Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Khảo sát bệnh đường tiêu hoá trên chó và theo dõi kết quả điều trị tại Phòng mạch Trạm Thú Y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y

Đề tài: “Khảo sát bệnh đường tiêu hoá trên chó và theo dõi kết quả điều trị
tại Phòng mạch Trạm Thú Y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành Phố
Cần Thơ”, do sinh viên Đỗ Thị Thuỳ Dương MSSV: LT11648 thực hiện tại
Phòng mạch Trạm Thú y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành phố Cần Thơ
từ ngày 29/08/2013 đến ngày 03/10/2013.

Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2013
Duyệt Bộ môn

CầnThơ, ngày….tháng….năm 2013
Duyệt Giáo viên hướng dẫn

Châu Thị Huyền Trang

Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2013
Duyệt Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
----------

ĐỖ THỊ THUỲ DƯƠNG

KHẢO SÁT BỆNH ĐƯỜNG TIÊU HOÁ TRÊN
CHÓ VÀ THEO DÕI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TẠI


PHÒNG MẠCH TRẠM THÚ Y LIÊN QUẬN
NINH KIỀU – BÌNH THỦY – THÀNH PHỐ
CẦN THƠ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ THÚ Y

Cần Thơ, tháng 12/ 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
----------

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: BÁC SĨ THÚ Y

KHẢO SÁT BỆNH ĐƯỜNG TIÊU HOÁ TRÊN
CHÓ VÀ THEO DÕI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TẠI
PHÒNG MẠCH TRẠM THÚ Y LIÊN QUẬN
NINH KIỀU – BÌNH THỦY – THÀNH PHỐ
CẦN THƠ

Giảng Viên Hướng Dẫn

Sinh Viên Thực Hiện

Ths. Châu Thị Huyền Trang
BsTy. Trần Thanh Sơn


Đỗ Thị Thuỳ Dương
MSSV: LT11648
Lớp: Thú Y K37

Cần Thơ, tháng 12/ 2013


CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội hiện nay, nhu cầu nuôi chó ngày cũng trở nên phổ biến với
nhiều mục đích đa dạng hơn: ngoài vai trò giữ nhà, chó còn được nuôi như thú
cảnh, giải trí hay đóng vai trò trong công tác bảo vệ an ninh quốc phòng...góp
phần làm cho số lượng chó nuôi ngày càng tăng đồng thời kéo theo sự gia tăng về
bệnh tật trên chó.
Bệnh ở chó rất đa dạng bao gồm bệnh đường tiêu hóa, bệnh ngoài da, bệnh
đường hô hấp, bệnh ký sinh trùng, bệnh đường sinh dục,...Trong đó, bệnh về
đường tiêu hoá chiếm phổ biến nhất. Tại một số cơ sở thú y thuộc Thành phố Cần
Thơ tỷ lệ bệnh đường tiêu hoá trên chó chiếm 38,09%. Theo Trần Hoàng Minh
(2010) trong số 826 ca chó mang đến điều trị tại trạm thú y liên quận Ninh Kiều –
Bình Thuỷ từ tháng 8 đến tháng 9/2010 thì số con bệnh về đường tiêu hoá là
nhiều nhất (388 con) chiếm tỷ lệ 46,97%. Nguyên nhân gây bệnh đường tiêu hoá
rất đa dạng bao gồm: do vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, trúng độc…do vậy việc
thu thập triệu chứng lâm sàng để có hướng điều trị thích hợp và kịp thời là một
vấn đề cần thiết. Với mục đích điều trị bệnh hiệu quả, con vật khỏi bệnh nhanh,
mau phục hồi sức khỏe, chi phí điều trị thấp thì công tác chẩn đoán bệnh là vô
cùng quan trọng, giúp người điều trị xác định được nguyên nhân bệnh, đánh giá
mức độ bệnh từ đó đưa ra phác đồ điều trị thích hợp cho con vật bệnh.
Do vậy, xuất phát từ vấn đề trên, được sự đồng ý của Bộ Môn Thú Y,
Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Trường Đại Học Cần Thơ, dưới sự
hướng dẫn của Thạc sỹ Châu Thị Huyền Trang và sự giúp đỡ của Trạm Thú Y

liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực
hiện đề tài “Khảo sát bệnh đường tiêu hoá trên chó và theo dõi kết quả điều
trị tại Trạm Thú Y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ”
Mục tiêu của đề tài:
Theo dõi và thu thập các bệnh xảy ra ở đường tiêu hoá của chó qua các
triệu chứng lâm sàng (chó bỏ ăn, nôn, phân nhầy, tiêu chảy phân vàng, tiêu chảy
máu,…) từ đó làm cơ sở chẩn đoán bệnh đường tiêu hoá xảy ra trên chó.
Thông qua kết quả chẩn đoán lâm sàng trên chó để phân loại bệnh đường
tiêu hoá.
Theo dõi kết quả điều trị chó bệnh đường tiêu hoá đến điều trị tại Phòng
mạch Trạm Thú Y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ.

1


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo tác giả Hồ Văn Nam (1997), một trong những bệnh phổ biến gây
nhiều thiệt hại cho đàn chó nuôi là bệnh đường tiêu hoá, bệnh do nhiều nguyên
nhân gây ra, trong đó nguyên nhân bệnh do vi khuẩn khá phổ biến ở chó, bệnh
diễn biến nhanh, có thể làm chết 70-100% chó bệnh.
Theo Trương Minh Nhã (2004) thì trong tổng số 272 ca chó có biểu hiện
bệnh đường tiêu hoá thì có tới 104 ca có biểu hiện tiêu chảy, phân có máu. Căn
cứ vào triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm máu và kết quả mổ khám thì trong đó
bệnh Carré là 48/104 ca chiếm 46,2%, bệnh do Parvovirus là 15/104 ca chiếm
14,4%, bệnh giun móc 41/104 ca chiếm 39,4% trên tổng số ca bệnh tiêu chảy
máu.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Thanh và Nguyễn Tuyết Thu (2008) cho thấy

tỉ lệ mắc bệnh viêm ruột tiêu chảy ở chó nghiệp vụ tại Hà Nội chiếm tỷ lệ khác
cao 38,64%.
Theo Lê Minh Thành (2009) trên chó từ 1 đến 6 tháng tuổi cho thấy trong
tổng số 812 ca khảo sát có 310 ca mắc bệnh tiêu chảy máu, nôn chiếm tỷ lệ
38,18%. Trong tổng số 310 ca bệnh tiêu chảy máu, nôn thì có tới 146 ca cho kết
quả dương tính với Parvovirus.
Phạm Thị Mỹ Hạnh (2009) khi khảo sát 3358 ca bệnh thì có 1279 ca bệnh
đường tiêu hoá trong đó bệnh tiêu chảy nghi do vi khuẩn là 339 mẫu chiếm tỷ lệ
26,51%.
Trần Hoàng Minh (2010) qua khảo sát 826 chó bệnh mang đến điều trị tại
Phòng mạch Trạm thú y liên quận Ninh Kiều – Bình Thuỷ, Thành phố Cần Thơ
từ tháng 8-9/2013 thì có 388 con bệnh đường tiêu hoá chiếm tỷ lệ 46,97%, trong
đó số con bệnh tiêu chảy máu là 70 con chiếm tỷ lệ 18,04%.
2.1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Năm 1979, Markpol và ctv., tiến hành cuộc thí nghiệm tại trung tâm huấn
luyện chó thuộc quân đội Hoàng gia Thái Lan bằng kính hiển vi điện tử và định
nồng độ kháng thể trong huyết thanh nhằm mô tả tác nhân dịch tể gây ra tình
trạng chó chết hàng loạt ở Thái Lan do bệnh viêm ruột và đồng thời qua đó phân
lập virus gây bệnh cấy vào chó khoẻ để mô tả bệnh tích.

