Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn toán của trường THCS nguyễn bỉnh khiêm, huyện vĩnh bảo, thành phố hải phòng bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN NHƢ HIỀN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN
Ở TRƢỜNG THCS NGUYỄN BỈNH KHIÊM, HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN NHƢ HIỀN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN
Ở TRƢỜNG THCS NGUYỄN BỈNH KHIÊM, HUYỆN VĨNH BẢO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Từ Đức Văn


HÀ NỘI – 2013

2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG

5

DẠY HỌC MÔN TOÁN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ

5

1.1. Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu vấn đề

7

1.2. Một số khái niệm cơ bản

7

1.2.1. Quản lý, chức năng, biện pháp quản lý

11


1.2.2. Quản lý giáo dục

12

1.2.3. Quản lý nhà trƣờng

14

1.2.4. Hoạt động dạy và học

18

1.3. Hoạt động dạy học môn toán ở trƣờng THCS

18

1.4. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn Toán ở trƣờng THCS

25

1.4.1. Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên

25

1.4.2. Quản lý hoạt động học tập của học sinh

30

1.4.3. Quản lý CSVC và phƣơng tiện dạy học môn Toán


31

1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý hoạt động dạy học môn Toán ở

32

trƣờng THCS hiện nay
Tiểu kết chƣơng 1

36

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN, QUẢN LÝ

37

HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN CỦA TRƢỜNG THCS NGUYỄN BỈNH
KHIÊM, HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Bảo thành phố

37

Hải Phòng
2.2 Khái quát về đặc điểm trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh

39

Bảo, thành phố Hải Phòng
2.3. Thực trạng hoạt động dạy học môn toán ở trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh


43

Khiêm, huyện Vĩnh Bảo
2.3.1. Thực trạng hoạt động giảng dạy của giáo viên

44

2.3.2. Thực trạng về hoạt động học tập của học sinh

51

3


2.4. Thực trạng quản lý hoạt động day học môn toán ở trƣờng THCS Nguyễn

55

Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng

55

2.4.1 Thực trạng quản lí hoạt động giảng dạy của giáo viên

55

2.4.2. Thực trạng quản lý hoạt động học tập của học sinh

69


2.4.3. Thực trạng quản lý CSVC và PTDH Toán

72

2.5. Đánh giá chung thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Toán ở

76

trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
Tiểu kết chƣơng 2

77

Chƣơng 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở

79

TRƢỜNG THCS NGUYỄN BỈNH KHIÊM HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp

79

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn

79

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống


79

3.1.3. Nguyên tắc đảm bào tính đồng bộ

80

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi và hiệu quả

80

3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Toán ở trƣờng THCS

81

Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng trong bối cảnh hiện nay.
3.2.1. biện pháp 1: Tăng cƣờng quản lý việc thực hiện nội dung chƣơng trình

81

môn Toán đáp ứng mục tiêu môn học và nhiệm vụ của từng năm học.
3.2.2. Biện pháp 2: Thƣờng xuyên chỉ đạo việc đổi mới phƣơng pháp dạy

83

học của giáo viên và bồi dƣỡng phƣơng pháp học tập cho học sinh.
3.2.3. Biện pháp 3: Quản lý sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, phƣơng tiện dạy

85


học và tăng cƣờng ứng dụng phƣơng tiện dạy học hiện đại vào dạy học toán.
3.2.4. Biện pháp 4: Đổi mới quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lƣợng

87

giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập của học sinh
3.2.5. Biện pháp 5: Tăng cƣờng quản lý nề nếp, kỹ năng trong dạy và học

91

môn Toán
3.2.6. Biện pháp 6: Bồi dƣỡng lý luận và nghiệp vụ quản lý cho CBQL đồng
thời tăng cƣờng bồi dƣỡng nâng cao trình độ chuyên môn chuẩn hóa, nghiệp
4

94


vụ sƣ phạm cho đội ngũ giáo viên Toán.
3.2.7. Biện pháp 7: Chú trọng xây dựng môi trƣờng giáo dục lành mạnh có

97

ảnh hƣởng tích cực đến hoạt động giáo dục của nhà trƣờng nói chung và hoạt
động dạy học môn Toán nói riêng.
3.3. Mối quan hệ của các biện pháp.

98

3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.


99

Tiểu kết chƣơng 3

104

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

105

1. Kết luận:

105

2. Khuyến nghị.

106

2.1. Đối với UBND TP Hải Phòng, Sở GD & ĐT Hải Phòng.

106

2.2. Đối với UBND huyện Vĩnh Bảo, Phòng GD&ĐT huyện Vĩnh Bảo.

107

2.3. Đối với cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên Toán của trƣờng THCS

107


Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng.
* Danh mục tài liệu tham khảo

109

* Phụ lục

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, chiến lƣợc phát triển nhanh, bền vững nhất đối với
mỗi quốc gia đó là phát triển giáo dục và đào tạo, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát
triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nƣớc. Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với
tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hƣởng
rộng lớn trên cả nƣớc, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức chú trọng
phát triển giáo dục đào tạo, coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đại hội X của Đảng
cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: " Giáo dục và Đào tạo cùng khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu". Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất
lƣợng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và
bền vững.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của ban Bí thƣ Trung ƣơng
Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục đƣợc chuẩn hoá, đảm bảo chất lƣợng, đủ về số lƣợng, đồng bộ về cơ
cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lƣơng tâm, tay
nghề nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc". [4; Tr1]

Mặc dù đã đạt đƣợc những thành tựu trên nhƣng hệ thống Giáo dục và Đào
tạo nƣớc ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển của đất nƣớc
trong thời kỳ CNH-HĐH. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá VIII đã khẳng
định:“Giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô lẫn cơ cấu và
nhất là chất lượng ít hiệu quả, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nhân
lực và công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để giải
quyết mâu thuẫn trên đòi hỏi chúng ta phải thay đổi quan niệm, nhận thức về giáo
dục, phải hƣớng tới chất lƣợng giáo dục, điều đó đồng nghĩa với việc phải chú
trọng nâng cao có hiệu quả hoạt động dạy và học trong các nhà trƣờng.
6


