cho
rằng không có “Văn hóa doanh nhân” ?! Từ góc độ Kinh tế – Văn hóa học kết hợp
Tâm lý – Xã hội học và từ thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, bài
viết này mong muốn góp phần làm rõ hơn nữa khái niệm và giải pháp thực tế của
vấn đề.
1. NÓI “VĂN HÓA DOANH NHÂN” THỰC CHẤT CHỦ YẾU LÀ NÓI
VỀ “ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DOANH NHÂN”
Mỗi khái niệm trong tính tương đối chỉ có thể tồn tại khi nó chỉ rõ ra một
đối tượng trong thực tế đời sống, hơn nữa nó có thể giúp con người nhận thức
càng đúng về bản chất đích thực của đối tượng ấy thì càng tốt. Khái niệm “doanh
nhân” rõ ràng nghĩa bao quát gồm toàn bộ lực lượng những “người tham gia vào
quá trình sản xuất kinh doanh” không phân biệt bất cứ vai trò, vị trí nào và mặt
hàng sản xuất kinh doanh nào…liên quan đến hoạt động của doanh nhân đó,
nhưng “Văn hóa doanh nhân” quả thực là một khái niệm cần phải được xác định
lại không chỉ về ngữ nghĩa mà còn cả về nội dung, ý nghĩa của nó.
1.1. Vai trò, vị trí, mối quan hệ của cá nhân (doanh nhân) với tập thể
(doanh nghiệp) trong nền sản xuất kinh doanh (nền kinh tế) của đất nước
Trong tiến trình “đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa” và trong “cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” như hiện nay, bên cạnh quy mô nền


16

kinh tế ngày càng phát triển về số lượng theo hướng sản xuất lớn, đất nước ta đang
đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng của đội ngũ doanh nhân nhằm đảm bảo
nguồn động lực vững chắc và sự phát triển bền vững trước hết là cho chính tiến

trình phát triển ấy. Không thể khác, cá nhân (doanh nhân) và tập thể (doanh
nghiệp) chính là một động lực cơ bản, là chủ thể có vai trò quyết định đối với sự
phát triển của nền sản xuất kinh doanh (nền kinh tế) của đất nước. Trong đó, mỗi
tập thể (doanh nghiệp) là một đơn vị, đầu mối tổ chức xây dựng lực lượng (đội
ngũ doanh nhân) để tham gia thực hiện một quá trình sản xuất kinh doanh cụ thể
và mỗi cá nhân (doanh nhân) trở thành là đơn vị nhỏ nhất, là thành tố cơ bản có
thể góp phần quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp và của toàn bộ nền
sản xuất kinh doanh (nền kinh tế) đất nước nói chung. Trong tình hình đó, yếu tố
nào tạo thành chất lượng cho tập thể doanh nghiệp (ví dụ: Văn hóa tổ chức…) và
đặc biệt là cho cá nhân doanh nhân (ví dụ : Vốn văn hóa cá nhân…) chắc chắn sẽ
đóng vai trò, vị trí vô cùng quan trọng đối với toàn bộ vấn đề.
1.2. Vốn văn hóa cá nhân là yếu tố quyết định chất lượng – hiệu quả hoạt
động của mỗi doanh nhân
Theo nghĩa đơn giản nhất, vốn văn hóa cá nhân (doanh nhân) là những gì
tạo nên trình độ, năng lực, phẩm chất để cá nhân (doanh nhân) ấy có thể đạt thành
công cao nhất trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đó chính là
trình độ văn hóa gồm vốn học vấn (sách vở trường lớp hoặc tự học), kinh nghiệm
thực tiễn và thế giới quan nhân sinh quan, là trình độ nghề nghiệp (nghiệp vụ
chuyên môn) và cả năng khiếu, là đạo đức phẩm chất và khả năng giao tiếp ứng
xử v.v…Chắc chắn đây là nguồn “nội lực” cơ bản, là nhân tố chủ quan mang tính
quyết định vững chắc cho mọi thành công của doanh nhân.
1.3. Biểu hiện vốn văn hóa cá nhân doanh nhân chính là “Đời sống văn
hóa doanh nhân”, một nội dung cơ bản của vấn đề “Văn hóa doanh nhân”
Vốn văn hóa cá nhân như đã nêu ở trên trong tính hiện thực của nó luôn gắn
liền với mỗi con người doanh nhân cụ thể. Nó như một thực thể xã hội tồn tại và