2


Kết quả của Bruce (1993) tại Mỹ chỉ ra rằng bệnh tiêu chảy do vi khuẩn,
chó mang mầm bệnh nhưng không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Vi khuẩn
Salmonella và Campylobacter là nguyên nhân gây đau bụng, tiêu chảy ở chó và
người. Cả chó và người điều nhiễm bệnh từ những nguồn giống nhau, như sữa
nhiễm vi khuẩn.
McCanlish (1998) lý giải cho việc bệnh viêm ruột do Parvovirus ở chó con
là bệnh phổ biến nhất do ở môi trường nhiệt độ phòng Canine Parvovirus có thể

sống sót trên 1 năm và ở những nền đất ô nhiễm trên 5 tháng, virus đề kháng
được với hoá chất khử trùng và thuốc tẩy.
Krauss và ctv. (2003) chó nhiễm vi khuẩn Campylobacter có thể lây sang
người thường xuyên xảy ra vào những tháng mùa hè ấm áp.
Báo cáo của Brain và ctv. (2003) cho thấy bệnh tiêu chảy ở chó con chiếm
tỷ lệ cao từ 50-70%.
Báo cáo của Mark Stanley và ctv. (2003) tại Mỹ cho rằng nguyên nhân gây
tiêu chảy ở chó và mèo là do vi khuẩn Clostridium perfringen, Clostridium
difficile, Campylobacter spp và Salmonella spp. Việc chẩn đoán Clostridium
perfringen và Clostridium difficile gây tiêu chảy được thực hiện qua việc quan sát
các triệu chứng lâm sàng của viêm ruột non kết hợp nuôi cấy phân lập. Chẩn đoán
Campylobacter và Salmonella gây tiêu chảy, cơ bản dựa trên việc nuôi cấy phân
lập và các triệu chứng lâm sàng của viêm ruột non. Vi khuẩn Campylobacter
được xác định dựa trên việc phết kính nhuộm mẫu phân, khi xem vi khuẩn Gram
âm, hình cong hoặc hình cánh chim hải âu. Tuy nhiên, phải thận trọng vì phát
hiện vi khuẩn Campylobacter spp. ở chó khoẻ nhưng thường không biểu hiện
triệu chứng bệnh.
Santley cũng cho rằng vi khuẩn Campylobacter spp. được phân lập ở 13
mẫu trong tổng số 279 mẫu phân chó bị tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 4,7% nhưng khi
phết lên kính để chứng minh có vi khuẩn Campylobacter spp. chỉ có 4/279 mẫu
có, chiếm tỷ lệ 1,4%.
Wedy (2006) cho rằng vi khuẩn gây tiêu chảy ở chó thường gây bệnh cho
động vật trưởng thành, nhưng có thể gây bệnh cho chó con, mèo hoặc trẻ em. Hầu
hết những vấn đề đó đều bắt nguồn từ thức ăn nhiễm bẩn hoặc phân nhiễm mầm
bệnh và do môi trường.
Năm 2007, Tatiana và ctv. bằng phản ứng HA/HI để xác định chó nhiễm
Canine Parvovirus và phương pháp phù nổi sa lắng để xác định ký sinh trùng
đường ruột, chỉ ra rằng chó con bị viêm đường ruột dẫn đến tiêu chảy có hoặc
không có máu chủ yếu là do Parvovirus và ký sinh trùng đường ruột.
3



2.2 Các giống chó nuôi phổ biến ở Quận Ninh Kiều, Thành Phố Cần Thơ
2.2.1 Giống chó nội
Chó ta
Có rất nhiều màu sắc: vàng, trắng, đen, đốm…Chó có tầm vóc trung bình,
cao 50-55 cm, nặng 12-15 kg, chó được nuôi chủ yếu để giữ nhà và làm thực
phẩm.
Chó đực thành thục sinh dục ở 15-18 tháng tuổi, chó cái 12-14 tháng tuổi.
Trung bình chó cái đẻ khoảng 4-7 con/ổ.
Chó Phú Quốc
Đây là loại chó có tầm vóc cao 60-65 cm, nặng 20-25 kg. Chó Phú Quốc
có đặc điểm ngoại hình rất dễ nhận biết do chân có màng gần giống như màng
chân vịt, bụng thon, phần lớn trên lưng lông mọc có hình xoắn, hay lật theo kiểu
“rẻ ngôi”, có các đường kẻ nhạt chạy dọc theo thân.
Chó đực phối giống ở 15-18 tháng tuổi, chó cái sinh sản ở 12-15 tháng
tuổi, mỗi lứa đẻ 4-6 con.
2.2.2 Giống chó ngoại
Chó Nhật
Theo Việt Chương và Phan Thi (2005). Pediree – Cẩm nang nuôi dạy chó,
(số 3), chó Nhật có thân hình nhỏ nhắn, mảnh mai xinh xắn, bộ lông dài và mượt
không xoăn và trông có vẻ sạch sẻ nên được nhiều người thích nuôi. Chó Nhật có
chân nhỏ, tai hình tam giác hơi nghiêng ra phía trước và rủ xuống, mũi gãy nhưng
mõm dài tương đối nên mặt trông xinh xắn dễ nhìn.
Chó Nhật có chiều cao thân khoảng 8-11 cm, cân nặng của nó khoảng 4-7
kg tuỳ theo chiều cao của nó. Giống chó này rất nhanh nhẹn và dễ dạy, sinh sản
khá tốt và nuôi con giỏi.
Chó Fox
Theo Việt Chương (2005) giống chó này có chiều cao khoảng 25-30 cm,
cân nặng 4-5 kg. Có đặc điểm đầu nhỏ, tai vểnh, sống mũi hơi gãy, mõm nhỏ và

dài, ngực nở nang, bụng thon, bốn chân mảnh và cao nên chạy rất nhanh, bộ lông
ngắn, bóng mượt nên rất dễ chăm sóc.
Chó Fox giữ nhà rất giỏi, tiếng sủa lớn và dài, dám lăn xả vào kẻ thù mà
cắn xé, chó Fox không kén ăn lại ăn rất ít nên được nhiều người yêu thích.
Chó Chihuahua
Ở nước ta, giống chó này còn được gọi là chó “Fox hươu” vì hình dáng nó
giống con hươu thu nhỏ hoặc còn gọi là “ chó bỏ túi” vì chó có tầm vóc rất nhỏ.

4


Bộ lông của giống chó này có màu vàng sẫm, hoặc màu nâu nhạt nhưng
tai, mõm thường có màu sẫm hơn.
Chihuahua chỉ nặng từ 2,1-2,7 kg, cao 16-20 cm, dài 30 cm. Vì chó có tầm
vóc nhỏ và là một trong những giống chó nhỏ nhất thế giới nên người ta có thể
cho vào túi ba lô mang đi du lịch.
Chó nhỏ có thân hình thanh mảnh, mõm dài, tai dài dựng đứng, ngực nở,
bụng thon nhỏ, chân mảnh chắc, đuôi ngắn. Chó khoẻ mạnh, không thích người
lạ, thậm chí tỏ ra hung dữ với người lạ nên còn được mệnh danh là “chó có trái
tim sư tử”. Người ta nuôi chó để làm cảnh và trông coi nhà.
Đối với chó đực có thể phối giống khi 14 tháng tuổi, chó cái có thể sinh
sản khi được 9-10 tháng tuổi, mỗi
lứa đẻ 3-6 con.
Chó Bắc Kinh
Ngoại hình giống chó nhật nhưng tầm vóc nhỏ hơn, chiều dài 40-50 cm,
cao 20-30 cm, nặng khoảng 5-7 kg. Chó có đầu khá to, dẹp có bộ lông dài lượn
sóng có màu trắng tinh hoặc thân trắng, còn xung quanh mõm và mặt có màu nâu
hoặc xám, lông phủ kính mặt trông giống đầu sư tử nên còn được gọi là “chó sư
tử”.
Giống chó này mũi gãy, mõm rất ngắn, hàm rộng, mắt to và lồi, có màu

nâu hoặc đen tạo nên cho chó một vẻ đẹp rất riêng, ngộ nghĩnh và đáng yêu.
Giống chó này rất hiền, dễ dạy và mến chủ, tuy nhiên chúng có nhược điểm là
nuôi con kém.
Chó Berger
Giống chó này có tầm vóc to con, cao lớn, chiều dài khoảng 110-112 cm,
cao khoảng 56-65 cm, trọng lượng trưởng thành khoảng 50-70 kg. Chó rất thông
minh, đánh hơi giỏi, dũng cảm và trung thành.
Bộ lông ngắn, mềm, màu đen sẫm ở thân và mõm, mõm dài thẳng, lông có
màu nâu vàng, đầu, ngực và 4 chân có màu vàng sẫm. Đầu hình nêm, mũi phân
thuỳ, tai dỏng hướng về phía trước, mắt đen răng to, khớp răng cắn khít. Ngực nở
hình ôvan, u vai lồi đến vạch lưng, lưng chắc và rộng, có độ dốc về phía trước,
bụng thon hẳn, đuôi dài hình lưỡi kiếm, chân trước thẳng đứng, chân sau hơi
choãi về phía sau.
Trong điều kiện ở nước ta chó đực có thể phối giống khi 24 tháng tuổi, chó
cái có thể sinh sản khi được 18-20 tháng tuổi. Chó cái sinh sản mỗi năm 2 lứa,
mỗi lứa 4-8 con.