Giáo dục THCS là một trong những cấp học của giáo dục phổ thông trong hệ
thống giáo dục của nƣớc ta, cấp THCS là cấp học cơ bản, là giai đoạn trung gian
giữa Tiểu học và THPT. Ở giai đoạn này, học sinh đƣợc cung cấp kiến thức cơ bản
nhất, giáo dục và hình thành nhân cách, gắn với tâm sinh lý của lứa tuổi này cũng
nhiều biến động. Nhƣ vậy, các hoạt động dạy học ở các trƣờng THCS là vô cùng quan
trọng, là cơ sở cho các cấp học, bậc học cao hơn.
Những năm gần đây sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện Vĩnh Bảo nói
chung và của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm là trƣờng chất lƣợng cao của
huyện Vĩnh Bảo nói riêng đã có những thay đổi mạnh mẽ, cơ bản và sâu sắc, luôn
dẫn đầu khối ngoại thành về các phong trào giáo dục. Bên cạnh những thành tựu
cũng còn không ít những hạn chế, yếu kém nhiều mặt, trong đó nguyên nhân cơ
bản là những hạn chế về quản lý nhà trƣờng nói chung và quản lý hoạt động dạy và
học nói riêng, không theo kịp thực tiễn phát triển giáo dục của đất nƣớc.
Môn Toán là môn học quan trọng ở trƣờng THCS, môn học có số tiết nhiều
nhất trong tuần. Công tác quản lý chất lƣợng dạy học nói chung, quản lý chất lƣợng
dạy học môn Toán ở trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt đƣợc một số kết quả
nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Vì thế, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

của vấn đề quản lý chất lƣợng dạy học môn Toán nhằm tìm ra các biện pháp quản lý
chất lƣợng dạy học bộ môn này là vấn đề cấp thiết.
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy việc quản lý hoạt động dạy và học môn
Toán của các trƣờng THCS trên địa bàn Huyện Vĩnh Bảo nói chung và của trƣờng
THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng là rất cần thiết. Xuất phát từ những lý do
trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn Toán của trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố
Hải Phòng bối cảnh hiện nay” nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu
giáo dục phổ thông cơ sở nói riêng, giáo dục phổ thông thành phố Hải Phòng nói
chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học bộ môn Toán
của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
7


trong bối cảnh hiện nay.
3. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học môn Toán của trƣờng THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn
Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lƣợng dạy học môn Toán của giáo viên và học sinh của trƣờng THCS
Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện nay chƣa đồng đều, còn nhiều bất cập. Nếu xây dựng và
áp dụng một cách sáng tạo, khoa học đồng bộ các biện pháp quản lý mang tính hệ
thống, khả thi và hiệu quả thì sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học môn Toán
của nhà trƣờng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy học, quản lý hoạt động dạy học môn
Toán cấp THCS .
5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động dạy học, quản lý hoạt
động dạy học môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng.
5.3. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã tìm hiểu đề xuất các biện pháp quản lý hoạt
động dạy học môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng trong bối cảnh hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng từ năm 2010 đến năm 2013
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

8


Nghiên cứu và phân tích các nguồn tƣ liệu, số liệu có sẵn về khoa học giáo
dục, khoa học quản lý giáo dục và các tài liệu có liên quan để xây dựng cơ sở lý
luận chủ yếu của đề tài
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Gồm phiếu dành cho cán bộ
quản lý; dành cho giáo viên; dành cho học sinh nhằm thu thập thông tin về thực
trạng quản lý dạy học môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh
Bảo, thành phố Hải Phòng

7.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Tham khảo các bản báo
cáo tổng kết năm học, kế hoạch năm học của trƣờng, ngành và một số báo cáo hội
thảo về công tác chuyên môn nhằm tổng kết các kinh nghiệm quản lý dạy học bộ

môn Toán

7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Lấy ý kiến của cán bộ quản lý
trong và ngoài nhà trƣờng thông qua phiếu điều tra về một số vấn đề nghiên cứu
đề tài quan tâm đƣợc sử dụng trong việc xem xét thực trạng và các biện pháp đƣợc đề
xuất
7.2.4. Phương pháp khảo nghiệm: Về tính khả thi của các biện pháp đƣợc đƣa
ra trong luận văn

7.3. Phƣơng pháp nghiên cứu bổ trợ
7.3.1. Phƣơng pháp xử lý số liệu thống kê.
7.3.2. Phƣơng pháp so sánh để xử lý các kết quả nghiên cứu
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục các tài liệu tham khảo
và phụ lục, cấu trúc luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn Toán cấp THCS
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động dạy học môn Toán, quản lý hoạt động dạy học
môn Toán của trƣờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Toán của trƣờng THCS
Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng trong bối cảnh hiện
nay
9


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MÔN TOÁN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý là một hoạt động mang tính lịch sử xã hội, nhờ có hoạt động quản lý