17

phát triển bằng những điều kiện vật chất, tinh thần nhất định, là những cái tạo

thành khía cạnh văn hoá trong đời sống thực của mỗi doanh nhân mà ở đây ta gọi
là “Đời sống văn hóa doanh nhân”. Nói cách khác, “Đời sống văn hóa doanh
nhân” vừa là nguyên nhân vừa là kết quả đồng thời là biểu hiện cụ thể của vốn văn
hóa cá nhân doanh nhân trong thực tế xã hội. Chính đây là yếu tố gốc tạo nên các
thành quả tốt đẹp trong mọi hoạt động của doanh nhân, những gì tỏa sáng để hình
thành những “Giá trị văn hóa doanh nhân” mà lâu nay ta thường gọi tắt là “VĂN
HÓA DOANH NHÂN”.
2. NỘI DUNG “ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DOANH NHÂN”
“Đời sống văn hóa doanh nhân” được xác định theo mô hình nào ? Đây là
vấn đề có ý nghĩa khoa học – thực tiễn rất lớn, bởi bản thân mỗi doanh nhân là
một thực thể sinh học đồng thời là một thực thể xã hội như bao nhiêu con người
khác nhưng lại mang những nét đặc thù nhất định theo yêu cầu và do đặc điểm
môi trường sống trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh quy định. Xét về
bản chất, “Đời sống văn hóa doanh nhân” vừa là cái cá biệt bởi nó liên quan
những con người cụ thể đồng thời vừa là cái phổ quát bởi nó liên quan những giá
trị văn hóa chung. Có nghĩa rằng người ta có thể có sự phân biệt về cái riêng trong
“đời sống văn hóa” của những cá nhân doanh nhân cụ thể (vai trò, vị trí trong nền
sản xuất kinh doanh của một đất nước, của một phương thức sản xuất cụ thể),
đồng thời phải thấy cái chung, cái không thể phân biệt giữa doanh nhân thuộc các
hình thức sở hữu về kinh tế, các phương thức sản xuất khác nhau. Cái chung đó
chính là :
2.1.

Mạng sống doanh nhân (theo định hướng văn hóa)

Đây là cơ sở tồn tại thực tế của đời sống mỗi doanh nhân với tư cách một cá
thể sinh vật – xã hội, bao gồm ba thành tố cơ bản:
2.1.1. Thể lực : Sức mạnh thể xác liên quan hệ thống cơ bắp, thần
kinh, tuần hoàn, tiêu hoá…



18

2.1.2. Trí lực : Sức mạnh trí tuệ toát ra từ vốn tri thức được tích lũy
và phương pháp tư duy, khả năng sử dụng những tri thức ấy.
Cái “có gan làm giàu” của doanh nhân trên thực tế cũng vẫn
phải cần thiết có cái “trí” !
2.1.3. Tâm lực : Sức mạnh của tâm hồn, tình cảm thể hiện ở tấm
lòng, cái “tâm” của doanh nhân đối với con người và cuộc
đời.
Những thành tố trên được rèn luyện, chăm chút tạo điều kiện phát triển tốt
nhất đó chính là khía cạnh văn hóa của vấn đề.
2.2.

Cuộc sống doanh nhân (theo định hướng văn hóa)

Đây là toàn bộ các mối quan hệ từ gần đến xa của mỗi doanh nhân đối với
môi trường sống chung quanh, gồm:
2.2.1. Với gia đình : Chủ yếu đó là mối quan hệ hôn nhân và huyết
thống, dựa trên cơ sở chữ “tình” làm điểm tựa cho sự phát
triển đời sống vật chất, tinh thần của mọi thành viên liên
quan.
2.2.2. Với xã hội : Chủ yếu đó là mối quan hệ cộng đồng giai cấp,
dân tộc và nhân loại. Ở nước ta cụ thể đó là“tình làng nghĩa
xóm” (láng giềng) ở nơi cư trú, là “tình đồng chí, đồng
nghiệp” ở cơ quan, đơn vị (doanh nghiệp), là “tình tự quê
hương, đất nước” và “nghĩa đồng bào” với cộng đồng dân tộc,
với Tổ quốc, hoặc đó là “tình đồng loại, tình hữu ái quốc tế”
với nhân dân toàn thế giới…
2.2.3. Với tự nhiên : Chủ yếu đó là mối quan hệ với thiên nhiên, cái

nôi đầu tiên sản sinh ra loài người và bản thể con người phải
đi tìm bắt đầu từ nơi đó.