5


Chó Pug
Đây là giống chó nhỏ, ngộ nghĩnh, rất thông minh, hiền lành lại yêu mến
trẻ con. Người ta nuôi chó này để làm cảnh vì chúng và thân thiện, dễ thích nghi
với nơi ở mới, dễ dạy và là con vật cưng lý tưởng cho mọi người ở mọi lứa tuổi.
Giống chó này có bộ lông ngắn và không cần chải nhiều, màu hung, đen
hoặc đen láng toàn thân hoặc nâu nhạt, vàng sẫm, mũi, mõm có màu đen.
Loài chó Pug khoẻ mạnh, đầu to thô, mõm ngắn và thô, mũi chia thuỳ, tai
cụp, ngực sâu, thân chắc chắn, đuôi ngắn và cuộn. Chó cao khoảng 30-33 cm, dài
50-55 cm, nặng khoảng 5-8 kg.
2.3 Cấu tạo hệ tiêu hoá của chó

Theo Lăng Ngọc Huỳnh (2003), bộ máy tiêu hoá của chó là một ống dài
suốt từ đầu đến thân, có những chỗ uốn khúc hoặc phình to ra. Xét về mặt sinh lý
thì các cơ quan của ống tiêu hoá ở trước cơ hoành cách mô, có nhiệm vụ đưa thức
ăn xuống hệ tiêu hoá, các chất cặn bả theo ruột già ra ngoài.
Các cơ quan nằm trước cơ hoành gồm: Miệng, yết hầu, thực quản. Các cơ
quan nằm ở sau cơ hoành gồm dạ dày, ruột. Ngoài ra còn có một số tuyến nước
bọt, gan, tuỵ tạng.
2.3.1 Khoang miệng
Khoang miệng là khoang đầu tiên của ống tiêu hoá, để tiếp nhận thức ăn.
Phía trước là hai môi, phía sau là hai hầu, phía trên có vòm khẩu cái, phía dưới là
nền miệng cùng với lưỡi, hai bên là má. Trong miệng có răng cắm vào hai hàm,
lưỡi và 3 đôi tuyến bài tiết nước bọt: tuyến dưới lưỡi, dưới hàm và mang tai.
Răng
Răng dùng để cắn, cắt nhỏ và nghiền nát thức ăn. Tuỳ theo hình dáng và
chức phận, người ta phân biệt: răng cửa, răng nanh, răng tiền hàm, răng hàm.
Lưỡi
Lưỡi là một khối cơ vân chắc, bên ngoài được phủ bởi lớp màng nhầy.
Lưỡi có nhiều mạch máu, dây thần kinh, lưỡi có hai mặt: trên và dưới và phần
đầu của lưỡi là cử động tự do được. Gốc lưỡi dài hơn và dính với nền khoang
miệng.
Mặt trên của lưỡi có nhiều gai cảm giác. Ta phân biệt 4 loại gai.
+ Gai hình chỉ: nhỏ, mãnh phân bố khắp mặt lưỡi.
+ Gai hình nấm: gai này ít hơn nằm giữa hai hình chỉ, chủ yếu nằm ở đầu
lưỡi và hai bên bờ lưỡi, gai này có chức năng xúc giác.
+ Gai hình đài: rất ít, tương đối to, nằm gần gốc lưỡi, có chức năng vị giác.
+ Gai hình lá: rất ít, nằm ở hai bên bờ gần gốc lưỡi, có chức năng vị gíac.
6


Ngoài ra, ở gần gốc lưỡi còn có nhiều gai thịt nhọn dài và mềm mại.

Các tuyến nước bọt
Là những tuyến ngoại tiết, nước bọt được tiết ra đổ thẳng vào xoang
miệng, có tác dụng tẩm ướt làm mềm thức ăn. Ngoài ra nước bọt còn chứa men
tiêu hoá biến tinh bột thành đường. Nước bọt còn có chức năng bảo vệ, chống lại
sự hoạt động của các vi sinh vật có nhiều trong xoang miệng.
Ở chó có ba đôi tuyến nước bọt, tuỳ theo vị trí sắp xếp người ta chia ra:
+ Đôi tuyến dưới tai: là đôi tuyến lớn nhất nằm bên mang tai, mỗi tuyến có
một ống dẫn (stenon) để đổ vào khoang miệng.
+ Đôi tuyến dưới hàm: là đôi tuyến nằm ở hõm dưới hàm, mỗi tuyến đều
có ống dẫn để đổ ra nền miệng phía dưới lưỡi.
+ Đôi tuyến dưới lưỡi: là đôi tuyến bé nhất nằm ở trên cơ hoành, mỗi
tuyến có nhiều ống dẫn đổ ra nền miệng.
2.3.2 Yết hầu
Nằm kế tiếp xoang miệng. Đó là một ống ngắn, thông với hốc mũi, miệng,
thanh quản, thực quản.
Nhiệm vụ của yết hầu là dẫn thức ăn vào thực quản và đưa không khí vào
khí quản.
2.3.3 Thực quản
Thực quản là ống cơ dài, tiếp theo hầu có nhiệm vụ là dồn thức ăn từ
miệng vào dạ dày.
Cấu tạo của thực quản gồm có 3 lớp: lớp niêm mạc, ở giữa là lớp cơ, ngoài
cùng là lớp liên kết đàn hồi. Lớp dưới niêm mạc có chứa các tuyến nhỏ và mạch
máu.
2.3.4 Dạ dày
Dạ dày là phần phình lớn nhất của ống tiêu hoá và là nơi chứa thức ăn,
nằm trong khoang bụng. Ở chó có trung bình dung tích khoảng 2,5 lít. Niêm mạc
mặt trong dạ dày chó chia làm 3 vùng.
+ Vùng tuyến thượng vị: nằm xung quanh thượng vị.
+ Vùng tuyến đái: vùng thân vị.
+ Vùng tuyến hạ vị: nằm ở gần hạ vị.

2.3.5 Ruột
Là ống dài gấp đi gấp lại nhiều lần, bắt đầu là hạ vị và tận cùng ở hậu
môn. Ruột gồm có ruột non và ruột già.

7


Ruột non
Ruột non được chia làm 3 đoạn: tá tràng, không tràng, hồi tràng. Các đoạn
này không có ranh giới tự nhiên, nhưng có sự gia tăng bề dày của thành ruột.
+ Tá tràng: Bắt đầu từ hạ vị, tá tràng đi ngược đường lên vùng dưới hông
rồi bẻ cong lại thành quay tá tràng. Phần tá tràng có chứa lỗ đổ vào ống tuỵ và
ống mật.
+ Không tràng: Là đoạn dài nhất của ruột non, gấp đi gấp lại nhiều lần
thành một khối lớn áp vào thành bụng phải.
+ Hồi tràng: Thành ruột dày hơn phần không tràng. Hồi tràng đi ngược lên
về phía trước vùng dưới hông bên phải và đến thông với manh tràng của ruột già.
Ruột già
To hơn ruột non, bắt đầu từ phần cuối của hồi tràng đến hậu môn. Ruột già
cũng được chia làm 3 phần: manh tràng, kết tràng, trực tràng.
+ Manh tràng: Ở chó manh tràng dài khoảng 12-15 cm và cong veo có
hình chữ S. Đầu sau của manh tràng bít kín và trôi tự do. Giữa hồi tràng và manh
tràng là van hồi manh tràng.
+ Kết tràng: Ở chó kết tràng dính với vùng dưới hong bằng một màng treo
kết tràng. Kết tràng gồm 3 phần: kết tràng trên, kết tràng ngang và kết tràng
xuống.
+ Trực tràng: Là đoạn cuối của ruột già, đi thẳng từ cửa trước xoang chậu
đến hậu môn. Mặt trên giáp xương khum, phía dưới là bóng đái. Hậu môn là cửa
của trực tràng, nằm dưới gốc đuôi, có 2 cơ vân hoạt động dưới sự điều khiển của
hệ thần kinh trung ương: cơ vòng hậu môn (đóng kín và chỉ mở khi đại tiện) và

cơ rút hậu môn (kìm hãm hậu môn khỏi lộn ra ngoài lúc đại tiện).
2.4 Sinh lý tiêu hoá của chó
2.4.1 Tiêu hoá ở miệng
Chó dùng mồm và lưỡi để lấy thức ăn, nếu là thức ăn thịt khối thì chó
dùng răng nanh để xé. Các loại thức ăn vào xoang miệng được nhai sơ bộ, có
nước bọt làm ướt, chuyển xuống dạ dày theo thực quản. Nước bọt có các muối vô
cơ, chất hữu cơ, các men tiêu hoá (enzyme) như amylase thuỷ phân tinh bột
(Phạm Ngọc Thạch, 2006).