mà xã hội loài ngƣời không ngừng vận động và phát triển. Theo Mác-Ănghen
trong quá trình nghiên cứu nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã rút ra kết luận, một
trong những yếu tố quyết định đối với sự phát triển của nền sản xuất tƣ bản là nhờ
có vai trò của hoạt động quản lý.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục trong và ngoài nƣớc,
bên cạnh những công trình nghiên cứu có tính chất tổng quan về quản lý giáo dục thì
các công trình nghiên cứu về quản lý nhà trƣờng, quản lý các thành tố của quá trình
sƣ phạm trong nhà trƣờng ngày càng chiếm vị trí quan trọng bởi nhà trƣờng đƣợc
thừa nhận rộng rãi nhƣ một thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục - đào tạo thế
hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Nhà giáo dục học Xô-Viết: V.A. Xukhomlinxki khi tổng kết những kinh
nghiệm quản lý chuyên môn trong vai trò là ngƣời hiệu trƣởng nhà trƣờng đã cho
rằng: "Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào công
việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động dạy học", V.A Xukhomlinxki
và Xvecxlerơ cùng nhấn mạnh đến biện pháp dự giờ, phân tích bài giảng, sinh hoạt
tổ chuyên môn...Việc dự giờ, phân tích bài giảng của đồng nghiệp đƣợc coi là "đòn
bẩy" để nâng cao chất lƣợng dạy học. Việc phân tích bài giảng với mục đích là chỉ
cho giáo viên thấy các thiếu sót để khắc phục, đồng thời nhận ra các mặt tích cực
để khuyến khích họ phát huy nhằm nâng cao chất lƣợng bài giảng.
Đề tài khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ của nhóm tác giả: PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Hợi (chủ nhiệm đề tài); PGS.TS. Phạm Minh Hùng; PGS. TS. Thái
Văn Thành "Thực trạng và các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên" (2006).
Nhóm tác giả đó nêu lên nguyên tắc chung về nâng cao chất lƣợng của đội ngũ
giáo viên nhƣ: Xác định đầy đủ nội dung hoạt động chuyên môn; Xây dựng hoàn
10


thiện quy chế đánh giá, xếp loại chuyên môn của giáo viên; Tổ chức đánh giá, xếp
loại chuyên môn của giáo viên.
Tác giả Trần Bá Hoành trong công trình nghiên cứu của mình cũng đã đề

cập đến việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng lấy học sinh làm trung tâm,
vận dụng các phƣơng pháp tích cực, tăng cƣờng phƣơng pháp học tập, tự học...
trong trong việc đổi mới phƣơng pháp dạy học trong trƣờng phổ thông.
Các tác giả, các nhà nghiên cứu và các nhà QLGD nhƣ Phạm Minh Hạc,
Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Cảnh Toàn, Đặng Quốc Bảo, Đặng Bá Lãm, Nguyễn
Thị Mỹ Lộc, Phạm Viết Vƣợng,... đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLGD,
quản lý nhà trƣờng. Các công trình này đi sâu vào lý luận QLGD nói chung, ở
phƣơng diện quản lý cụ thể một môn học ở trƣờng phổ thông trong đó có môn
Toán ở cấp THCS thì chƣa đƣợc đề cập nhiều. Trong những năm gần đây lý luận
về quản lý các môn học trong nhà trƣờng phổ thông đã đƣợc quan tâm, nhất là
trong các luận văn về QLGD.
Đối với môn Toán ở trƣờng phổ thông, nhiều công trình nghiên cứu của
nhiều chuyên gia cũng đã đề cập ít nhiều về phƣơng diện quản lý quá trình dạy học
môn Toán sao cho có hiệu quả nhất. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu có giá trị nhƣ: Phương pháp dạy học đại cương môn Toán của tác giả
Nguyễn Bá Kim (2010); Vận dụng lý luận vào thực tiễn dạy học môn Toán ở
trường Phổ thông của tác giả Bùi Văn Nghị (2009); Cẩm nang dạy và học môn
Toán trung học cơ sở của tác giả Vũ Hữu Bình (2007)...
Nhìn chung các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quản lý giáo dục, quản lý nhà trƣờng hay quản lý quá trình dạy học nói chung mà ít đề
cập đến các giải pháp cụ thể để quản lý chất lƣợng dạy học từng bộ môn đặc biệt chƣa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý chất lƣợng dạy học môn
Toán ở các trƣờng THCS.
Từ việc kế thừa các kết quả nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu
cơ sở lý luận, khảo sát thực trạng hoạt động dạy học, quản lý hoạt động dạy học môn
Toán, đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Toán của trƣờng THCS
Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng trong bối cảnh hiện nay.
11



1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, chức năng, biện pháp quản lý.
1.2.1.1. Khái niệm “Quản lý”
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời, hoạt động quản lý đã xuất
hiện rất sớm. Từ khi con ngƣời biết tập hợp lại với nhau, tập trung sức lực để tự vệ
hoặc kiếm sống, thì bên cạnh lao động chung của mọi ngƣời đã xuất hiện những
hoạt động tổ chức, phối hợp điều khiển đối với họ. Những hoạt động đó xuất hiện,
tồn tại và phát triển nhƣ một yếu tố khách quan, là cơ sở cho các hoạt động chung
của con ngƣời đạt đƣợc kết quả mong muốn. K.Marx đã viết: “Một người độc tấu
vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng”. Nhƣ vậy, đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức,
điều khiển các hoạt động của con ngƣời theo những yêu cầu nhất định đƣợc gọi là
hoạt động quản lý. Từ đó có thể hiểu là lao động và quản lý không tách rời nhau,
quản lý là hoạt động điều khiển lao động chung. Xã hội phát triển qua các phƣơng
thức sản xuất thì trình độ tổ chức, điều hành tất yếu đƣợc nâng lên, phát triển theo
những đòi hỏi ngày càng cao hơn. Cùng với sự phát triển của xã hội loài ngƣời,
quản lý đã trở thành một ngành khoa học và ngày càng phát triển toàn diện.
Quản lý là một hiện tƣợng xã hội đƣợc hình thành và phát triển cùng với sự
xuất hiện, phát triển của xã hội loài ngƣời. Nó bắt nguồn và gắn chặt với sự phân
công, hợp tác lao động. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan đƣợc ra đời
một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi
thời đại. Quản lý là một dạng hoạt động xã hội đặc thù, trở thành một nhân tố của
sự phát triển xã hội, một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ
và liên quan đến mọi ngƣời. Có thể nói quản lý là một trong những loại hình lao
động có hiệu quả nhất, quan trọng nhất.
Khái niệm quản lý (management) là khái niệm rất chung, tổng quát. Trong
quá trình nghiên cứu của lý luận khoa học quản lý, tùy theo góc độ tiếp cận mà
khái niệm này đƣợc quan niệm theo nhiều cách khác nhau.
Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich đƣa ra khái niệm: “Quản
lý là một hoạt động thiết yếu, nhằm bảo đảm sự phối hợp những nỗ lực cá nhân