19

Xử lý tốt tất cả các mối quan hệ trên, tạo ra sự phát triển thăng bằng của bản
thân doanh nhân trong sự hài hòa với các mối quan hệ ấy chính là mục tiêu văn
hóa cần phải đạt được.
2.3.

Lẽ sống doanh nhân (theo định hướng văn hóa)

Đây là những cái dường như không tồn tại trong thực tế nhưng lại chi phối
sâu sắc đối với những yếu tố đã vừa nêu trên. Nó là một thứ “sức mạnh tinh thần”
và có khả năng vừa định hướng vừa làm động lực cho sự phát triển của toàn bộ
“Đời sống văn hóa doanh nhân”, gồm :
2.3.1. Ước mơ : Những mong muốn nung nấu của doanh nhân vì sự
nghiệp bản thân và vì sự phát triển của cộng đồng.
2.3.2. Lý tưởng : Những mục tiêu phấn đấu rõ ràng với biện pháp cụ
thể nhằm thực hiện những định hướng tốt đẹp.
2.3.3. Niềm tin : Sự khẳng định thái độ tinh thần với những điều
được “xác tín” dứt khoát, trở thành một nội dung trong thế
giới quan và nhân sinh quan, cái tạo thành “quan điểm lập
trường” xã hội (gồm cả giác ngộ chính trị) của mỗi doanh
nhân.
Những cái chung nêu trên như là những cái tất yếu, cái cốt lõi (không thể
thiếu) để tạo nên “Đời sống văn hóa doanh nhân”. Tất nhiên “đời sống văn hóa”
của mỗi doanh nhân trong thực tế còn có thể bao gồm cả những cái riêng khác
nhau tùy theo từng đối tượng và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Nhưng, điều cơ bản là

không thể có sự mâu thuẫn nào giữa những cái chung và cái riêng như nêu trên và
tất cả phải cùng thống nhất theo định hướng các giá trị văn hóa.
3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG “ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DOANH NHÂN”
Nguồn gốc tạo ra các giá trị văn hóa thực chất chính là ý thức của con
người. Vì vậy, không thể khác: “Đời sống văn hóa doanh nhân” tồn tại và phát
triển trên thực tế phải bằng những điều kiện cụ thể, trong đó sự tác động có ý thức
tự giác của con người dưới nhiều quy mô, hình thức khác nhau sẽ đóng vai trò chủ


20

đạo. Mặt khác, tuy văn hóa là “những giá trị liên tục” nhưng phải có điều kiện :
Văn hóa có thể mất đi khi điều kiện tồn tại của nó không còn (khi rơi vào tình
trạng “vô ý thức”!). Như vậy, đặt vấn đề xây dựng “Đời sống văn hóa doanh
nhân” ở đây chính là việc tìm ra những giải pháp nhằm thường xuyên đánh thức ý
thức tự giác của con người (cá nhân doanh nhân, tập thể doanh nghiệp và cộng
đồng xã hội) đối với toàn bộ vấn đề.
3.1.

Đối với cá nhân (doanh nhân)

“Đời sống văn hóa doanh nhân” trước hết là cái thuộc về bản thân doanh
nhân cho nên sự tự giác, chủ động của cá nhân doanh nhân trong việc học tập, rèn
luyện, phấn đấu không ngừng nâng cao đời sống văn hóa của chính mình có ý
nghĩa quyết định nhất. Thực tế cho thấy những doanh nhân thành đạt trong nước
và trên thế giới trước hết là những người có những nỗ lực cao và có những thành
công nhất định đối với việc làm chủ bản thân và khắc phục được mọi hoàn cảnh
khó khăn để không ngừng vươn lên về tầm cao trí tuệ, tâm hồn, nhân cách…qua
đó từng bước tiến tới đạt những thành quả lớn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Tất nhiên dựa theo mô hình nội dung chung như đã phác thảo ở

phần trên (chưa tính đến những nét đặc thù trong hoàn cảnh riêng của từng doanh
nhân) rõ ràng việc xây dựng “Đời sống văn hóa doanh nhân” là rất phức tạp và
toàn diện, không thể chỉ đòi hỏi sự phấn đấu bền bĩ và thông minh của mỗi cá
nhân doanh nhân mà còn cần phải có các điều kiện và giải pháp khác.
3.2.

