LỜI MỞ ĐẦU
Bất kể một sản phẩm nào được sản xuất ra thì mục tiêu cuối cùng luôn là để
tiêu dùng - đây là điều chắc chắn không một ai có thể phủ nhận. Do đó, chuỗi
liên hoàn và khép kín của nền kinh tế luôn luôn là sản xuất - tiêu dùng. Sản xuất
ra sản phẩm để phục vụ nhu cầu tiêu dùng - tiêu dùng quay lại kích thích tăng
trưởng sản xuất, cứ thế sản xuất - tiêu dùng hỗ trợ, kích thích nhau và luôn là hai
phần không thể tách rời của một quá trình thống nhất. BDo đó, với một nền kinh
tế đang trong giai đoạn phát triển thì nhu cầu về vốn sẽ ngày càng cao, không chỉ
cần vốn cho sản xuất kinh doanh mà vốn phục vụ mục đích tiêu dùng cũng là
một nhu cầu không thể thiếu.
Vậy mà lâu nay, các Ngân hàng thương mại của chúng ta chủ yếu chỉ thích
cho vay phần đầu - phần sản xuất mà chưa cho vay phần sau - phần tiêu dùng
của chu trình kinh tế, vì thế mà chúng đã tạo ra hiện tượng nghẽn giữa đường.
Thật vậy, khi Ngân hàng cho các nhà sản xuất vay vốn để sản xuất ra các
sản phẩm mà khả năng chi tiêu hiện thời của người tiêu dùng không thể đáp ứng
thì các sản phẩm đó sẽ bị chất đầy kho, khả năng trả nợ cho Ngân hàng của các
nhà sản xuất bị giảm xuống, mong muốn được tiêu dùng của dân cư sẽ không
được đáp ứng và tình trạng thiểu phát của nền kinh tế sẽ xảy ra.
Trước tình hình đó, để kích cầu nền kinh tế, đưa nền kinh tế thoát khỏi con
đường hầm không lối thoát, Ngân hàng đã phát triển một loại hình cho vay mới,
đó là cho vay tiêu dùng. Việc phát triển loại hình cho vay này không chỉ có tác
dụng góp phần giải quyết bài toán về sản xuất và tiêu dùng cho nền kinh tế mà
nó còn có tác dụng tích cực đối với chính bản thân Ngân hàng - một đơn vị kinh
doanh luôn vì mục tiêu lợi nhuận
Đồng thời, một hướng đi mới của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
hiện nay là chia mảng kinh doanh của Ngân hàng ra làm hai bộ phận: Bộ phận
kinh doanh Ngân hàng Bán buôn (với các chiến lược về khách hàng là công ty
lớn) - Bộ phận kinh doanh Ngân hàng Bán lẻ( với các chiến lược về khách hàng
là thể nhân). Việc chuyển hướng này nhằm mục tiêu cơ cấu lại nguồn vốn kinh
doanh của các Ngân hàng, tăng doanh số kinh doanh với các khách hàng là cá
nhân - xây dựng một Ngân hàng hiện đại. Chính vì thế nên việc phát triển cho
vay tiêu dùng nằm trong chiến lược phát triển tổng thể mảng kinh doanh Ngân
hàng bán lẻ đang là xu thế tất yếu của các Ngân hàng thương mại trong các giai
đoạn hiện nay. Đây là một hướng đi mới, một lĩnh vực kinh doanh đầy triển
vọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Với những kiến thức đã học tại trường kết hợp với thời gian được nghiên
cứu, học hỏi thực tế tại Ngân hàng No & PTNT Cẩm thuỷ đã khuyến khích em
viết đề tài “ Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng No
& PTNT huyện Cẩm Thuỷ”.
Nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý thuyết về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng No & PTNT Cẩm
thuỷ
Chương III: Một số giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng No &
PTNT Cẩm thuỷ
Mong rằng, một số lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động cho vay tiêu
dùng trong bài viết có thể phần nào giúp cho các Ngân hàng thương mại mở
rộng hơn nữa lĩnh vực cho vay tiêu dùng, đồng thời giúp cho người tiêu dùng có
thể hình dung một cách tổng quát về nghiệp vụ mới này của Ngân hàng thương
mại và có hướng sử dụng nó như một công cụ hỗ trợ cho cuộc sống của mình.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài, được sự hướng dẫn của thầy giáo
PGS.TS Lê Đức Lữ cùng với sự chỉ bảo tận tình của phòng tín dụng tại Ngân
hàng No & PTNT Cẩm thuỷ đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại
1.1.1Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại, ở các nước có
nền tài chính tự do hoá thì Ngân hàng thương mại được quan niệm là một doanh
nghiệp đặc biệt, tiến hành hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục
tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Còn ở một số nước khác lại cho rằng Ngân hàng
thương mại là một tổ chức hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
dựa trên nguyên tắc hoàn trả, cho vay, chiết khấu. Tuy nhiên để có một quan
niệm chính xác nhất về Ngân hàng thương mại thì nên dựa vào những loại hình
dịch vụ mà các Ngân hàng thương mại cung cấp, từ đó người ta có quan niệm:
“Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế ”.
Thật vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò là thủ quỹ của toàn xã hội. Hàng triệu cá
nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại
Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các
doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần với chính phủ. Trong đó, đối
với các doanh nghiệp, Ngân hàng thường cung cấp các khoản tín dụng phục vụ
cho nhu cầu mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết
bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua
hàng hoá và dịch vụ họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng và các tài
khoản điện tử... Và khi họ cần thông tin hay lập kế hoạch tài chính họ thường
đến Ngân hàng để nhận được lời tư vấn.
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế.
- Hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm: nghiệp vụ nợ (huy động
vốn), nghiệp vụ có (cung cấp tín dụng) và nghiệp vụ trung gian( dịch vụ thanh
toán, dại lý, tư vấn...). Ba loại nghiệp vụ trên có mối liên hệ mật thiết với nhau,
chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển để từ đó tạo nên uy tín cho Ngân hàng.
- Từ hình thức đầu tiên là Ngân hàng thợ vàng ở thế kỷ 15, đến nay Ngân
hàng thương mại đã trở thành Ngân hàng hiện đại với các chức năng và dịch vụ
đa dạng, và được coi là bách hoá tài chính.
- Ngân hàng thương mại được tổ chức dưới các hình thức:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần,
Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng thương mại liên
doanh, Ngân hàng thương mại tư nhân.
+ Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ, trong đó Ngân hàng bán buôn
là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài
chính, Nhà nước, các doanh nghiệp lớn. Còn Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ
yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho hộ gia đình, các cá nhân, các doanh
nghiệp nhỏ - với các khoản tín dụng nhỏ. Với xu thế phát triển hiện nay, rất ít
Ngân hàng chỉ có bán buôn hoặc chỉ có bán lẻ mà chủ yếu là kết hợp cả hai.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
- Hoạt động kinh doanh ngoại hối:
Đây là hoạt động đầu tiên mà Ngân hàng thực hiện với nội dung là Ngân
hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và thu được
lợi nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch vụ. Ngày nay hoạt động này đã mở
rộng ra với rất nhiều các hình thức dịch vụ phong phú: mua bán, trao đổi, gửi
vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền
chọn và tương lai. Các Ngân hàng thương mại tham gia giao dịch ngoại hối với
hai mục đích. Thứ nhất, Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là
mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và Ngân hàng thu một khoản
phí. Mục đích thứ hai là Ngân hàng kinh doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ
giá thay đổi.§ - Hoạt động huy động vốn:
Các Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền
kinh tế để duy trì hoạt động và phát triền cần vốn. Nguồn vốn của Ngân hàng
gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sử hữu và vốn uỷ thác đầu tư. Để
thực hiện hoạt động này Ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ
phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo một khoản tiền gọi
là tiền lãi. Việc huy động được càng nhiều vốn sẽ càng tạo điều kiện cho Ngân
hàng mở rộng kinh doanh do đó các Ngân hàng luôn tìm kiếm các nguồn vốn
với chi phí thấp và ổn định, đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy
nợ nhằm thu hút được nhiều vốn trong nền kinh tế.
- Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư
hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của
Ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh
hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài sản bằng cách đầu tư
vào các giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty ... Các hoạt
động đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng lại
chứa đựng nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thường rất thận trọng khi thực hiện
hoạt động này.
- Các hoạt động khác:
Các hoạt động Ngân hàng khác có thể kể ra ở đây như là hoạt động bảo
quản vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý
ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn,
cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý ... Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập
cho Ngân hàng thông qua viêc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy các Ngân
hàng hiện đại ngày nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng nguồn
thu giảm bớt rủi ro.C
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm:
Cho vay là hoạt động mang tính truyền thống và là chức năng kinh tế hàng
đầu của các Ngân hàng giúp Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành
đầu tư. Ngân hàng thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản suất, kinh doanh, đời sống và cũng có thể
cho các tổ chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư
phát triển sản suất kinh doanh
Nhiều người vẫn đồng nghĩa hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng của
Ngân hàng là một nhưng thực ra không phải vậy. Tín dụng rộng hơn cho vay, nó
bao gồm cho vay và các hoạt động khác như chiết khấu thương phiếu, cho thuê
tài chính... Có thể hiểu rằng: Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng
hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay
(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến
hạn thanh toán.
Đối với hầu hết các Ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 thu nhập của Ngân hàng. Đồng thời, rủi ro
trong các hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
cho vay. Vậy thực ra Ngân hàng đã thực hiện những khoản cho vay nào?
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để Ngân hàng phân loại cho vay như: theo
thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng cho vay, theo phương thức cho
vay, theo nguồn cho vay... Cụ thể như:
- Theo đối tượng tham gia vào quy trình cho vay:-
+ Cho vay trực tiếp: là loại hình cho vay mà Ngân hàng cấp vốn trực tiếp
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân
hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian. Tổ
chức trung gian ở đây có thể là các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản suất, hội
nông dân, hội phụ nữ.. hoặc các công ty bán lẻ. Đối với các công ty bán lẻ, Ngân
hàng sẽ mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ phát sinh và còn trong thời
hạn thanh toán.
- Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
+ Cho vay có bảo đảm: l à loại hình cấp tín dụng dựa trên các bảo đảm như
thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm
bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai,
bổ xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế
chấp. cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong
kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng
có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng mà không cần một
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Theo mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay nhằm mục đích sản suất kinh doanh: Ngân hàng cho các tổ chức,
doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự
án đầu tư, các phương án sản suất.
+ Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho các cá nhân hay hộ gia đình vay để
đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận
chuyển...
Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ Ngân hàng mới phát triển
gần đây nhưng đã tỏ rõ được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của
Ngân hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành xu hướng tất yếu
để các Ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương
mại
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm
Hoạt dộng cho vay tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng
(người cho vay) và các cá nhân, người tiêu dùng (người đi vay) nhằm tài trợ cho
các phương án phục vụ đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ khi
người tiêu dùng chưa có khả năng thanh toán trên nguyên tắc người tiêu dùng sẽ
hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Nếu như cho vay sản xuất kinh doanh là một hình thức tín dụng mà các
Ngân hàng thương mại cấp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm tài
trợ cho các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh... thì cho vay tiêu dùng
lại là một sản phẩm tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho những nhu cầu tiêu
dùng của cá nhân, hộ gia đình hoặc để mua cổ phiếu hay trái phiếu. Như vậy,
khác với các khoản cho vay sản xuất kinh doanh - các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế sử dụng vốn vay để tài trợ cho vốn lưu động, xây dựng nhà xưởng, mua
sắm trang thiết bị..., các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử
dụng hàng hoá dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hướng
tới một cuộc sống cao hơn như mua xe, các dụng cụ dân dụng, chi phí nghỉ ngơi,
du lịch...