nhằm đạt đƣợc các mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là nhằm hình
12


thành một môi trƣờng mà trong đó con ngƣời có thể đạt đƣợc các mục đích của
nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất, và sự bất mãn cá nhân ít nhất...” [23; Tr.33]
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất hoạt động quản lý gồm hai quá
trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở
trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ đƣa hệ
vào thế “phát triển”…Trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải có “quản” để
động thái của hệ ở thế cân bằng động: hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu
quả trong mối tƣơng tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên
ngoài (ngoại lực)”. [2; Tr.14]
Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí nhấn mạnh: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hƣớng, có chủ đích của chủ thể quản lý (ngƣời
quản lý) đến khách thể quản lý (ngƣời bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho
tổ chức vận hành và đạt đƣợc mục đích của tổ chức”. [10; Tr.1]
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là quá trình dựa vào các quy luật
khách quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm chuyển hệ thống
đó sang một trạng thái mới” [28; Tr.363].
Tác giả Trần Kiểm quan niệm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản
lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực)
một cách tối ƣu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”. [24; Tr.8]
Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách diễn đạt, nhƣng chúng đều có
chung những dấu hiệu chủ yếu sau: Hoạt động quản lý đƣợc tiến hành trong một tổ
chức hay một nhóm xã hội; Hoạt động quản lý là những tác động có tính hƣớng
đích; Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân, là sự
lựa chọn các khả năng tối ƣu nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức đã đề ra.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm quản lý nhƣ sau:

Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời
cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.
1.2.1.2. Chức năng quản lý.
13


Quản lý một thuộc tính gắn liền với xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội.
Để đảm bảo thực hiện đƣợc hai chức năng này, hoạt động quản lý bao gồm bốn
chức năng cụ thể: Lập kế hoạch; tổ chức; lãnh đạo chỉ đạo; kiểm tra đánh giá.
- Chức năng kế hoạch: Là một chức năng, một khâu quan trọng nhất trong
hoạt động quản lý, lập kế hoạch là hoạt động nhằm thiết lập các mục tiêu cần thiết
cho sự phấn đấu của một tổ chức, chỉ ra các hoạt động, những biện pháp cơ bản và
các điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu đó. Kế hoạch là nền tảng của quản lý,
là sự quyết định lựa chọn đƣờng lối hành động của một tổ chức và các bộ phận của
nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
- Chức năng tổ chức: Tổ chức là quá trình sắp xếp, phân bổ công việc quyền
hành và các nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể đạt đƣợc các
mục tiêu của tổ chức một cách hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau đòi
hỏi cấu trúc tổ chức đơn vị cũng khác nhau. Nhờ tổ chức hiệu quả mà ngƣời quản
lý có thể phối hợp điều phối tốt hơn nguồn nhân lực và các nguồn lực khác. Một tổ
chức đƣợc thiết kế phù hợp sẽ phát huy đƣợc năng lực nội sinh và có ý nghĩa quyết
định đến việc chuyển hoá kế hoạch thành hiện thực.
- Chức năng lãnh đạo chỉ đạo: Là quá trình nhà quản lý dùng ảnh hƣởng của
mình tác động đến con ngƣời trong tổ chức làm cho họ nhiệt tình, tự giác, nỗ lực
phấn đấu để đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức. Vai trò của ngƣời chỉ đạo là phải
chuyển đƣợc ý tƣởng của mình vào nhận thức của ngƣời khác, hƣớng mọi ngƣời
trong tổ chức về mục tiêu chung của đơn vị.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá: Kiểm tra là một chức năng quan trọng của
quản lý, quản lý mà không kiểm tra thì coi nhƣ không có quản lý. Nhờ có hoạt

động kiểm tra mà ngƣời quản lý đánh giá đƣợc kết quả công việc, uốn nắn, điều
chỉnh kịp thời những hạn chế từ đó có biện pháp phù hợp điều chỉnh kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo.
1.2.1.3. Biện pháp quản lý
a) Biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt: “ Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề
cụ thể...”.
b) Biện pháp quản lý
14


Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể trong
công tác quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý.
Biện pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối tƣợng
quản lý nhằm thực hiện những nhiệm vụ nhất định, để đạt mục đích đã đề ra. Biện
pháp quản lý một mặt xuất phát từ các quy luật kinh tế, quy luật tâm lý xã hội, quy
luật tổ chức... và các nguyên tắc quản lý chung, mặt khác, còn thể hiện rõ tính năng
động của chủ thể quản lý trong việc lựa chọn và phối hợp đúng đắn các biện pháp
quản lý. Thông thƣờng ngƣời ta căn cứ vào các nội dung quản lý để đề ra biện
pháp quản lý phù hợp. Các biện pháp quản lý thƣờng sử dụng là:
- Biện pháp hành chính- tổ chức: Là biện pháp tác động đến đối tƣợng quản
lý trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính trong hệ thống quản lý do
nhà nƣớc đặt ra. Đó là các mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, giữa bộ phận và
tập thể... Bất kỳ một bộ máy quản lý nào cũng đƣợc quy định tính chất các mối
quan hệ đó.
Đặc trƣng của biện pháp này là sự cƣỡng bức đơn phƣơng của chủ thể quản
lý đến đối tƣợng quản lý. Trong thực tế quản lý, muốn đạt hiệu quả cao, chủ thể
quản lý phải vận dụng tổng hợp các biện pháp trên vì mỗi biện pháp quản lý đều có
những mặt mạnh, mặt yếu riêng. Nhà quản lý phải biết sử dụng một cách hài hoà
giữa các biện pháp để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của từng biện pháp, tạo

nên sức mạnh tổng hợp, mang lại hiệu quả thiết thực trong từng tình huống quản lý
cụ thể.
- Biện pháp kinh tế: Là biện pháp tác động đến đối tƣợng quản lý thông qua
các lợi ích kinh tế. Mà cơ sở của nó là các quy luật kinh tế.
Đặc trƣng của biện pháp này là kích thích đối tƣợng quản lý phấn khởi, chủ
động, sáng tạo hành động, thực hiện nhiệm vụ để đạt những lợi ích kinh tế nhất
định. Đây là biện pháp hiện đại, tiên tiến, đạt hiệu quả cao trong quản lý vì nó phát
huy cao độ tính chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo của đối tƣợng quản lý,
hƣớng đến năng suất lao động tối đa. Biện pháp này không phụ thuộc nhiều vào
các quan hệ tổ chức và hành chính, vì vậy cả chủ thể quản lý và đối tƣợng quản lý
đều cảm thấy chủ động, thoải mái hơn, giảm bớt hoạt động có tính chất sự vụ của
nhà quản lý.
15