Đối với tập thể (doanh nghiệp)

Tập thể doanh nghiệp là môi trường xã hội gần gũi nhất, nơi góp phần bồi
dưỡng phát triển và phát huy tốt nhất “Đời sống văn hóa doanh nhân”. Không phải
chỉ vì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” mà còn do quy luật văn hóa là “những giá trị
liên tục” (les valeurs continues) – mọi khía cạnh liên quan “văn hóa tổ chức”,
“văn hóa giao tiếp” (trong nội bộ, với khách hàng) hoặc “văn hóa thương hiệu”,
“truyền thống văn hóa” của doanh nghiệp … tất cả đều có tác động trực tiếp đối
với quá trình tồn tại và phát triển của “Đời sống văn hóa doanh nhân” – tương ứng


21

mỗi cá nhân doanh nhân thông qua “đời sống văn hóa” của mình sẽ có một vai trò,
vị trí và sự tác động nhất định đối với sự phát triển của doanh nghiệp đồng thời có
sự tương tác lẫn nhau ở một mức độ nhất định. Vì vậy doanh nghiệp cần phải có
chính sách chăm lo hợp lý không phải chỉ về đời sống vật chất, tinh thần như
chúng ta vẫn nói trước nay mà còn là về “đời sống văn hóa” của từng con người
doanh nhân cụ thể. Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn, về
chính trị – xã hội, hoạt động giáo dục truyền thống doanh nghiệp, cơ chế tổ chức
quản lý đảm bảo phát huy vai trò chủ thể của doanh nhân trong mọi quá trình sản
xuất kinh doanh…tất cả đều có ý nghĩa hết sức thiết thân. Đặc biệt đối với những
“doanh nhân nồng cốt”, ví dụ những người lãnh đạo doanh nghiệp chẳng hạn, yêu
cầu ấy càng có ý nghĩa lớn và cần có biện pháp tập trung cao hơn nữa...

3.3.

Đối với cộng đồng (xã hội)

Chưa bao giờ việc xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, “có văn hóa” lại quan
trọng như hiện nay. Nói cách khác, việc xây dựng “Đời sống văn hóa doanh nhân”
chưa lúc nào lại có ý nghĩa xã hội lớn lao như bây giờ ! Điều đó vừa mang tính tất
yếu lịch sử vừa là do yêu cầu thực tế (cả đối với quá khứ, hiện tại lẫn tương lai của
dân tộc). Do vậy toàn xã hội cần phải xác lập lại thật rõ và chính xác về nhận thức
của mình đối với vai trò, vị trí của doanh nhân trong thời kỳ lịch sử mới, hơn nữa
còn có trách nhiệm góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân ấy đặc biệt là về “đời
sống văn hóa” của họ. Xã hội vừa là nơi khẳng định, đề cao đồng thời cũng vừa là
nơi đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với doanh nhân thông qua những cơ chế tổ
chức, những chính sách và biện pháp cụ thể nhằm tận tình chăm lo “Đời sống văn
hóa doanh nhân” theo các định hướng chung như đã nêu ở trên. Trong thực tế thời
gian qua bước đầu chúng ta cũng đã có những hình thức thiết thực như định kỳ
hàng năm tôn vinh, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp hoặc thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu các hình mẫu doanh nhân tiêu biểu
v.v…Đó là những việc làm tốt cần tiếp tục phát huy theo hướng cần chú ý nhiều
hơn việc tạo dư luận xã hội tích cực ủng hộ đối với các “Giá trị văn hóa doanh


22

nhân” thể hiện từ những “Đời sống văn hóa doanh nhân” cụ thể. Đặc biệt, việc
thành lập “Hiệp hội văn hóa doanh nhân Việt Nam” tiến tới phát triển thành các
“Chi hội (hoặc Câu lạc bộ) văn hóa doanh nhân” ở các địa phương như hiện nay là
một động thái hết sức tích cực, đặc biệt đối với việc góp phần xây dựng “Đời sống
văn hóa doanh nhân” theo tinh thần như các nội dung đã nêu. Vấn đề đặt ra hiện
nay không chỉ là tập hợp lực lượng cho những hoạt động tâm huyết, là giải quyết