8


2.4.2 Tiêu hoá ở dạ dày
Ở dạ dày thức ăn được tiêu hoá bằng hai quá trình: cơ học và hoá học.
Tiêu hoá hoá học chủ yếu bằng tác động của dịch vị. Dịch vị có các chất vô cơ
HCl (axit chlohydric), các chất hữu cơ, chất nhày mucine, nguyên men
Pepsinogen, men Chymosin (hay Prezura, Rennin), men Lipase.
Pepsinogen nhờ có HCl xúc tác biến thành Pepsin hoạt động, phân huỷ các
chất protid của thức ăn thành polipeptid. Prezura thường thấy ở dạ dày con vật
còn đang bú sữa, có tác dụng tiêu hoá đạm của sữa.
Lipase phân huỷ những hạt mỡ đã nhũ tương hoá thành Glycerol và axit
béo. HCl có tác dụng biến pepsinogen thành pepsin hoạt động, ngăn thức ăn khỏi
lên men thối trong dạ dày, điều khiển sự đóng mở van hạ vị, gián tiếp kích thích
tuỵ tạng tiết dịch tuỵ
Kết quả thức ăn vào dạ dày chó biến thành chất nhuyễn gọi là dưỡng chất.
Dưỡng chất gồm có những chất bột đã chín, tiêu hoá một phần tiếp tục được tiêu
hoá ở dạ dày thành đường Maltose. Chất Protid vào dạ dày được thuỷ phân thành
Polypeptid và một số acid amin. Cũng ở dạ dày một số rất ít Lipid được tiêu hoá
(Phạm Ngọc Thạch, 2006).
2.4.3 Tiêu hoá ở ruột non

Niêm mạc ruột non có hai loại tuyến có nhiệm vụ tiết dịch ruột: tuyến
Brunner và tuyến Lieberkuhn.
Dịch ruột mang tính kiềm (pH= 7,4-7,7), gồm có các chất vô cơ và các
chất hữu cơ (chất nhày, men maltase, lactase, saccharase, amylase,…).
Tham gia tiêu hoá ở ruột non có gan và tuỵ tạng. Tuỵ tạng tiết dịch tuỵ
gồm các chất vô cơ và hữu cơ như: amylopsin, nguyên men Trypsinogen, men
Lipase và men maltase. Gan tiết mật tiêu hoá mỡ, mật trung hoà dưỡng chất để
men Trypsin hoạt động, mật sát trùng chống lên men thối, làm tăng nhu động
ruột. Gan còn có nhiệm vụ phân huỷ và tổng hợp chất đường, tổng hợp ure, giải
độc, tiêu huỷ hay dự trữ mỡ, sản xuất fibrinogen làm đông máu và heparin chống
đông máu trong quá trình tuần hoàn, sản xuất và tiêu huỷ hồng cầu, dự trữ sắt,
biến carotene thành vitamin A (Phạm Ngọc Thạch, 2006).
Kết quả tiêu hoá ở ruột
Protid: Được tiêu hoá theo quá trình phân giải của men Trypsin. Nguyên
men Trypsinogen ở tuỵ mới tiết ra chưa hoạt động, nhờ có men Enterokinase do
ruột tiết ra tác động mới biến thành Trypsin hoạt động phân giải protid thành
polipeptid và tiếp tục polipeptid thành các axit amin. Ngoài ra Erepsin cũng biến
polipeptid thành các axit amin.
9


Tiêu hoá Glucid: Men amylopepsin biến tinh bột sống và chín thành
Maltose, biến Maltose thành Glucose, Lactase biến Lactose thành Glucose và
Galactose, Saccharase biến Saccharose thành Glucose và Levulose.
Tiêu hoá Lipid: Men Lipase hoạt động rất mạnh nhờ tác dụng của muối
mật, nhũ tương hoá chất mỡ rồi biến thành Glycerol và axit béo (Phạm Ngọc
Thạch, 2006).
2.4.4 Tiêu hoá ở ruột già
Những chất còn lại chưa tiêu hoá hết ở ruột non bị tống xuống ruột già,
tiếp tục tiêu hoá nhờ các men từ ruột non cùng chuyển xuống. Ở ruột già có sự

lên men thối và sinh ra chất độc, ở đây còn có quá trình tái hấp thu nước và muối
khoáng nên phân thường rắn và tạo khuôn thải ra ngoài.
Phân gồm những chất cặn bã của quá trình tiêu hoá thức ăn, các biểu mô
của niêm mạc bong ra, các muối và vi sinh vật,…(Phạm Ngọc Thạch, 2006).
2.5 Một số đặc điểm sinh lý của chó và ý nghĩa chẩn đoán
2.5.1 Thân nhiệt
Gia súc có thân nhiệt ổn định, mỗi loài gia súc khác nhau có thân nhiệt
khác nhau (Nguyễn Dương Bảo, 2005).
Thân nhiệt được đo ở trực tràng, thân nhiệt bình thường của chó là 380
39 C. Thân nhiệt của chó trưởng thành bình thường là 38-38,50C, chó con là
38,5-390C, mùa hè có thể tăng lên 0,2 0C, mùa đông giảm 0,2 0C (Hồ Văn Nam,
1982).
Chó con mới sinh, trong 2 tuần đầu không điều hoà được thân nhiệt, dao
động từ 35,6-36,10C. Sau đó sẽ tăng lên 37,80C trong vòng một tuần (Bunch và
Nelson, 1982).
Theo Trần Cừ (1975). Chó là loài động vật đẳng nhiệt, tuy vậy trong
những giới hạn hẹp thì nhiệt độ cơ thể vẫn có những biến đổi trong giới hạn do
nhiều nguyên nhân:
+ Biến đổi theo chu kỳ ngày và đêm: thân nhiệt có thể lên xuống  10C,
cao nhất vào lúc xế chiều, thấp nhất vào lúc nữa đêm.
+ Biến đổi do hoạt động: Vận động nhiều nhiệt độ cơ thể tăng.
+ Biến đổi do tiêu hoá: Chó nhịn ăn 4 ngày 38,40C, chó đang tiêu hoá
41,30C.

10


Ý nghĩa chẩn đoán
Xác định phản ứng sốt hay không sốt.
Sốt là hiện tượng bệnh lý rất phổ biến, vì là một phản ứng của cơ thể đối

với các tác nhân gây bệnh. Qua phản ứng sốt có thể xác định nguyên nhân gây
bệnh, tính chất và mức độ bệnh. Sốt kéo dài thường đặt ra nhiều vấn đề phức tạp
đôi khi rất khó giải quyết vì có rất nhiều nguyên nhân, muốn chẩn đoán ngoài
việc thăm khám còn phải xét nghiệm cận lâm sàng (Hồ Văn Nam, 1982).
2.5.2 Tần số hô hấp
Tần số hô hấp là số lần thở ra và hít vào trong một phút.
Tần số hô hấp của chó bình thường là 10-30 lần/phút. Nhịp thở của chó
bình thường là 10-40 nhịp/phút, mùa đông thường giảm 5 nhịp/phút, mùa hè tăng
5 nhịp/phút, khi hoạt động tăng 10-15 nhịp/phút. Tần số hô hấp của chó giảm khi
chó bị trúng độc, suy kiệt (Hứa Văn Chung và Nguyễn Thị Kim Đông, 2004).
Ý nghĩa chẩn đoán (Theo Lê Quang Long, 1997)
Tần số hô hấp tăng (thở nhanh): có thể do bị rượt đuổi, nhiệt độ môi
trường nóng, sau khi làm việc mệt, trở ngại đường hô hấp, do bệnh ở phổi, các
nguyên nhân gây sốt, thiếu máu (thiếu sắt và khoáng).
Tần số hô hấp giảm (thở chậm): thường xảy ra ở gia súc trúng độc, gia súc
bị suy kiệt, nhất là lúc gần chết.
2.5.3 Nhịp tim
Là chu kỳ hoạt động của tim, là toàn bộ hoạt động của tim kể từ lúc tim co
lần trước đế lúc bắt đầu co lần sau. Ở đa số động vật, nhìn chung số lần co bóp
của tim tỷ lệ nghịch với khối lượng cơ thể.
Nhịp tim sinh lý: ở chó tần số co bóp của tim khoảng 70-100 lần/phút (thú
lớn), 100-130 lần/phút (thú nhỏ) (Nguyễn Hữu Hưng, 2000).
Ý nghĩa chẩn đoán
Hệ tim mạch có liên quan chặt chẻ với các bộ phận khác trong cơ thể. Do
vậy khi hệ tim mạch bị bệnh, nó có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác trong cơ
thể và ngược lại (Hồ Văn Nam, 1997).
Nhịp tim tăng: trong máu có nhiều CO2, thần kinh giao cảm tăng, tuyến
nội tiết bị rối loạn (như tăng chất Thyroxin hay Adrenalin trong máu), nồng độ
Ca++ trong máu cao.
Nhịp tim giảm: do gia súc bị suy kiệt, gây mê quá liều.