Thực hiện biện pháp kinh tế đòi hỏi nhà quản lý phải có kiến thức và kinh
nghiệm sâu rộng để có thể định hƣớng hành động cho đối tƣợng quản lý bằng các
nhiệm vụ, kế hoạch, hợp đồng... với những chỉ tiêu số lƣợng, chất lƣợng rõ ràng,
với những định mức cụ thể, chế độ thƣởng phạt nghiêm minh, đảm bảo kỷ cƣơng,
theo pháp luật trong mọi trƣờng hợp.
- Biện pháp tâm lý - giáo dục: Là biện pháp tác động vào nhận thức con
ngƣời, làm cho con ngƣời nhận thức đúng nhiệm vụ, tự nguyện thực hiện yêu cầu
của nhà quản lý, từ đó có thái độ và hành vi phù hợp.
Đặc điểm của biện pháp này là dựa vào các quy luật tâm lý- xã hội để bồi
dƣỡng tình cảm, xây dựng lòng tin, ý chí nghị lực, tinh thần trách nhiệm trƣớc tập
thể, trƣớc uy tín của tổ chức. Nên dùng ngƣời có uy tín để thuyết phục đối tƣợng,
quá trình thuyết phục phải tôn trọng danh dự và nhân cách ngƣời nghe. Điều rất
quan trọng là phải lấy sự thay đổi hành vi cụ thể làm thƣớc đo sự thay đổi nhận
thức và phải kiên trì thuyết phục trƣớc khi áp dụng biện pháp khác. Ngày nay, vai
trò của biện pháp giáo dục, thuyết phục càng đƣợc coi trọng.

Tóm lại, biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ
thể của công tác quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý. Hay nói cách khác, biện
pháp quản lý là những phƣơng pháp quản lý cụ thể trong những sự việc cụ thể, đối
tƣợng cụ thể và tình huống cụ thể.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Khoa học quản lý là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn: Tâm lý
học, Xã hội học, Triết học…
Khoa học quản lý giáo dục là một chuyên ngành của khoa học quản lý nói
chung đồng thời cũng là bộ phận của khoa học giáo dục, nhƣng là một khoa học
tƣơng đối độc lập.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, khái niệm quản lý giáo dục là khái niệm
đa cấp (bao hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của nó, đặc
biệt là quản lý trƣờng học).
“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đƣờng lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện đƣợc các tính chất của nhà trƣờng xã hội
16


chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ,
đƣa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [35; Tr.11].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt
động dạy học. Có tổ chức đƣợc các hoạt động dạy học, thực hiện đƣợc các
tính chất của nhà trƣờng phổ thông Việt Nam XHCN, mới quản lý đƣợc giáo
dục, tức là cụ thể hoá đƣờng lối giáo dục của Đảng và biến đƣờng lối đó
thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nƣớc” [17; Tr.79].
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhằm đƣa hoạt động sƣ phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong
muốn bằng cách hiệu quả nhất. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động
điều hành, phối hợp các lực lƣợng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ

trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm quản lý giáo dục chứa đựng những
nhân tố đặc trƣng bản chất sau:
- Phải có chủ thể quản lý giáo dục, ở tầm vĩ mô là quản lý của nhà nƣớc mà
cơ quan trực tiếp quản lý là Bộ, Sở, phòng giáo dục, ở tầm vi mô là quản lý của
hiệu trƣởng nhà trƣờng.
- Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội dung, chƣơng trình kế
hoạch thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhằm thực hiện mục đích giáo
dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội phải có một lực lƣợng đông đảo
những ngƣời làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật chất tƣơng
ứng.
- Quản lý giáo dục có tính xã hội cao. Bởi vậy, cần tập trung giải quyết tốt
các vấn đề xã hội: Kinh tế, Chính trị, Văn hoá, An ninh quốc phòng phục vụ công
tác giáo dục.
- Nhà trƣờng là đối tƣợng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục, trong
đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tƣợng quản lý quan trọng nhất.
1.2.3. Quản lý nhà trường
1.2.3.1. Trường học
Trƣờng học là một tổ chức giáo dục ở cơ sở nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Trong nhà trƣờng hoạt động trung tâm là hoạt động dạy và học, tất cả
17


các hoạt động đa dạng khác đều hƣớng tới làm tăng hiệu quả của quá trình dạy và
học. Vì vậy quản lý trƣờng học nói chung và quản lý trƣờng THCS nói riêng theo
tác giả Phạm Thị Tuyết Oanh có bản chất là: “Quản lý hoạt động dạy – học, tức là
làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến
đến mục tiêu giáo dục” [32; Tr.35]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội trong đó
diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố

Thầy - Trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ
thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở.” [1; Tr.63]
Trƣờng học là hạt nhân của hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời cũng là
phần tử của xã hội, thực hiện thể chế chuyên biệt của xã hội, của Nhà nƣớc, có
chức năng đào tạo thế hệ trẻ, có mục tiêu rõ ràng, có tổ chức rất chặt chẽ, đƣợc
Nhà nƣớc cung cấp các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các chức năng của
mình. Trƣờng học có mối quan hệ mật thiết với môi trƣờng kinh tế - chính trị - văn
hóa, xã hội. Với tƣ cách là một phần tử trong hệ thống giáo dục quốc dân nên
trƣờng học có nhiệm vụ và quyền hạn theo chế định của Luật giáo dục.
1.2.3.2. Quản lý nhà trường
Vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục là quản lý nhà trƣờng vì nhà trƣờng là
cơ sở giáo dục, nơi tổ chức thực hiện mục tiêu giáo dục. Khi nghiên cứu về nội
dung khái niệm quản lý giáo dục thì khái niệm trƣờng học đƣợc hiểu là tổ chức cơ
sở mang tính Nhà nƣớc - Xã hội trực tiếp làm công tác giáo dục- đào tạo thế hệ trẻ
cho tƣơng lai của đất nƣớc.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trƣờng là tập hợp những
tác động tối ƣu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác,
nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nƣớc đầu tƣ, lực lƣợng xã hội đóng góp và
do lao động xây dựng vốn tự có. Hƣớng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trƣờng mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lƣợng mục
tiêu và kế hoạch đào tạo, đƣa nhà trƣờng tiến lên trạng thái mới".[35; Tr.43]
Theo tác giả Phạm Viết Vƣợng: “Quản lý trƣờng học là lao động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, học sinh và các lực
18


lƣợng giáo dục khác, cũng nhƣ huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng
cao chất lƣợng giáo dục và đào tạo trong nhà trƣờng” " [31; Tr.23].
Tóm lại: “Quản lý nhà trƣờng là thực hiện đƣờng lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đƣa nhà trƣờng vận hành theo nguyên

lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục
với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [17; Tr.561].
Bản chất của hoạt động quản lý trong nhà trƣờng là quản lý hoạt động dạy
học, tức là làm sao đƣa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trƣờng là một hoạt động đƣợc thực hiện trên cơ sở những quy luật
chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng của nó. Quản lý nhà
trƣờng khác với các loại quản lý xã hội khác, đƣợc quy định bởi bản chất hoạt động
sƣ phạm của ngƣời giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong đó mọi
thành viên của nhà trƣờng vừa là đối tƣợng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản
thân mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trƣờng là nhân cách của ngƣời học đƣợc hình
thành trong quá trình học tập, tu dƣỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội và đƣợc
xã hội thừa nhận.
Quản lý nhà trƣờng là phải quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và phát triển nhân
cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả. Thành công hay thất bại của
nhiệm vụ đổi mới nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trƣờng phụ thuộc rất lớn vào
điều kiện cụ thể của nhà trƣờng. Vì vậy muốn thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục
ngƣời quản lý phải xem xét đến những điều kiện đặc thù của nhà trƣờng, phải trú trọng
tới việc cải tiến công tác quản lý giáo dục để quản lý có hiệu quả các hoạt động trong
nhà trƣờng.
1.2.4. Hoạt động dạy học
1.2.4.1. Dạy học
Nhiều tác giả cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích nhằm chuyển
các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt đƣợc
hoặc cộng đồng đã đạt đƣợc vào bên trong một con ngƣời” [11], [22],.... Quan
niệm này lý giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng đào tạo những con
ngƣời thích ứng với những nhu cầu hiện tại của xã hội. Tuy nhiên quan niệm này
19



làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của xã hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm
vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã đƣợc vật chất hóa bằng cách nào đó để
trở lại thành giá trị tinh thần bên trong ngƣời học. Quan niệm đó hạn chế nền giáo
dục hƣớng đến một phƣơng pháp giáo dục giúp cho ngƣời học trở thành những con
ngƣời sáng tạo, vƣợt qua đƣợc những giá trị tinh thần hiện có của xã hội. Thời đại
của chúng ta, và hơn nữa xã hội chúng ta đang hƣớng đến một xã hội tri thức. Một
xã hội mà tri thức của con ngƣời đang đƣợc số hóa với một tốc độ cực lớn, làm cho
tri thức dễ dàng và nhanh chóng trở thành tài sản chung. Tuy nhiên, xã hội tri thức
không chỉ có nhiệm vụ tích hợp các kiến thức của con ngƣời đã đạt đƣợc trong
những phƣơng tiện lƣu trữ dung lƣợng cực lớn, trong các cơ sở dữ liệu khổng lồ
mà còn có nhiệm vụ từ đó nhân lên khối lƣợng kiến thức này thành các kiến thức
mới có chất lƣợng cao hơn nữa.
Triết học Mác nói rằng “Lƣợng đổi thì chất đổi. Lƣợng thay đổi một cách
tiệm tiến còn chất thì thay đổi một cách nhảy vọt”. Phạm trù về mối tƣơng quan
giữa lƣợng và chất này hoàn toàn đúng trong các hoạt động giáo dục. Ngƣời ta đã
tính ra rằng khối lƣợng kiến thức hiện nay của nhân loại trong vòng 20 năm trở lại
đây đã tăng bằng tổng khối lƣợng kiến thức mà nhân loại đạt đƣợc trong toàn bộ
lịch sử trƣớc đó của nó. Sự tăng về khối lƣợng kiến thức đó nhất thiết phải kéo
theo sự thay đổi về chất tri thức của con ngƣời. Sự thay đổi về chất đó là gì? Con
ngƣời của thời đại hiện tại không chỉ có nhiệm vụ học tập và nhớ các kiến thức sẵn
có mà còn đòi hỏi con ngƣời phải có khả năng từ khối lƣợng tri thức đó sản sinh ra
các giá trị vật chất và tinh thần mới ...và nắm bắt tri thức mới. Thời đại của máy
tính và mạng Internet đã làm cho mọi biên giới văn hóa, kinh tế dần bị xóa nhòa.
Nếu trƣớc đây việc tìm kiếm sở hữu tri thức là quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu
tranh sinh tồn, việc tích lũy kiến thức (nhớ) là ƣu tiên một thì giờ đây khi mà các
phƣơng tiện lƣu trữ đã quá đầy đủ, quá sẵn sàng cho việc truy cập và xử lý thì ƣu
tiên một lại là khả năng nhanh chóng tiếp cận tri thức mới, khả năng vận dụng tri
thức mới và khả năng ... "đẻ" ra tri thức mới. Một ví dụ rất rõ ràng là trong vòng
vài tháng thì công nghệ phần cứng của máy tính lại có một công nghệ mới, trong
vòng vài năm thì Microsoft (chƣa kể đến các hãng phần mềm khác) lại xuất ra một