Đối tượng của tín dụng tiêu dùng rất nhiều dạng, nhiều trường hợp nhưng
có thể khái quát thông qua các trường hợp phổ biến sau:
- Các đối tượng có thu nhập thấp: có nhu cầu tín dụng không cao, việc vay
vốn nhằm tạo ra cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
- Các đối tượng có thu nhập trung bình: nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng
mạnh, đối tượng này muốn vay tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích luỹ, dự
phòng của mình để tiêu pha.
- Các đối tượng có thu nhập cao: vay tiêu dùng nhằm tăng khả năng thanh
toán và coi nó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ của
mình chưa cao hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Trường hợp này
tương đối phổ biến và phát triển. Các đối tượng trên có thể đại diện cho các đối
tượng khác như cán bộ công nhân viên thuộc khu vực Nhà nước, liên doanh, tiểu
thương và các cán bộ Ngân hàng.-
1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Nhìn chung, tín dụng tiêu dùng có những đặc điểm sau:
- Giá trị món vay thường nhỏ lẻ, phân tán nhưng số lượng các món vay thì
lại rất lớn
Các khách hàng thường tìm đến Ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng
thông thường có nhu cầu vay vốn không lớn, thậm chí còn khá nhỏ. Điều này là
do giá của hàng hoá dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc khách hàng vay
vốn đã có được sự tích luỹ từ trước đối với các tài sản có trị lớn. Chính điều này
đã dẫn đến giá trị món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, phân tán nên chi phí quản
lý cao. Tuy vậy, trên thực tế tổng quy mô vay tiêu dùng của Ngân hàng lại rất
lớn, đó là vì tuy mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do đây là nhu cầu
vay vốn khá phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên
số lượng khách hàng tìm đến Ngân hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy
mô vay tiêu dùng lại trở nên khá lớn.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao
Loại hình cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá lớn,
cao hơn loại hình cho vay tài trợ sản xuất kinh doanh dưới cả ba góc độ:
+ Thứ nhất: Luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo.
+ Thứ hai: Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất
nghiệp, bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội...
+ Thứ ba: Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ
của khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng... ảnh hưởng đến tài chính và
khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của các tổ
chức trung gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các đơn vị
chủ quản...), đặc biệt là hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm
cũng mang lại rủi ro rất nhiều đối với loại hình cho vay này.
Tóm lại, khả năng trả nợ sẽ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay đổi
điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, đồng thời, khả năng bù đắp từ các nguồn khác
trong trường hợp có rủi ro hầu như không có.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao và cứng nhắc
Không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay
đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định ở
một mức nhất định, và đặc biệt phổ biến trong cho vay tiêu dùng trả góp. Việc
chia các khoản vay thành nhiều kỳ hạn trả nợ (đối với cho vay tiêu dùng trả góp)
hoặc quá trình vay và trả nợ được thực hiện nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng (đối với cho vay tiêu dùng tuần hoàn như thẻ tín dụng,
thấu chi) ngay từ khi bắt đầu thời kỳ tín dụng khiến lãi suất cho vay mang tính
cố định, hầu như không thay đổi trong suốt quy trình tín dụng. Ngoài ra, do độ
rủi ro cao của các khoản vay tiêu dùng nên lãi suất trong cho vay tiêu dùng
thường được ấn định khá cao để bao gồm cả phần bù rủi ro. Và các khoản cho
vay tiêu dùng càng nhiều rủi ro thì lãi suất càng cao.
- Cho vay tiêu dùng thường có tính nhạy cảm theo chu kỳ
Thật vậy, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng phụ thuộc chủ yếu vào nhu
cầu tiêu dùng của dân cư và cầu có khả năng thanh toán của họ, do đó nó có tính
nhạy cảm theo chu kỳ. Cho vay tiêu dùng sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát
triển - khi mà người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình
kinh tế xã hội đầy lạc quan. Và ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy
thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin tưởng vào
tương lai, nhất là khi họ thấy thu nhập của họ giảm xuống và xu hướng thất
nghiệp ngày càng tăng thì việc vay mượn Ngân hàng sẽ được hạn chế, đặc biệt là
việc vay mượn dành cho chi tiêu.