11


2.5.4 Màu sắc niêm mạc
Niêm mạc là nơi những mạch máu nhỏ bộc lộ khá rõ.
Màu sắc niêm mạc sinh lý: rất dễ thay đổi lúc bị kích thích. Bình thường
cơ thể khoẻ mạnh, niêm mạc có màu hồng nhạt và không thấy được các mao
quản lớn. Lúc cơ thể mắc bệnh thì niêm mạc có sự thay đổi về màu sắc, hình thái
và cấu tạo (Lê Quang Long, 1997).
Ý nghĩa chẩn đoán
Khám niêm mạc ngoài việc biết niêm mạc có bệnh gì, còn có thể định
được tình trạng chung của cơ thể, tuần hoàn và thành phần máu, trao đổi khí CO2
ở phổi qua sự thay đổi của niêm mạc.
Khi chó sốt cao, tim đập nhanh và mạnh thì niêm mạc bị sung huyết và có
màu đỏ. Khi con bệnh có chứng hoàng đản thì niêm mạc có màu vàng. Khi thiếu
máu, niêm mạc màu trắng nhạt (Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm
Ngọc Thạch, 1997).
2.5.5 Trạng thái của mũi
Cơ thể chó bình thường mũi có những hạt nước nhỏ trên chóp mũi, sờ tay
vào thấy ẩm và mát, khi mũi khô chó bị mất nước và có thể sốt.
2.5.6 Tuổi thành thục
Tuỳ thuộc vào điều kiện nuôi và tùy từng giống chó, chó ngoại nhập được
nuôi đầy đủ dinh dưỡng thì thành thục sớm hơn. Đối với chó đực khoảng 14-16
tháng tuổi, chó cái từ 8-10 tháng tuổi (Phạm Ngọc Thạch, 1997).
2.5.7 Thời gian mang thai
Thời gian mang thai của chó khoảng 56-65 ngày (trung bình 63 ngày). Ở
chó thường có hiện tượng mang thai giả (Nguyễn Thị Tuyết Nhung, 2000).
Số con trung bình mỗi lứa đẻ: giống chó lớn con thường từ 3-4 con, giống
chó nhỏ con khoảng 2-4 con, giống chó ta 6-8 con. Chó sau khi sinh khoảng 1215 ngày thì mở mắt.

2.5.8 Chu kỳ lên giống
Chó lên giống 2 lần/năm cũng có một số con chỉ có 1 chu kỳ/năm. Thời
gian lên giống từ 12-20 ngày, nên phối vào ngày thứ 9 đến ngày thứ 13 để đạt
hiệu quả cao nhất. Ở chó cũng có hiện tượng hành kinh giả (Nguyễn Thị Tuyết
Nhung, 2000).
Tuổi cai sữa: 8-9 tuần tuổi, để đảm bảo sức khoẻ cho chó mẹ nên cai sữa
chó con ở 30-50 ngày tuổi (Nguyễn Đức Hiền, 2000).

12


2.6 Một số biểu hiện ở chó khi bị bệnh đường tiêu hoá
2.6.1 Sốt
Sốt là hiện tượng rất phổ biến khi chó bị bệnh đường tiêu hoá (chẳng hạn
như bệnh Carré, sốt hai thì biểu hiện rõ rệt, sốt khoảng 39,5-40,50C. Còn đối với
bệnh do Parvovirus sốt khoảng 39,5-40 0C,…). Các dấu hiệu đi kèm với sốt là
nhịp tim, mạch gia tăng, nhịp tim và nhịp thở tăng do mức biến dưỡng trong cơ
thể chó tăng. Con vật có thể bỏ ăn, buồn nôn, khát nước, táo bón, nước tiểu ít và
mất nước. Sốt gây rối loạn chuyển hoá do các chất gây sốt làm gia tăng sự oxy
hoá các chất đạm, chất bột đường và mỡ. Rối loạn biến dưỡng đạm làm gia tăng
urê thải ra. Sự oxy hoá mỡ không hoàn toàn làm cho nước tiểu có acetone nên
con vật phải gia tăng nhịp thở để thải bớt CO2, lượng acid HCl trong cơ thể gia
tăng do nước tiểu ít được thành lập và việc bay hơi quá mức bị giảm. Kém ăn có
thể gây ra biến chứng thiếu nguyên tố (Đỗ Trung Giã, 2005).
Sốt giúp cơ thể tăng cường sức phòng thủ, sự tăng nhiệt độ sẽ làm gia tăng
sự hoạt động của bạch cầu, chúng thoát mạch dễ dàng. Vì vậy hiện tượng thực
bào xảy ra mạnh hơn. Sốt kích thích tuỷ xương sản xuất ra nhiều bạch cầu nhất là
bạch cầu đa nhân trung tính, tăng gấp 2,3 lần bình thường nhưng chúng thường ở
dạng không trưởng thành. Đồng thời làm tăng tốc độ của máu lên 4 lần để đưa
nhanh bạch cầu tới nơi bị nhiễm khuẩn, sốt còn giúp cơ thể tăng cường sản xuất

kháng thể. Mức độ sốt mà cơ thể chịu đựng được cũng có thể làm ngăn cản sức
tăng trưởng của một số vi khuẩn và giảm độc lực của các độc tố cho chúng tiết ra
(Đỗ Trung Giã, 2005).
Chẩn đoán sốt không khó nhưng tìm nguyên nhân mới là quan trọng vì nó
quyết định phương hướng điều trị. Sốt kéo dài thường đặt ra nhiều vấn đề phức
tạp đôi khi khó giải quyết vì nguyên nhân rất nhiều, muốn chẩn đoán ngoài việc
thăm khám kỹ phải xét nghiệm cận lâm sàng (Hồ Văn Nam, 1982).
2.6.2 Nôn
Nôn là một phản ứng của cơ thể, là một động tác phản xạ phức tạp. Nhờ
nôn mà động vật đem chất có hại trong ống tiêu hoá thải ra ngoài (Trần Cừ,
1975).
Khi đường tiêu hoá căng quá mức, đặc biệt là ở dạ dày và tá tràng thì phản
xạ nôn xảy ra để tống thức ăn ở phần trên đường tiêu hoá ra ngoài. Xung động
được truyền vào theo dây thần kinh số X và dây giao cảm về trung tâm nôn ở
hành não. Trung tâm này nằm gần nhân lưng vận động của dây thần kinh số V,
VII, IX, X và XII đến phần trên ống tiêu hoá, theo dây thần kinh tuỷ sống đến cơ
hoành và các cơ bụng để gây ra những tác dụng như hít vào thật sâu. Nâng xương
13


móng và thanh quản để kéo cho thực quản trên mở ra. Đóng thanh môn và đóng
lỗ mũi sau, co cơ hoành và các cơ thành bụng khiến áp suất trong dạ dày tăng. Cơ
co thắt thực quản dưới giãn ra, thức ăn trong dạ dày bị đẩy qua thực quản ra
ngoài.
Như vậy, động tác nôn là do sức ép các cơ thành bụng lên dạ dày phối hợp
với sự mở ra đột ngột của các cơ co thắt thực quản làm cho thức ăn trong dạ dày
bị tống ra ngoài (Lê Quang Long, 1997).
Trong khi nôn ngoài sự hưng phấn của trung tâm nôn còn có sự hưng phấn
của các trung tâm khác: hô hấp, tim mạch, tiết nước bọt. Động vật ăn cỏ và động
vật ngặm nhấm rất ít khi nôn hoặc không nôn, còn động vật ăn thịt và động vật ăn