20


phiên bản mới với nhiều tính năng mới, vv... con ngƣời phải có khả năng thích ứng
liên tục và nhanh chóng - chẳng những về tri thức mà còn về kỹ năng - với một tốc
độ cực cao. Nếu cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỉ trƣớc đã nối dài "cách tay"
con ngƣời thì nay cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã bố trí thêm cho mỗi con
ngƣời vô số "bộ óc" bên ngoài cơ thể. "Cách tay" của con ngƣời trong thế kỉ trƣớc
cần đƣợc đào tạo để chế tạo và điều khiển những "cách tay" máy thì trong thời đại
hôm nay "bộ óc" con ngƣời cần đƣợc đào tạo để chế tạo và điều khiển những "bộ
óc" máy. Nhƣng con ngƣời là con ngƣời! Những kiểu tâm trạng và kiểu cảm xúc
của nó nói chung là bất biến đối với thay đổi kỹ thuật. Những vấn đề cốt lõi của
con ngƣời về hạnh phúc, về sự sống, về cái chết, về chiến tranh và hòa bình, về khả
năng sống hòa hợp trong không gian các giá trị văn hóa của cộng đồng .v.v. hầu
nhƣ không hề tay đổi! Và nó cũng phải đƣợc đào tạo để thích ứng với điều đó!
Vậy có lẽ hợp lý hơn nếu cho rằng:
“Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định
hƣớng giúp ngƣời học từng bƣớc có năng lực tƣ duy và năng lực hành động với
mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn
hóa mà nhân loại đã đạt đƣợc để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết đƣợc các bài
toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi ngƣời học”
1.2.4.2. Hoạt động dạy học
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo "Dạy học là một chức năng xã hội, nhằm truyền
đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ đƣợc, nhằm biến kiến thức,
kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân" [2; Tr.78].
Hoạt động dạy học giúp ngƣời học lĩnh hội tri thức, hình thành và phát triển
nhân cách của ngƣời học. Vai trò chủ đạo của hoạt động đƣợc biểu hiện với ý
nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học của ngƣời học, giúp ngƣời học nắm
đƣợc kiến thức, hình thành kĩ năng, thái độ.
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động khác

trong nhà trƣờng, là con đƣờng trực tiếp và thuận lợi nhất để giúp học sinh lĩnh hội
tri thức của loài ngƣời.
21


Hoạt động dạy học làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có
hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, lao động và đời
sống. Hoạt động này làm phát triển tƣ duy độc lập sáng tạo, hình thành những năng
lực cơ bản về nhận thức và hành động của học sinh, hình thành ở học sinh thế giới
quan khoa học, lòng yêu Tổ quốc, yêu XHCN, đó chính là động cơ học tập trong nhà
trƣờng và định hƣớng hoạt động của học sinh.
Vì vậy, có thể nói hoạt động dạy học trong nhà trƣờng đã tô đậm chức năng
xã hội của nhà trƣờng, đặc trƣng nhiệm vụ của nhà trƣờng là hoạt động giáo dục
làm trung tâm, là cơ sở khoa học của các hoạt động giáo dục khác trong nhà
trƣờng.
1.2.4.3. Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học chính là điều khiển quá trình dạy học, cho quá
trình đó vận hành có khoa học, có tổ chức theo những quy luật khách quan và đƣợc
sự chỉ đạo, giám sát thƣờng xuyên nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.
Để quản lý hoạt động dạy học hiệu quả, nhà quản lý phải dựa trên cơ sở
pháp lý và cơ sở thực tiễn để điều hành hoạt động.
Cơ sở pháp lý hiện nay đó là Luật giáo dục, Điều lệ trƣờng Trung học, Chỉ
thị của Bộ trƣởng Bộ GD – ĐT về thực hiện nhiệm vụ năm học ban hành từng
năm, các chƣơng trình, kế hoạch dạy học, …
Cơ sở thực tiễn là tình hình phát triển giáo dục của thế giới, của đất nƣớc,
của địa phƣơng có ảnh hƣởng trực tiếp đến tình hình phát triển của quá trình dạy
học trong nhà trƣờng; thực tiễn phát triển về qui mô, chất lƣợng, cơ sở vật chất của
nhà trƣờng cũng nhƣ tình hình đội ngũ cán bộ- giáo viên- nhân viên hiện có,…
Trên cơ sở pháp lý và thực tiễn đó, nhà quản lý cần thực hiện đƣợc những
nội dung sau đây trong quản lý hoạt động dạy học :

- Một là phải xây dựng kế hoạch năm học
- Hai là phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động trong nhà trƣờng
- Ba là việc chỉ đạo thực hiện mục tiêu, chƣơng trình dạy học
- Bốn là chỉ đạo xây dựng nền nếp dạy học
- Năm là chỉ đạo các hoạt động bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm cho giáo viên
22