- Chi phí cho một khoản vay tiêu dùng là khá lớn
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong
danh mục tín dụng của Ngân hàng. Thực tế là quy mô mỗi món vay tiêu dùng
thường rất nhỏ, thời gian vay không kéo dài lâu, trong khi đó số lượng các món
vay tiêu dùng lại rất lớn. Hơn nữa, các thông tin về cá nhân thường không đầy
đủ và chính xác hoàn toàn. Điều này khiến cho Ngân hàng rất vất vả trong quá
trình cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng đến khâu giải ngân
thu nợ. Những điều kiện trên khiến cho việc thực hiện một khoản cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng là khá tốn kém, mất rất nhiều chi phí cho các khoản vay
này.
- Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là đáng kể
Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy thì các khoản tín dụng tiêu dùng có
được một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của Ngân hàng. Bên cạnh
đó, số lượng các khoản vay tiêu dùng khá nhiều khiến cho tổng quy mô cho vay
tiêu dùng rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng sẽ
khiến cho lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong tổng lợi
nhuận của Ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi về đối tượng khách
hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho
vay tiêu dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các Ngân
hàng thương mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ Ngân hàng cũng như quản
lý Ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc phát triển
loại hình tín dụng này trong tương lai. Tại các nước đang phát triển, loại hình
cho vay này cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại những lợi
nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
1.2.2. Đối tượng của cho vay tiêu dùng
Do cho vay tiêu dùng là một hướng cho vay cụ thể của Ngân hàng bán lẻ
nên cách phân loại khách hàng cá nhân cũng tương tự như cách phân loại khách
hàng cá nhân theo nhóm thu nhập của Ngân hàng bán lẻ. Cụ thể là khách hàng
cá nhân của cho vay tiêu dùng cũng được chia làm ba nhóm như sau:
- Nhóm I: Những cá nhân có thu nhập cao.
Những người này thường cần đến tín dụng với tư cách là những khoản phụ
trợ linh hoạt, trợ giúp thêm khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị
trói chặt vào những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục đích
tiêu dùng chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản mà họ đang sở hữu,
song họ lại thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với những món
tiền lớn. Và chính vì lý do này mà các Ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến
nhóm khách hàng đi vay này.
- Nhóm II: Những cá nhân có thu nhập trung bình.NNhu cầu về tín dụng của
nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh. Việc mong muốn chi tiêu
ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai hoặc việc không thể điều tiết
nhu cầu của mình mà chạy theo những chi tiêu có tính chất phô trương dẫn đến
quá khả năng thu nhập là những nguyên nhân có thể làm nảy sinh các nhu cầu về
tín dụng của nhóm khách hàng này.
- Nhóm III: Nhóm cá nhân có thu nhập thấp.NNhu cầu về tín dụng của
nhóm người này thường rất hạn chế do thu nhập của họ thường không đủ để thoả
mãn những nhu cầu chi tiêu đa dạng của họ. Tuy nhiên, những người này cũng
có các mong muốn chi tiêu không khác mấy so với những người có thu nhập cao
hơn. Vì vậy, nếu có những chính sách và biện pháp phù hợp cũng có thể hình
thành được các món tín dụng hợp lý đến nhóm khách hàng này.
Nói chung, nhu cầu về tiêu dùng của hai nhóm đầu là rất cao, thường chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng mức cầu tiêu dùng của cá nhân. Vì lẽ đó, nhu cầu cho vay
tiêu dùng chủ yếu đến từ những người có thu nhập trung bình và thu nhập cao,
nhưng không vì thế mà các nhà quản trị Ngân hàng, các nhà kinh doanh lại bỏ
ngỏ nhu cầu tín dụng tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp mà phải
có những chính sách và sản phẩm phù hợp để phục vụ mọi nhu cầu của mọi
nhóm đối tượng khách hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
1.2.3.1. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với khách hàng.
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay tiêu dùng cũng chính là
người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những
khoản cho vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị
cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài
chính hiện tại của họ chưa cho phép.
Trên thực tế, ta thấy rằng có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu,
có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia đình.