khía cạnh học thuật, lý luận mà còn là những hành động tích cực, thiết thực đối
với việc thúc đẩy toàn xã hội (Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân
dân) cùng quan tâm sự nghiệp chăm lo xây dựng đội ngũ doanh nhân về mọi mặt,
đặc biệt là về “đời sống văn hóa” của họ – không chỉ cho đội ngũ đang có mà còn
là đào tạo đội ngũ doanh nhân trẻ cho tương lai lâu dài…
Vấn đề xây dựng “Đời sống văn hóa doanh nhân” hôm nay đặt ra trong bối
cảnh đất nước Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng tiếp tục thực
hiện chính sách “Đổi mới” và “Mở cửa”, cùng với quá trình chuyển sang cơ chế
thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa) ngày càng đi vào chiều sâu đồng thời là
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới đang ở ngưỡng cửa của những thời cơ và thách
thức mới, thậm chí có cả những nguy cơ đang thường xuyên đặt ra. Tất cả đang
đòi hỏi tính năng động, tự giác của toàn xã hội, những nỗ lực phát huy mọi nguồn
nội lực của toàn dân tộc đồng thời với việc tiếp thu, khai thác tốt nhất mọi thành
tựu văn hóa của nhân loại và thời đại, trong đó đội ngũ doanh nhân Việt Nam
đang không ngừng lớn mạnh chắc chắn sẽ ngày càng có vai trò, vị trí vô cùng
quan trọng. Việc xây dựng “Đời sống văn hóa doanh nhân” Việt Nam vì vậy càng
trở thành một vấn đề có ý nghĩa chiến lược thật sự không chỉ về kinh tế mà còn
trên nhiều khía cạnh văn hóa – xã hội khác nữa.


23

NÂNG CAO TÍNH CHẤT VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Khái

niệm VĂN HÓA ở đây được quan niệm là những giá trị khoa học

(CHÂN), nhân bản (THIỆN), thẩm mỹ (MỸ) do con người tích hợp bằng sự sáng

tạo, bằng các con đường giao lưu, bằng sự tích lũy những giá trị truyền thống
trong quá khứ để tất cả có thể trở thành một nội lực cho hiện tại, một mầm mống
phát triển cho tương lai … Những giá trị đó thường gắn với mọi mặt đời sống xã
hội thông qua mọi dạng hoạt động vật chất lẫn tinh thần của con người, trong đó
có các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC, một hoạt động xã hội năng động chi phối sâu rộng mọi lĩnh vực đời sống
xã hội khác nhau (nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng, cả trong và ngoài hệ thống Nhà nước,
cả sự nghiệp lẫn doanh nghiệp…), do đó văn hóa là một khía cạnh thuộc về bản
chất không thể thiếu của nó. Nhưng mặt khác, trong thực tế một hoạt động quản lý
hành chính nhà nước nào đó do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể vẫn có
thể bị hạn chế tính chất văn hóa (kém giá trị khoa học, nhân bản, thẩm mỹ …) mà
biểu hiện rõ nhất là những hạn chế, thậm chí là những sự hư hỏng trong quá trình
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bản thân hệ thống quản lý / Nhà nước, đưa
đến những sự trì trệ nhất định đối với đời sống tập thể / cộng đồng xã hội. Như
vậy, đặt vấn đề nâng cao tính chất văn hóa của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước hiện nay thực chất đó là việc phấn đấu xây dựng, hoàn thiện toàn bộ tổ chức,
hoạt động của nền hành chính nhà nước / xã hội của ta hướng theo các mục tiêu,
nhiệm vụ chung mà Đảng và Nhà nước đã xác định, đặc biệt trong đó có nhiệm vụ
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” trong quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết V Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa 8).
Xét về bản chất, mục tiêu cao nhất của vấn đề đặt ra đó là việc khẳng định
rõ hơn nữa, chắc chắn hơn nữa tính chất văn hóa của Nhà nước / xã hội nước