- Sáu là sự kết hợp giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức
Đoàn thể, Hội cha mẹ học sinh góp phần phối hợp hƣớng dẫn hoạt động học tập
của học sinh
- Bảy là chỉ đạo việc đổi mới phƣơng pháp dạy học
- Tám là chỉ đạo hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học và kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ năm học.
1.3. Hoạt động dạy học môn Toán ở trƣờng THCS
1.3.1. Vị trí, vai trò môn Toán trong nhà trường phổ thông nói chung và trường
THCS nói riêng
Môn Toán là một môn khoa học tự nhiên, là một môn học chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng và không thể thiếu trong chƣơng trình giáo dục phổ thông. Điều này
xuất phát từ đặc trƣng của môn Toán đó là tính trừu tƣợng cao và tính thực tiễn
phổ thông đồng thời có tính logic chặt chẽ và tính thực nghiệm.
Môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong nhà trƣờng phổ
thông nói riêng và trƣờng THCS nói riêng bởi những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, môn Toán có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung
giáo dục phổ thông, góp phần phát triển nhân cách ngƣời học. Cùng với việc giúp
cho học sinh hình thành những tri thức và kĩ năng rèn luyện tƣ duy khoa học cơ
bản thì môn Toán có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ chung nhƣ phân
tích, tổng hợp, trừu tƣợng hóa, khái quát hóa..., rèn luyện phẩm chất, những đức
tính của ngƣời lao động nhƣ óc thẩm mỹ và tính phê phán, tính chính xác, tính
sáng tạo, tính kỉ luật... Đây là những đức tính, phẩm chất rất cần thiết của ngƣời

lao động trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, môn Toán cung cấp vốn văn hóa Toán học phổ thông cho học sinh
một cách có hệ thống và tƣơng đối hoàn chỉnh bao gồm kiến thức, kĩ năng và tƣ
duy.
Thứ ba, môn Toán còn là “công cụ” giúp cho việc dạy và học các môn học
khác. Do tính trừu tƣợng cao và tính thực tiễn phổ dụng nên những kiến thức và kĩ
năng Toán học cùng với những phƣơng pháp làm việc trong Toán học đã trở thành
công cụ để học tập các môn học khác trong nhà trƣờng, là công cụ của nhiều ngành
23


khoa học khác nhất là các ngành khoa học tự nhiên, là công cụ vận dụng vào hoạt
động thực tiễn trong cuộc sống hiệu quả hơn.
1.3.2. Mục tiêu của môn Toán trong nhà trường phổ thông và mục tiêu cụ thể
đối với cấp THCS
Luật Giáo dục nƣớc ta quy định về mục tiêu giáo dục phổ thông nhƣ sau:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con ngƣời Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
(Luật Giáo dục 2009, chƣơng II, điều 27, mục 1) [37; Tr20].
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục phổ thông và từ đặc điểm, vai trò, vị trí và ý
nghĩa của môn Toán, sau khi tốt nghiệp nhà trƣờng phổ thông, học sinh phải đạt
đƣợc các mục tiêu sau đây:
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức, kĩ năng, phƣơng pháp Toán học phổ
thông cơ bản, thiết thực
- Góp phần quan trọng vào việc phất triển năng lực trí tuệ, hình thành khả năng
suy luận đặc trƣng của Toán học cần thiết cho cuộc sống
- Góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất, phong cách lao động khoa

học, biết hợp tác lao động, có ý chí và thói quen tự học thƣờng xuyên.
Tất cả các mục tiêu trên tạo cơ sở để học sinh tiếp tục học lên các trƣờng cao
đẳng, đại học, THCN, các trƣờng nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động với những
yêu cầu cụ thể cần đạt đƣợc về các mặt tri thức và kĩ năng, tƣ duy và thái độ.
Luật Giáo dục nƣớc ta cũng quy định mục tiêu, giáo dục cụ thể cho cấp học
THCS nhƣ sau:
“Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hƣớng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.” (Luật Giáo dục 2009,
chƣơng II, điều 27, mục 3), [37; Tr20].
24


Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục, yêu cầu cụ thể đối với cấp học THCS, từ
đặc điểm, vai trò, vị trí và ý nghĩa của môn Toán trong nhà trƣờng phổ thông thì
môn Toán ở trƣờng THCS phải thực hiện đƣợc các mục tiêu cụ thể sau đây:
Một là cung cấp cho học sinh những kiến thức, phƣơng pháp Toán học phổ
thông cơ bản, thiết thực, cụ thể là:
- Những kiến thức mở đầu về số (số tự nhiên đến số thực), về các biểu thức đại
số, về phƣơng trình bậc nhất, bậc hai, về hệ phƣơng trình, bất phƣơng trình, tƣơng
quan hàm số và vẽ đƣợc một vài đồ thị hàm số bậc nhất, bậc hai dạng đơn giản
- Một số hiểu biết ban đầu về thống kê mô tả
- Những kiến thức mở đầu về hình học phẳng, quan hệ bằng nhau và đồng
dạng của các tam giác. Một số yếu tố về lƣợng giác và một số vật thể trong không
gian
- Những hiểu biết ban đầu về một số phƣơng pháp Toán học: Dự đoán và
chứng minh, quy nạp và suy diễn, phân tích và tổng hợp,...
Hai là hình thành và rèn luyện các kĩ năng: Tính toán và sử dụng bảng số, máy
tính bỏ túi; thực hiện các phép biến đổi các biểu thức đại số; giải đƣợc phƣơng

trình, bất phƣơng trình bậc nhất một ẩn, phƣơng trình bậc hai một ẩn, hệ phƣơng
trình bậc nhất hai ẩn; vẽ hình, đo đạc, ƣớc lƣợng. Bƣớc đầu hình thành khả năng
vận dụng kiến thức Toán học vào đời sống và các môn học khác.
Ba là rèn luyện khả năng suy luận hợp lý và logic, khả năng quan sát, dự đoán,
phát triển trí tƣởng tƣợng không gian. Rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ chính
xác, bồi dƣỡng các phẩm chất của tƣ duy linh hoạt, độc lập và sáng tạo. Bƣớc đầu
hình thành thói quen tự học, diễn đạt chính xác và rõ ràng suy nghĩ của mình và
hiểu đƣợc ý tƣởng của ngƣời khác. Góp phần hình thành các phẩm chất lao động
khoa học cần thiết của ngƣời lao động mới (Chƣơng trình THCS).
1.3.3. Cấu trúc nội dung, phân phối chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng của
môn Toán cấp THCS
1.3.3.1. Nội dung giáo dục Toán học

25


×