Những nhu cầu này không sớm thì muộn người tiêu dùng cũng phải thoả mãn.
Ví dụ như nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi
sinh hoạt, mua sắm các phương tiện như xe máy, ô tô, du lịch, học hành...
Tuy rằng những nhu cầu thiết yếu nhưng của cải thì được tích luỹ theo thời
gian, do vậy khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy, mà làm nảy sinh sự
thật là người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt khi lớn tuổi. Khi
lợi ích cảm thụ được từ sự hưởng thụ đều có xu hướng giảm xuống. Do đó,
người tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu
cầu là yếu tố thời gian và khả năng thanh toán của hiện tại và tương lai. Điều
này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số tiền sẽ có
trong tương lai. Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của
Ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách
quy đổi luồng tiền ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm
hiện tại.
Chính những nguyên nhân trên, việc Ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt
động cho vay tiêu dùng sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất.
Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp
và đều nhất những lợi ích do hình thức cho vay tiêu dùng mang lại.
1.2.3.2. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với Ngân hàng
- T ạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu
nhập, phân tán rủi ro.
Vai trò của các Ngân hàng thương mại đối với xã hội ngày càng được
khẳng định hơn qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống Ngân hàng
nói chung và của Ngân hàng thương mại nói riêng. Nhưng không vì thế mà các
Ngân hàng có thể thoát khỏi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ khác. Ngày càng có nhiều tổ chức muốn cung
cấp các dịch vụ mà Ngân hàng đã và đang cung cấp. Và ngay cả giữa các Ngân
hàng thương mại với nhau sự cạnh tranh giành giật thị trường và khách hàng
ngày càng khốc liệt hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại và phát triển các Ngân hàng
phải không ngừng đổi mới, tìm tòi và đưa ra những dịch vụ mới ngày càng có
nhiều tiện ích cho khách hàng, từ đó nâng cao thu nhập cho Ngân hàng. Thực tế
đã chứng minh, có những Ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đã thu về
những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng.
Ngoài ra, nếu xét riêng từng khoản tín dụng tiêu dùng thì ta thấy cho vay tiêu
dùng có rủi ro lớn. Nhưng vì mỗi khoản tín dụng tiêu dùng có giá trị tương đối
nhỏ, đặc biệt lại có nhiều sản phẩm tín dụng tiêu dùng nên xét trên toàn cục của
các khoản cho vay tiêu dùng thì rủi ro cũng không còn là một vấn đề lớn. Trên
thực tế, các khoản cho vay tiêu dùng thường có lợi nhuận cao do mức lãi suất
tính trên các khoản cho vay tiêu dùng cao. Vì vậy, các Ngân hàng thương mại
cũng có thể kỳ vọng tăng lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng.
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động
các loại tiền gửi cho Ngân hàng.
Thị trường cho vay tiêu dùng là một lĩnh vực mới được phát hiện, chỉ đến
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hoạt động cho vay tiêu dùng mới được phát
triển và lớn mạnh.
Hoạt động này giúp Ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng ,từ đó
giúp Ngân hàng có những thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt là
huy động vốn từ dân cư. Hơn nữa tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên các
Ngân hàng có thể thông qua các khoản cho vay tiêu dùng mà quảng cáo về
mình, từ đó thu hút các khách hàng đến với các dịch vụ khác của Ngân hàng.
Trong khi đó các khoản tín dụng tiêu dùng tuy là những khoản tín dụng nhỏ
nhưng nhu cầu về chúng lại rất lớn nên nếu khai thác được thị trường này thì các
Ngân hàng thương mại có thể sử dụng được một số lượng vốn lớn. Hơn nữa, dân
cư là khách hàng tiềm năng lớn của Ngân hàng, Ngân hàng muốn phát triển bền
vững thì nên dựa vào đối tượng khách hàng này.
Trong khi cấp các khoản tín dụng tiêu dùng thì các Ngân hàng cũng góp
phần đẩy mạnh tiêu dùng, từ đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và các ngân
hàng có thêm những khoản cho vay mới phục vụ cho các nhà sản xuất. Sản xuất
phát triển lại cung cấp ra thị trường những sản phẩm mới làm nảy nở nhu cầu
tiêu dùng. Quá trình này được lặp đi lặp lại không ngừng làm cho thị trường tiêu
dùng ngày càng phát triển.