tạp dễ phát sinh nôn (Trần Cừ, 1975).
2.6.3 Tiêu chảy
Tiêu chảy là một thuật ngữ bao gồm các hiện tượng bài tiết phân quá
nhanh, phân lỏng và nhiều lần (Nguyễn Dương Bảo, 2005).
Các dạng tiêu chảy
Dựa vào mức độ nghiêm trọng, người ta chia tiêu chảy thành 2 dạng chính:
- Tiêu chảy cấp tính: thường do nhiễm trùng, kích thích của hoá chất, độc
tố của động vật.
Triệu chứng của tiêu chảy cấp tính gồm: phân lỏng hoặc toàn nước, tiêu
nhiều lần trong một ngày, thể trọng giảm nhanh, da, niêm mạc khô, hơi vàng hoặc
xanh tím. Nhịp tim và nhịp thở nhanh, yếu, huyết áp hạ. Da lạnh, rét run, thân
nhiệt hạ. Tiểu ít hoặc không tiểu (Nguyễn Dương Bảo, 2005).
- Tiêu chảy mãn tính: thường do 2 nguyên nhân gây ra: là tiêu chảy mãn
tính do thực tổn và tiêu chảy mãn tính do rối loạn chức năng tiêu hoá.
+ Tiêu chảy mãn tính do thực tổn: do các tổn thương thành dạ dày, ruột
non, đại tràng, do các tổn thương viêm, do ký sinh trùng đường ruột.
+ Tiêu chảy mãn tính do rối loạn chức năng, thường có 2 dạng sau:
 Tiêu chảy nguồn gốc dạ dày và ruột non: thường gây rối loạn tiêu
hoá, hấp thu và ảnh hưởng đến toàn bộ thể trạng. Có nhiều nguyên nhân và khó
phân loại như tổn thương niêm mạc làm giảm tiết enzyme, gây khó khăn cho việc
hấp thu, một số loại vi khuẩn ruột non gây rối loạn tiêu hoá, tiết dịch, hấp thu.
 Tiêu chảy nguồn gốc đại tràng: là do rối loạn chức năng đại tràng,
lạm dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc nhuận trường.

14


Triệu chứng tiêu chảy mãn tính thường không biểu hiện rõ rệt như tiêu
chảy cấp tính, chỉ có một số các biểu hiện thường thấy: phân sệt hoặc hơi lỏng,
thường thì tiêu chảy xen kẽ với táo bón. Thể trạng gầy mòn dần (Nguyễn Dương

Bảo, 2005).
- Tiêu chảy có máu: thường do các nguyên nhân sau
 Do virus: Parvovirus, Carré,…
 Do vi khuẩn: Camplylobacter, Leptospira, Clostridium,…
 Do ký sinh trùng: giun móc, giun đũa,…
+ Triệu chứng: mất máu, tuỳ theo thời gian và số lượng máu bị mất do
xuất huyết tiêu hoá mà có những biểu hiện của sự mất máu: da, niêm mạc trắng
nhợt nhạt. Da lạnh, vã mồ hôi. Mạch nhanh, huyết áp hạ, số lượng hồng cầu và
hàm lượng Hemoglobin giảm thấp.
+ Tính chất của máu:
Máu đỏ tươi: có thể dính vào phân, ra ngoài thành tia hoặc thành giọt sau
khi tiêu hoặc tiêu toàn máu, không có phân. Máu đỏ tươi thường do xuất huyết từ
hồi tràng, đại tràng, trực tràng, cũng có khi do xuất huyết dạ dày, tá tràng nhưng
vì máu ra nhiều và ồ ạt nên qua ống tiêu hoá chưa kịp phân huỷ.
Máu đen: do xuất huyết ở phần trước của ống tiêu hoá (thực quản, dạ dày,
tá tràng) có thời gian lưu lại trong ống tiêu hoá và vi khuẩn phân huỷ trở nên đen.
Phân đen có thể khô, sệt hoặc lỏng, có màu cà phê hoặc màu đen như nhựa
đường.
Cơ chế tiêu chảy
Tiêu chảy nhiễm trùng do 2 cơ chế chủ yếu là vi khuẩn tấn công vào lớp
màng nhầy của ruột làm phá huỷ niêm mạc ruột và gây ra tăng tiết chế dịch nhầy
ở ruột, vi khuẩn tấn công vào thành ruột dẫn tới sung huyết, phù niêm mạc, thâm
nhiễm bạch cầu eosin và gây loét ở lớp biểu mô trong lòng ruột. Các cơn đau
bụng là triệu chứng nổi bật kèm theo cảm giác mót rặn do cơ vòng hậu môn co
bóp liên tục để tống dịch ở trực tràng ra bên ngoài (Stephen và ctv., 1989).
Tiêu chảy xảy ra khi có các rối loạn sau:
- Tăng nhu động ruột làm cho phân đi quá nhanh từ ruột non tới ruột già
và ra ngoài nên phân không đủ thời gian để hấp thu nước và cô đặc lại.
- Các tuyến tiêu hoá tăng tiết đưa vào lồng ống một khối lượng quá nhiều
dịch mà ruột không tái hấp thu hết được, ngược lại nếu giảm tiết sẽ làm giảm việc

cung cấp enzyme tiêu hoá. Các thức ăn không được tiêu hoá hoàn toàn có thể do
ăn quá nhiều các thức ăn khó tiêu (mỡ, đạm), thiếu enzyme cả về số và chất hoặc
do khối thức ăn đi quá nhanh. Các rối loạn hấp thu xảy ra do phân vận chuyển
15


quá nhanh, thiếu enzyme, tổn thương các tế bào niêm mạc ruột, do nghẽn mạch
bạch huyết làm cản trở vận chuyển các chất mỡ (Nguyễn Dương Bảo, 2004).
Ở loài chó và mèo khó phát hiện các triệu chứng sớm (đau bụng, tiêu chảy
và ói mửa) ở giai đoạn đầu của bệnh. Đó là do cơ thể của gia súc chủ động trong
thời gian bị tiêu chảy bằng cách đẩy dịch về phía vùng bụng và tống nhanh chất
thải ra khỏi cơ thể qua hậu môn, đau bụng kết hợp với tiêu chảy có thể do ruột
giãn nở đột ngột cơ trơn của ruột co bóp, giảm độ pH bên trong ruột hoặc chất
hoá học kích thích màng nhầy niêm mạc gây nên hiện tượng nôn. Điều quan
trọng là phải theo dõi được khối lượng cũng như số lần phân được bài thải ra
ngoài và nên quan sát trực tiếp mẫu phân xem mật độ, màu, tính chất nhờn và
mùi. Khám sờ nắn vùng bụng có thể phát hiện nhu động ruột tăng do sự viêm
sưng tấy ở ruột non và đó là kết quả dẫn đến tiêu chảy đôi khi xuất hiện ói mửa
(Stephen và ctv.,1989).
Việc gia tăng thể tích bên trong ruột là do thẩm thấu tích nước lại bởi
những tiểu phần không được hấp thu trong ruột bởi cơ chế tiết chủ động vào
trong lòng ruột. Việc suy yếu tuỵ hoặc thiếu các enzyme tế bào màng nhầy niêm
mạc, rối loạn tính thấm của ruột do sự tổn thương lớp màng nhầy niêm mạc ruột,
hoặc quá trình gắn kết giữa lớp mô liên kết mỏng ở ngoài cùng tiếp giáp với các
lớp màng trong xoang cơ thể với những tế bào viêm có thể gây suy giảm hấp thu,
chủ động giải phóng một số lượng lớn những tiểu phần, các khí hydrocacbon và
CO2. Sự kích thích cục bộ do các vi khuẩn hoặc những độc tố của vi khuẩn và
những thức ăn khó tiêu có thể tác động đến tính vận động quá mức bởi phản xạ
dây thần kinh, các chất dinh dưỡng không được tiêu hoá và hấp thu ở ruột non
nên làm rối loạn nhu động ruột và đẩy các chất dinh dưỡng xuống ruột già. Vi