24

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nói chung đó là khía cạnh văn hóa thuộc về
bản chất của chế độ xã hội và là toàn bộ những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc được thể hiện ra thông qua hệ thống luật lệ, các chủ trương, chính sách,

các mục tiêu, kế hoạch hoạt động mang tính chiến lược hoặc sách lược, đặc biệt
được thể hiện ra rõ rệt nhất thông qua mọi hoạt động cụ thể của cả một guồng máy
tổ chức, một đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, gồm cả lãnh đạo / quản lý và
nhân viên ở các ngành, các cấp, các đơn vị khác nhau … mang tính chất nhất quán
một nhà nước / bộ máy quản lý “của dân, do dân, vì dân”(của – vì – do tập thể /
cộng đồng) thực sự. Khi ta nói xây dựng Nhà nước, cải cách bộ máy hoặc các thủ
tục hành chánh nhà nước thực chất đó là những việc, những biện pháp tích cực
nhằm củng cố, nâng cao bản chất văn hóa đích thực của Nhà nước / bộ máy quản
lý chúng ta, làm cho Nhà nước / bộ máy quản lý ấy trước hết phải đủ “năng lực,
phẩm chất” thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các mặt (chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội), có thể bảo vệ và phát huy tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mọi
công dân ở mọi môi trường sống của họ. Trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế,
mối quan hệ “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” bao hàm
cả những ý nghĩa văn hóa lớn lao mà chế độ xã hội của ta đã, đang và sẽ phấn đấu
thực hiện trước hết vì một “cơ sở chính trị vững chắc của chính quyền nhân dân”,
một chính quyền nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân / lao động đồng thời
gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc / nhân dân để đủ sức tập họp, tổ chức mọi lực
lượng xã hội cùng tiến lên mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm giành
thắng lợi cho những giá trị nhân văn cao cả của dân tộc và của nhân loại đó là giải
phóng con người, giải phóng giai cấp, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc
lập, tự do của Tổ quốc và của toàn dân tộc. Một nhà nước pháp quyền vừa nắm
pháp luật vừa tự đặt và nghiêm túc đặt mình dưới pháp luật, tổ chức và hoạt động
theo đúng pháp luật, toàn tâm toàn ý vì sự tự do, dân chủ của công dân và vì
những mục tiêu lớn như đã nêu ở trên thì đó mới là một nhà nước “có văn hóa” và
đạt trình độ “văn hóa cao” thực sự ! Mặt khác, ý thức và nếp sống, nếp làm việc


25

theo pháp luật trở thành hiện tượng phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội, kỷ cương

pháp chế được giữ nghiêm mọi nơi, mọi lúc …. đây cũng là một nét văn hóa quan
trọng của xã hội mới mà việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể không
quan tâm tới, thậm chí phải xem đó chính là một nhiệm vụ thiết thân hàng đầu của
Nhà nước / bộ máy quản lý của ta ! Cuối cùng, một nhà nước mang đầy đủ tính
chất văn hóa như thế nhất định không thể vướng phải những căn bệnh nguy hiểm
như quan liêu (bureaucratie), tham nhũng hoặc lãng phí của công .v.v.
Tất nhiên những ý nghĩa, nội dung nói trên cần phải được cụ thể hóa và
được thực hiện bằng những biện pháp tích cực nhất trong thực tế nhằm làm cho
Nhà nước ta trở thành một thực thể xã hội mang đầy đủ nét văn hóa tiêu biểu của
dân tộc và của chế độ.
Trước hết, chúng ta cần nhấn mạnh khía cạnh văn hóa trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Đó là sự tác động có tổ chức và điểu
chỉnh bằng quyền lực nhà nước mang tính khoa học và nghệ thuật cao nhất, với
đối tượng là các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân mà mục tiêu
trước sau như một tất cả là vì hạnh phúc của con người. Nói một cách bao quát,
đó là tính chất văn hóa tạo nên chất lượng, hiệu quả cao nhất trong mọi hoạt động
của nền hành chính nhà nước với các yếu tố cấu thành của nó:
- Một, văn hóa trong thể chế của nền hành chính nhà nước, tức sự hoàn
thiện ngày càng cao của hệ thống luật lệ đối với sự quản lý có hiệu quả mọi lĩnh
vực hoạt động xã hội, các văn bản pháp quy tạo nề nếp, kỷ cương trước hết trong
nội bộ các cơ quan hành chính (sự nghiệp, doanh nghiệp…), sự phân công, phân
cấp chặt chẽ.v.v.
- Hai, văn hóa của cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính nhằm bảo đảm hiệu lực của thể chế, không ngừng hoàn thiện thể chế trong
quá trình đổi mới và phát triển đất nước / tập thể đơn vị...
- Ba, văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính (đặc biệt là lực
lượng quản lý các loại) thể hiện ra qua trình độ, năng lực, phẩm chất và hiệu quả



×