1.2.3.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế
Cho vay tiêu dùng có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, nhu cầu là vô hạn song “nhu cầu có khả
năng thanh toán” mới đáng quan tâm. Cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng
được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn, nó
rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách
như nhu cầu chi tiêu cho gia đình và y tế. Chính vì vậy, cho vay tiêu dùng là đòn
bẩy hữu hiệu để tránh kích cầu tiêu dùng. Để thoả mãn được nhu cầu đó, các nhà
sản xuất sẽ gia tăng sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường, tạo
ra nhiều công ăn việc làm. Đồng thời, tạo ra sự cạnh tranh giữa các hãng sản
xuất, các nhà kinh doanh về sản phẩm, mẫu mã, chủng loại và các nhà sản xuất
sẽ tìm cách để có thể đáp ứng mọi thị hiếu người tiêu dùng. Một mặt thúc đẩy
sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, qua đó
tạo sự năng động cho nền kinh tế. Các nhà sản xuất muốn tồn tại thì cũng phải
không ngừng cải tiến, tự hoàn thiện mình, làm cho nền sản xuất ngày càng phát
triển và phồn thịnh.
1.2.4. Phân loại các khoản cho vay tiêu dùng
Việc phân loại tín dụng tiêu dùng được lựa chọn trên nhiều tiêu thức khác
nhau để có một cái nhìn toàn diện về cho vay tiêu dùng ở những góc độ khác
nhau.
1.2.4.1. Căn cứ vào mục đích vay:
Căn cứ vào mục đích vay thì cho vay tiêu dùng bao gồm:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú:
Đây là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm xây dựng hay
cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú:
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang
trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí du
lịch, chữa bệnh hay thanh toán tiền viện phí...
1.2.4.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
+ Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ( gồm cả số
tiền gốc lẫn lãi) cho Ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có giá
trị lớn hoặc thu nhập từng định kì của người đi vay không đủ khả năng thanh
toán hết một lần số nợ vay.§ Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các Ngân hàng
thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau:
- Thứ nhất: Loại tài sản được tài trợ.
Thông thường thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình
thành từ tiền vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương
lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, Ngân hàng thường chú ý đến điều này vì
Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời
hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Bởi vì có như vậy thì người tiêu dùng
mới được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoản thời gian dài.
- Thứ hai: Số tiền phải trả trước.
Nói chung thì các Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán
trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm - số tiền này được gọi là số tiền trả
trước. Phần còn lại, Ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để
một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt khác
lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Một khi không cảm nhận được
rằng mình là chủ sở hữu của tài sản được hình thành từ tiền vay thì người đi vay
sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả
nợ, trong nhiều trường hợp, Ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mại tài sản
để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều đã bị giảm giá trị, tức là
giá thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có
vai trò rất quan trọng trong việc giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước
thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả
trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền
trả trước ít.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
- Môi trường kinh tế
- Năng lực tài chính của những người đi vay
+ Thứ ba: Chi phí của khoản vay.
Chi phí của khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng
về việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có
liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi
phí hoạt động, rủi ro, đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho
Ngân hàng.
- Thứ tư: Điều khoản thanh toán.
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng, Ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
- Số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn phải phù hợp với khả năng về thu nhập
trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
- Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay chưa được
thu hồi.
- Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng
- Thời hạn cho vay không nên quá dài. Thời hạn cho vay bị giới hạn bởi
thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Và nếu thời hạn cho vay qua dài dễ làm
cho giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh đồng thời rủi ro tín dụng cũng tăng lên.
Hơn nữa, khi thời hạn cho vay quá dài thì thiện chí trả nợ của những người đi
vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
+ Thứ năm: Số tiền khách hàng thanh toán cho Ngân hàng mỗi kỳ trả nợ.