khuẩn tiếp tục lên men những chất dinh dưỡng gây chủ động thẩm thấu tích luỹ
những tiểu phần và sau đó là tiêu chảy (Philíp, 2004).
Trong bệnh viêm ruột, hệ vi sinh ở đường ruột bị rối loạn do giảm lượng
vi khuẩn kỵ khí và Lactobacilli, cùng lúc đó họ vi khuẩn đường ruột
Enterobacteriacece tăng sinh. Việc cho uống thuốc kháng sinh có thể phá vỡ sự
cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột dẫn đến tăng khả năng kháng thuốc của vi
khuẩn và nấm. Hoạt động tiêu hoá bị rối loạn trong ruột non có thể ảnh hưởng
đến sự phát triển của vi khuẩn có lợi.
Những thay đổi diễn ra trong bộ máy tiêu hoá gồm giảm hoạt động tiêu
hoá, giảm tiết dịch acid dạ dày, dịch tuỵ và dịch nhầy ở kết tràng, giảm lượng IgA
kết hợp với sự tăng sinh vi khuẩn, dẫn đến gây suy yếu miễn dịch thể dịch. Đoạn
ruột non mất sức trương hoặc giảm khả năng hoạt động, khi đó hệ vi sinh cư trú
16


bình thường ở ruột già sẽ tăng nhanh về số lượng gây tiết dịch nhiều kết hợp với
muối mật dẫn đến hậu quả là kém tiêu hoá và hấp thu mỡ (Quinn và ctv., 1997).
Khi tác động vào cơ thể, từng nguyên nhân gây bệnh có cơ chế sinh bệnh
cụ thể. Tuy nhiên, khi hiện tượng tiêu chảy xảy ra cơ thể chịu một quá trình sinh
bệnh có những nét đặc trưng chung (Lê Minh Trí, 2002).
Sự mất nước
Hậu quả trực tiếp và nặng nề nhất của hiện tượng tiêu chảy là sự mất nước
và mất chất điện giải của cơ thể, kéo theo hàng loạt các biển đổi bệnh lý khác.
Theo các nhà bệnh lý học, có thể phân loại sự mất nước thành 3 thể:
- Mất nước ưu trương: là sự mất nước đơn giản không mất Na+, sự mất
nước chỉ ở độ trung bình.
- Mất nước đẳng trương: như mất dịch đẳng trương và Na +, sự mất nước
chỉ ở độ trung bình và giảm Na+ trong máu.
- Mất nước nhược trương: mất dịch và Na+ nặng, dẫn đến mất máu nặng
và giảm Na + trong máu trầm trọng.

Ở con vật khoẻ mạnh, nước chiếm khoảng 75% thể trọng, được giữ lại ở
dịch nội bào (50% thể trọng) và dịch ngoại bào, gồm huyết tương (8% thể trọng)
và dịch ruột (17% thể trọng). Tất cả các loại dịch này đều bị giảm ở vật bị tiêu
chảy. Vì vậy, tuần hoàn bị trở ngại và trao đổi ở mô giảm.
Ở vật bị tiêu chảy, lượng nước mất tuỳ theo nguyên nhân và mức độ trầm
trọng của bệnh. Mất nước là hiện tượng bệnh lý trung tâm và nguyên nhân trực
tiếp gây tử vong.
Mất các chất điện giải
Khi con vật bị tiêu chảy, chẳng những mất một lượng lớn nước làm rối
loạn hoạt động của các quá trình trong cơ thể, mà một số chất điện giải quan
trọng như HCO3-, K+, Na+, Cl- cũng bị hao hụt, góp phần gây nên những quá trình
bệnh lý, làm tổn hại sức khoẻ của con vật.
Mất ion Na+ gây tác hại lớn với cơ thể, nó giữ vị trí quan trọng việc duy trì
áp lực thẩm thấu và hoạt động thần kinh của con vật. Trong cơ thể, muối NaCl
được phân ly hầu như hoàn toàn thành Na+ và Cl-.
Ở thành ruột có áp lực thẩm thấu ưu trương, gia súc duy trì nồng độ đẳng
trương bằng cách lấy nước từ hệ tuần hoàn hay dịch từ các bộ phận khác. Tuy
nhiên, lấy nước từ hệ tuần hoàn xảy ra nhanh chóng.

17


Ion K+ cũng bị hao hụt do tiêu chảy, tuy nhiên do hoạt động K+ từ tế bào
ra, nên hàm lượng K+ trong máu có chiều hướng tăng (nhất là trong trường hợp
acidosis), làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của hệ tim mạch (tim đập chậm, loạn
nhịp).
Một trong những hậu quả lớn nhất của mất nước và chất điện giải là hiện
tượng acidsis. Trong hiện tượng acidsis: pH của máu giảm, làm vật tăng hô hấp,
tốc độ thải trừ CO2 trong máu. Thường acidosis là hậu quả của nhiều yếu tố như
mất bicarbonate (thải qua thành ruột) trực tiếp qua phân, sản sinh acid lactic và

các acid hữu cơ, giảm tiết ion H+ qua thận và giảm sự tái tạo bicarbonate.
2.7 Một số nguyên nhân chủ yếu gây bệnh đường tiêu hoá
2.7.1 Nguyên nhân do virus
 Bệnh Carré (Canine Distemper Virus, bệnh cứng bàn chân, bệnh chó
non, bệnh trái chó, bệnh sốt sài chó con).
Bệnh Carré là bệnh truyền nhiễm phổ biến và lây lan rất dữ dội, gây tác
hại trên nhiều hệ nhưng nặng nhất và rõ nhất là trên hệ tiêu hoá, đây là một trong
những bệnh nguy hiểm phổ biến nhất của chó, chủ yếu ở chó non với các hội
chứng sốt, viêm phổi, viêm ruột, niêm mạc và nổi các nốt sài ở chỗ da ít lông, ở
bẹn,...
.
Cuối thời kỳ bệnh chó thường có triệu chứng thần kinh. Sự kế phát của các
vi khuẩn ký sinh sẵn ở đường tiêu hoá, hô hấp thường làm bệnh trầm trọng thêm,
lúc đó bệnh thể hiện chủ yếu dưới 2 dạng: viêm phổi và viêm ruột (Nguyễn Văn
Biện, Phạm Sỹ Lăng và Nguyễn Thiện, 2002).
Nguyên nhân
Bệnh do virus có nhân RNA thuộc họ Paramyxoviride, giống Mobillivirus
gây ra, virus có kích thước 100-300 micron, xâm nhập vào mô bạch huyết qua
đường tiêu hoá, hô hấp, bài tiết, virus tiếp tục nhân lên ở mô bạch huyết
(McCandlish, 1991).
Tất cả các giống chó và ở các lứa tuổi đều có thể mắc bệnh Carré. Bệnh
thường xảy ra ở chó 2-12 tháng tuổi, đặc biệt chó con 3-4 tháng tuổi dễ nhiễm
bệnh hơn và tỷ lệ chết có thể lên đến 100% vì ở lứa tuổi này kháng thể chống lại
mầm bệnh nhận được từ chó mẹ bị mất đi, những con chó bị mắc bệnh còn sống
sót sẽ được miễn dịch đến khi trưởng thành (Thompson, 1998).
Tuy nhiên, chó đang bú mẹ ít gặp bệnh Carré vì chó con thu được miễn
dịch thụ động qua sữa mẹ, chó mẹ có miễn dịch do tiêm phòng hoặc tiếp xúc với
mầm bệnh trong tự nhiên.

18



Chó bệnh là nguồn lây lan chủ yếu, chó thải virus ra ngoài theo dịch mũi,
nước mắt, nước bọt, nước tiểu và phân, thức ăn, nước uống là nguồn tàng trữ
virus. Chó thường thải virus sau 7 ngày cảm nhiễm. Người, chuột và động vật
khác là môi giới trung gian truyền bệnh, chó trưởng thành nhiễm virus nhưng
không phát bệnh mà trở thành nguồn tàng trữ virus nguy hiểm nhất (Vương Đức
Chất và Lê Thị Tài, 2004).
Virus xâm nhập trực tiếp qua hô hấp dưới dạng những giọt khí dung hay
giọt nước nhỏ hoặc gián tiếp qua thức ăn, nước uống. Bệnh cũng có thể truyền qua
nhau thai (Trần Thanh Phong, 1996).
Virus bệnh Carré lây lan trực tiếp từ chó bệnh sang chó khoẻ. Virus lẫn
vào các hạt bụi trong không khí và có thể gây nhiễm cho chó trong suốt từ 2-3
tuần hoặc có thể lâu hơn, sự lây lan trong không khí thường trong một vùng ngắn.
Sự lây nhiễm nhanh hay chậm phụ thuộc vào mật độ chó nuôi tại một vùng và tỉ lệ
chó được tiêm phòng (Thompson, 1998).
Ở nước ta, bệnh Carré xảy ra quanh năm, nhưng dịch thường xảy ra dữ
dội vào mùa xuân và mùa đông (Phạm Sỹ Lăng và ctv, 2006).
Triệu chứng
Biểu hiện bệnh Carré rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tuổi chó, giống chó, tình
trạng sức khoẻ, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và độc lực của mầm bệnh.
Thời gian nung bệnh của chó từ 3-8 ngày.
Hầu hết chó mắc bệnh ở thể cấp tính với các triệu chứng điển hình: buồn
bã, biếng ăn, ủ rũ, không thích vận động và sốt (39,4 – 40 0C) có thể báo trước sự
bắt đầu của bệnh hoặc kết thúc của bệnh (Thompson, 1998).
Chó biểu hiện sốt hai thì rõ rệt, đợt một thường xuất hiện trong khoảng 3-6
ngày khi chó bị cảm nhiễm, thời gian sốt kéo dài trong 2 ngày, sau đó giảm sốt.
Vài ngày sau lại xuất hiện đợt sốt thứ hai kéo dài cho đến lúc chết, hoặc khi cơ
thể suy kiệt.
Virus xâm nhập vào cơ thể làm giảm bạch cầu, đặc biệt là lympho bào và

gây ra những triệu chứng trên đường hô hấp như viêm đường hô hấp từ mũi đến
phế nang với biểu hiện hắt hơi, ho, chảy mũi, thở khò khè, âm ran ướt.
Nôn là triệu chứng thường gặp của bệnh Carré, có thể là một dấu hiệu
sớm. Tuy nhiên, tiêu chảy là thường gặp nhiều hơn (Thompson, 1998).

19


Trên hệ tiêu hoá gây xáo trộn tiêu hoá với các triệu chứng đi phân lỏng,
tanh, có thể lẫn máu (phân có máu màu cà phê) hoặc niêm mạc ruột bị bong tróc
(phân màu nâu nhầy), chó có thể đi phân lỏng nhiều lần trong ngày. Giai đoạn
cuối phân loãng lẫn máu tươi, kèm niêm mạc ruột bong ra tanh khẳm, hậu môn
bẩn.

Hình 2.1: Chó tiêu chảy có máu màu đỏ sẫm

Chó gầy sút nhanh chóng do không ăn và tiêu chảy, mắt trũng, bụng hóp,
đi không vững, nằm bệt, hạ nhiệt độ, loạn nhịp tim và chết trong vòng 3-7 ngày.
Đối với hệ thần kinh, virus tác động lên não gây viêm não làm chó có biểu
hiện triệu chứng thần kinh như đi xiêu vẹo, mất định hướng, co giật, chảy nước
bọt, bại liệt, hôn mê rồi chết. Ngoài ra, virus tác động lên da làm cho da vùng
bụng xuất hiện mụn mủ (nốt sài).
Khi chó mắc bệnh ở thể bán cấp tính: ban đầu bệnh biểu hiện trên hệ hô
hấp và tiêu hoá, thường ở thể thầm lặng (không rõ) kéo dài 2-3 ngày, thời gian
này chó có hiện tượng sừng hoá gan bàn chân (kelatin hoá). Sau cùng xuất hiện
triệu chứng thần kinh với các biểu hiện co giật nhóm cơ vùng chân, mặt, ngực và
đau cơ, có hiện tượng nhai giả, vùng chân sau bị liệt, chó mất thăng bằng, co giật,
hôn mê trong thời gian ngắn rồi chết (Trần Thanh Phong, 1996).

20



Hình 2.2: Sừng hoá gan bàn chân
( />
Bệnh tích
Các niêm mạc đường hô hấp xung huyết và xuất huyết, não bị xung huyết,
phổi sưng, bên trong có mủ lẫn máu và dịch nhầy. Niêm mạc ruột, dạ dày có
nhiều điểm xuất huyết, có khi bị bào mỏng, trong ruột chứa máu màu cà phê.
Thành ruột có những điểm loét màu nâu sẫm. Lách sưng có nhồi huyết ở rìa. Gan
sưng, xuất huyết, có khi xuất huyết thành vệt hoặc thành những điểm bằng hạt
đậu, hạt ngô. Tim nhão, lớp vỏ vành tim đôi khi bị xuất huyết. Niêm mạc bàng
quang đôi khi bị xuất huyết (Phạm Sỹ Lăng và Phạm Ngọc Thạch, 2006).
Chẩn đoán
+ Chẩn đoán lâm sàng
Bệnh Carré được chẩn đoán dựa vào các triệu chứng như chảy nhiều chất
tiết ở mắt và mũi, xáo trộn hô hấp với biểu hiện ho, hắt hơi, viêm phổi. Trên hệ
tiêu hoá gây rối loạn tiêu hoá như nôn, tiêu chảy. Trên da với các dấu hiệu viêm
da, nổi những mụn mủ (nốt sài) ở vùng da mỏng, sừng hoá (kelatin hoá) gan bàn
chân, gương mũi. Trên hệ thần kinh làm xáo trộn thần kinh gây co giật, bại liệt.
Bệnh tiến triển trong vòng 5 tuần, kết quả theo 3 hướng khác nhau: lành
bệnh, lành bệnh kèm với di chứng thần kinh (co cơ, giật cơ, viêm phổi, mất men
răng, hư thận ) và chết.
+ Chẩn đoán cận lâm sàng
Có thể xác định thể vùi bằng cách phết kính biểu mô kết mạc hay biểu mô
hạnh nhân qua phản ứng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp. Phương pháp này cho
kết quả rất thuyết phục nhưng đòi hỏi phải có một kinh nghiệm quan sát dày dặn.

21



Ngoài ra có thể quan sát tế bào từ cặn nước tiểu, nhưng thường có thể vấp phải
trường hợp cho kết quả âm tính (Thompson, 1998).
Tìm kháng thể IgM trong máu, nhưng có vấn đề ở những con chó con có
thể nhận kháng thể từ mẹ.
Tìm virus bằng phương pháp ủ bệnh trên chồn furet, trên thú chết lấy lách
làm xét nghiệm.
- Phương pháp ELISA
Chẩn đoán dịch tể học: loài nhiễm bệnh là các loài họ chó, chó nhạy cảm
tuỳ vào độ tuổi. Virus rất dễ chết, sống được 20 phút trong môi trường chất nhầy
lỗ mũi ở 20 0C. Bệnh truyền nhiễm trực tiếp, virus thâm nhập qua đường mũi hay
mô liên kết.
Điều trị
Hiện chưa có thuốc đặc trị điều trị bệnh. Phương pháp điều trị chủ yếu phụ
thuộc vào chăm sóc, sức đề kháng của con vật.
Việc sử dụng kháng sinh chỉ có tác dụng chống phụ nhiễm, kết hợp với
biện pháp truyền dịch bằng dung dịch sinh lý mặn và dung dịch Lactate Ringer’s
nhằm duy trì cân bằng điện giải cơ thể. Ngoài ra cần bổ sung dinh dưỡng cho con
vật trong lúc bệnh (Lobertti, 2003).
Các nhà khoa học đã thành công trong việc tạo ra kháng huyết thanh
chống bệnh Carré nhưng chỉ đạt hiệu quả khi mới chớm bệnh (sau 2-3 ngày
nhiễm bệnh) nhưng đắt tiền và hiệu lực chưa cao (Vương Đức Chất và Lê Thị
Tài, 2004).
Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng vaccine
Chó từ 50-60 ngày tuổi trở lên phải tiêm vaccine phòng bệnh.
Hiện nay, một loại vaccine đa gía phòng: bệnh Carré, bệnh viêm gan virus,
bệnh do Parvovirus và bệnh Leptospira được nhập vào nước ta để tiêm phòng cho
chó.
Hai loại vaccine mới nhập là:
+ Biocan DHHi phòng 5 bệnh truyền nhiễm ở chó: bệnh Carré, bệnh viêm

phổi do Adenovirus, bệnh viêm gan virus, bệnh do Parvovirus và bệnh cúm do
virus.
+ Biocan Puppy phòng 2 bệnh: bệnh Carré và bệnh do Parvovirus đã được
sử dụng có hiệu quả cho chó nghiệp vụ.

22


×