Để xác định số tiền khách hàng phải thanh toán cho Ngân hàng trong mỗi
kỳ trả nợ, ta có thể áp dụng một trong các phương pháp sau đây:
- Phương pháp gộp (Add on Method): Đây là phương pháp thường được
áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản và dễ hiểu của
nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân
với lãi xuất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn
phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn trả nợ.
- Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method): Theo phương pháp này,
vốn gốc người đi vay phải trả cho từng kỳ hạn trả nợ được tính đều nhau bằng
cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi kỳ
hạn được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu Ngân hàng.
+ Thứ sáu: Vấn đề phân bổ lãi vay theo thời gian
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các Ngân hàng thường tiến hành
phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện
theo định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện
theo quý hay theo năm tài chính.
Ngân hàng thường áp dụng một số phương pháp như:N
- Phương pháp đường thẳng, áp dụng cho các khoản vay ngắn.
- Phương pháp luỹ thoái, áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn.
+ Thứ bảy: Vấn đề trả nợ trước hạn
-Cho vay tiêu dùng phi trả góp.
Theo phương thức này thì tiền vay được khách hàng thanh toán cho Ngân
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì tín dụng tiêu dùng phi trả góp chỉ
được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
-Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Đây là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó Ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai. Theo phương thức này thì trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn
cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân
hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng.
1.2.4.3. Căn cứ vào nguồn gốc các khoản nợ
+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua
những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay
dịch vụ cho người tiêu dùng. Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua
bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng
khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu. Công
ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Theo
nguyên tắc người mua hàng phải trả trước một phần giá trị của hàng hoá.
(1) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(2) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho Ngân hàng.
(3) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(4) Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng.
* Ưu điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp:*
+ Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
+ Cho phép Ngân hàng giảm được chi phí trong cho vay.
+ Là nguồn gốc để mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
khác của Ngân hàng.
+ Trong trường hợp Ngân hàng có mối quan hệ tốt với các công ty bán lẻ
thì cho vay tiêu dùng sẽ có tính an toàn cao hơn, giúp Ngân hàng giảm bớt rủi
ro.
* Nhược điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp:*
+ Ngân hàng không được tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, điều này
dẫn đến Ngân hàng không thể kiểm soát được khách hàng mà công ty bán lẻ đã
bán chịu, không biết được chất lượng tín dụng của họ ra sao.
+ Ngân hàng không thẩm định được khách hàng trước khi cho vay, dễ dẫn
đến rủi ro cho Ngân hàng.
+ Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm trên nên rất nhiều Ngân hàng không mặn mà với cho
vay tiêu dùng gián tiếp, và chỉ có những Ngân hàng nào có cơ chế kiểm soát tín
dụng rất chặt chẽ mới tham gia vào hoạt động cho vay tiêu dùng này.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ: Theo phương thức này, khi bán cho Ngân hàng
các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh
toán cho Ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng
không thanh toán cho Ngân hàng.
- Tài trợ truy đòi hạn chế: Theo phương thức này, trách nhiệm của công ty
bán lẻ đối với các khoản nợ của người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ
giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã thoả
thuận giữa Ngân hàng với công ty bán lẻ.
- Tài trợ miễn truy đòi: Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ
cho Ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc liệu các
khoản nợ đó có được trả hay không. Phương thức này chứa đựng nhiều rủi ro
nên chi phí của khoản vay này được Ngân hàng tính cao hơn so với các phương
thức trên và các khoản nợ được mua cũng được Ngân hàng lựa chọn rất kỹ.
Ngoài ra, chỉ có những công ty bán lẻ rất có uy tín với Ngân hàng mới được áp
dụng phương thức tài trợ này.
- Tài trợ có mua lại: Theo phương thức này thì khi thực hiện cho vay tiêu
dùng gián tiếp với hình thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro
xảy ra, người tiêu dùng không trả được nợ thì Ngân hàng buộc phải thanh lý tài
sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì Ngân hàng
có thể bán lại cho chính công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm
với tài sản đã được người tiêu dùng sử dụng trong một thời gian nhất định.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó Ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ họ.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp gồm các bước:
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay