Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Khoá luận tốt nghiệp nghi lễ tang ma của người mường ở mường bi hòa bình xưa và nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.72 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
===£otũlOS===

NGUYÊN HOÀI THƯƠNG

NGHI LẺ TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở
MƯỜNG BI - HÒA BÌNH XƯA VÀ NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

••••

Chuyên ngành: Việt Nam học
Ngưòi hưóng dẫn khoa học TS. NGUYỄN
THỊ TÍNH

HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Đế hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “Nghi lễ tang ma của người Mường ở Mường
Bi - Hòa Bình xưa và nay ” tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn,
giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội 2


Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tính là người đã hướng
dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài này.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Sở Văn hóa Thể thao và Du Lịch tỉnh Hòa Bình
và ủy ban nhân dân huyện Tân Lạc và bà con dân tộc Mường tại Mường Bi, Tân Lạc đã giúp đỡ
nhiệt tình và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình tìm hiếu và hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài khóa luận một cách hoàn chỉnh nhất,
nhưng trong đề tài vẫn có những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong


được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận tốt nghiệp của tôi được hoàn
chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015 Sinh viên

Nguyễn Hoài Thương
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong khóa luận này là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Tính.
Ket quả thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của
những tác giả khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình trong khóa luận này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015 Sinh viên

Nguyễn Hoài Thương
MỤC LỤC

2.1.1.
2.2. Các nghi lễ trong tang ma truyền thống củangười Mường ở Mường Bi- Hòa



MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Mường là một trong những dân tộc có dân số đông tại miền Bắc Việt
Nam. Với dân số trên 1.268.963 người (Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009), dân tộc Mường tập trung chủ yếu ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ,
Sơn La, Yên Bái... Trong đó, tỉnh Hòa bình là nơi người Mường cư trú với số
lượng đông đảo nhất cả nước. Nhắc đến người Mường ở tỉnh Hòa Bình, người ta
nhớ ngay đến 4 xứ Mường nổi tiếng: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”.

Trong đó, Mường Bi tương ứng với địa giới hành chính của huyện Tân Lạc bây
giờ. Mường Vang tương ứng với huyện Lạc Sơn. Mường Thàng thuộc về 2 huyện
Cao Phong và Kỳ Sơn. Còn Mường Động chính là huyện Kim Bôi ngày nay. Mỗi
xứ Mường đều có những đặc trưng riêng, góp phần làm nên sự phong phú trong
văn hóa của người Mường Hòa Bình.
Trong phong tục tập quán của người Mường, tang lễ là một sự kiện rất quan
trọng. Xuất phát từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn vào một cuộc sống sau khi
chết, quan niệm về thế giới hữu hình và vô hình, người Mường tin rằng người chết
sẽ mang lời nguyện cầu của người sống đến với tố tiên và tố tiên sẽ thu giữ, chỉ lối
cho linh hồn người đã mất ở thế giới bên kia. Mối liên hệ vô hình này luôn giúp
người Mường nhớ về người đã mất và giáo dục con cái phải biết tôn trọng, giữ gìn
những truyền thống tốt đẹp tổ tiên để lại. Từ triết lí sống đó, dân tộc Mường có
những nghi thức tổ chức tang lễ rất đặc biệt. Điều này làm nên một dấu ấn riêng,
một bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Mường.
Như vậy, việc tìm hiểu vốn văn hóa nói chung, tục tang ma nói riêng của
người Mường ở một địa phương cụ thể như Mường Bi (huyện Tân Lạc) tỉnh Hòa
Bình có thể góp phần giới thiệu về người Mường và tục tang ma của họ, đồng thời
bảo tồn và phát triển những nét bản sắc trong văn hóa của dân tộc này.
Mặt khác, là một người con của đất Hòa Bình, tôi luôn cảm thấy có trách
nhiệm với phong tục tập quán của quê hương và dân tộc mình, với mong muốn
làm sáng tỏ thêm những đặc trưng truyền thống và một số nét thay đổi hiện nay
trong phong tục tang ma của người Mường ở quê hương và góp phần nhỏ bé vào


việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào
Mường ở Mường Bi, tỉnh Hòa Bình.
Từ thực tế trên, đề tài “Nghi lễ tang ma của người Mường ở Mường Bi - Hòa
Bình xưa và nay” đã được chọn làm hướng nghiên cứu trong khóa luận này.
2. Lịch sử nghiên cún vấn đề
Từ trước đến nay văn hóa Mường vốn là một đề tài hấp dẫn đối với các nhà

nghiên cứu. Nó đã góp phần không nhỏ làm phong phú thêm kho tàng văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Người có công đầu tiên trong việc sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu văn hóa
Mường ra thế giới là Jean Quisinier từ năm 1940. Công trình đầu tiên của tác giả
là “Người Mường” (1940) có thể xem là nguồn tài liệu phong phú cho những
nghiên cứu về người Mường sau này. Đây là công trình nghiên cứu địa lý
-

nhân chủng học về người Mường, đồng thời đề cập đến một số tục lệ: làm nhà, ăn
uống, cưới xin, tang ma song mới chỉ dừng ở mức độ khái quát, sơ lược .
Tiếp theo, cần phải kể đến công trình Người Mường ở Hòa Bình (1995) của
Nguyễn Đức Từ Chi, là một nghiên cứu rất công phu về người Mường ở Hòa
Bình.
Tiếp theo, những công trình của tác giả về: Cạp vảy Mường, Văn hóa Mường
(1978)... đã trở thành những tài liệu quý và không thể thiếu với bất cứ ai nghiên
cứu về người Mường.
Đặc biệt cuốn Người Mường ở Tân Lạc tỉnh Hòa Bình (1994) của ông có thể
được xem là cuốn sách đầy đủ nhất về quy trình tổ chức các nghi lễ, phong tục tập
quán, tín ngưỡng... của người Mường.
Trong công trình nghiên cứu Người Mườỉĩg với văn hóa cổ truyền Mườìĩg Bỉ
(1998) trong đó có Nghệ thuật múa của Lưu Danh Doanh đã tập trung miêu tả các
điệu múa trong tang lễ. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới dừng ở mức khảo tả về các
điệu múa tang lễ, chưa đi sâu tìm hiểu các khía cạnh khác của các điệu múa này.
Cùng với đề tài trên, Nghệ thuật múa Mường của tác giả Chí Thanh có phát triển
hơn, đã nói về vai trò của các điệu múa trong tang lễ nhưng phần này vẫn còn sơ
sài.


Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc mô
tả chung chung về tang ma của người Mường, mà chưa đi sâu phân tích những đặc

trưng truyền thống và một số nét thay đối trong tang ma người Mường nói chung
và của người Mường ở Mường Bi, tỉnh Hòa Bình nói riêng.
3. Mục đích nghiên cún
Khóa luận này có mục đích tìm hiểu những đặc trưng truyền thống trong nghi
lễ tang ma của người Mường tại Mường Bi, tỉnh Hòa Bình từ đó làm rõ một số nét
thay đổi trong phong tục tang ma hiện nay của người Mường ở nơi đây. Qua đó có
thể tìm ra những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của người
Mường hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
♦ Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận đi sâu nghiên cứu nghi lễ tang ma của người Mường tại Mường
Bi, tỉnh Hòa Bình. Nhằm tìm hiểu những nét đặc trưng truyền thống trong nghi lễ
tang ma của người Mường đồng thời làm rõ những biến đổi trong nghi lễ tang ma
của người Mường ở huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình.
♦ Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tiến hành các nội dung nghiên cứu ở Mường Bi, huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa bình nơi tập trung đông đảo người Mường sinh sống và có phong tục tập
quán lâu đời.
5. Phương pháp nghiên cún
Trong quá trình hoàn thành khóa luận các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng là: -Phương pháp điền dã dân tộc học gồm: ghi chép, quan sát, vẽ hình, chụp
hình, ghi âm, phỏng vấn về tang lễ...
- Phương pháp miêu tả: dùngđể phân tích các sự kiện quan sát thấy trong tục tang
ma và khái quát thành những nét đặc sắc tiêu biếu trong tang lễ người Mường.
- Phương pháp phân tích tài liệu: là phương pháp thu thập thông tin thông qua các
tài liệu có sẵn như: sách, báo cáo của huyện theo từng giai đoạn. Thông qua việc
tổng hợp và phân tích những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã giúp cho
tác giả có được những số liệu cần thiết để hoàn thành khóa luận này.



6. Đóng góp của khóa ỉuận
* về mặt lý luận
Khóa luận góp phần đi sâu tìm hiểu nét sinh hoạt văn hóa của người Mường
ở Hòa bình, đặc biệt là nét văn hóa đặc sắc trong nghi lễ tang ma của người
Mường ở Mường Bi - Hòa Bình. Từ đó có thể bảo tồn và phát huy những nét văn
hóa truyền thống độc đáo của người Mường.
* về mặt thực tiễn
Khóa luận cung cấp cho bạn đọc và nhũng người thích nghiên cứu về văn
hóa Mường, hiểu được phần nào những nét đặc sắc trong nghi lễ tang ma của
người Mường ở Mường Bi - Hòa Bình và những biến đối của nó hiện nay.
7. Bố cục của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục. Khóa luận
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về tự nhiên, xã hội người Mường ở Mường Bi - Hòa
Bình
Chương 2: Những nghi lễ truyền thống trong tang ma của người Mường ở
Mường Bi - Hòa Bình
Chương 3: Những nét biến đổi trong nghi lễ tang ma của người Mường ở
Mường Bi - Hòa Bình
Chương 1
KHÁI QUÁT VÈ Tự NHIÊN, XÃ HỘI NGƯỜI MƯỜNG Ở MƯỜNG BI HÒA BÌNH
1.1.

Đặc điểm tự nhiên

1.1.1.

Vị trí địa lý

Vùng đất cổ Mường Bi thuộc địa phận huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Tân

Lạc là một huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Hòa Bình, vị trí địa lý thuộc
21°27’ - 20°35’ vĩ độ Bắc và 105°6’ - 105°23’ kinh độ Đông, phía đông giáp với
huyện Cao Phong, phía tây giáp với huyện Mai Châu, phía bắc giáp với huyện Đà
Bắc, phía nam và tây nam giáp với huyện Lạc Sơn và tỉnh Thanh Hóa. Tống diện


tích tự nhiên của huyện là 523Km2 (chiếm khoảng 11,2% tổng diện tích toàn
tỉnh), gồm 1 thị trấn và 23 xã.
Tân Lạc là huyện có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi: có quốc lộ 6 nối liền thủ
đô Hà Nội và Tây bắc, đường 12B từ Mường Khen chạy theo tuyến đi Nho Quan
(Ninh Bình), nối với đường Hồ Chí Minh. Đó là những con đường huyết mạch nối
thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, khu IV (cũ) với vùng Tây bắc.

1.1.2.

Địa hình

Địa hình Tân Lạc khá đa dạng, độ cao trung bình so với mặt nước biển từ
200-300m, nơi cao nhất là 1200m. Địa hình thấp dần về phía đông nam và chia
làm ba vùng rõ rệt:
Vùng cao gồm 5 xã: Quyết Chiến, Ngổ Luông, Nam Sơn, Bắc Sơn và Lũng
Vân. Độ cao trung bình của vùng dao động trong khoảng 600 - 800m. Địa hình
vùng này có nhiều núi độ dốc lớn và các thung lũng hẹp.
Vùng giữa gồm 4 xã: Ngòi Hoa, Phú Cường, Phú Vinh, Trung Hoà, với địa
hình có nhiều đồi, núi xen kẽ các khe suối và bãi bằng.
Vùng thấp gồm 14 xã còn lại và thị trấn Mường Khến, có độ cao trung bình
khoảng 150 - 200m, có địa hình chủ yếu là đồng bằng xen với đồi thấp, là vựa lúa
chính của Tân Lạc.
Là một huyện miền núi nên Tân Lạc có địa hình phức tạp: dãy Trường Sơn
chạy theo chiều dài của huyện, đất đai bị chia cắt bởi hệ thống suối, đồi núi và có

hướng thấp dần về hướng đông nam.

1.1.3.

Khí hậu

Tân Lạc nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong một năm, khí
hậu nơi đây có hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5
và kết thúc vào tháng 10, nhiệt độ và độ ẩm cao. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 năm
trước và kết thúc vào tháng 4 năm sau với đặc trưng nhiệt độ xuống thấp, lượng
mưa rất ít. Nhiệt độ trung bình cả năm đạt 22,9 độ c, tháng nóng nhất trong năm là
tháng 7, lạnh nhất là tháng 1. Lượng mưa trung bình cả năm đạt 2.000mm nhưng
tập trung chủ yếu vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9. Các xã ở vùng cao


của huyện Tân Lạc có lượng mưa lớn hon so với các xã vùng thấp. Trong thời gian
từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm thường xuất hiện sương mù và sương muối.

1.1.4.

Đất đai

Ở Tân Lạc trong số 52.300 ha đất tự nhiên, diện tích đất đồi núi chiếm tới

80,27%. Số còn lại là các loại đất: đất đỏ trên feralit (1000 ha), đất đỏ trên núi đá
vôi (6000 ha), đất màu trên phiến Thạch Tím (559 ha), đất đỏ vàng trên sa thạch
(5.000 ha),...nhìn chung các thành phần đất phù hợp với yêu cầu sinh thái của các
loại cây trồng khác nhau như: cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây
lâm nghiệp...


1.1.5.

Tài nguyên

• Tài nguyên nước
Tân Lạc không có hệ thống các sông lớn chảy quanh nhưng có nhiều suối lớn
nhỏ và hồ chứa. Nguồn nước mặt của Tân Lạc được hình thành bởi ba hệ
thống suối:
Suối Chù, bắt nguồn từ vùng núi thuộc các xã Phú Vinh và Trung Hòa chảy
qua các xã Mỵ Hòa, Quy Hậu về phía đông nam với diện tích lưu vực là 350 km2.
Suối Cái bắt nguồn từ vùng núi xã phú cường chạy dọc theo thung lũng
Mường Bi qua các xã Phong Phú, Do Nhân, Lỗ Sơn theo hướng đông nam với
diện tích lun vực là 230km2.
Suối Hoa bắt nguồn từ vùng núi xã Thung Nai, chảy qua các xã Ngòi Hoa rồi
đố vào Sông Đà với diện tích lưu vực 230km2. Đây là nguồn cung cấp nước phục
vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp.
Nguồn nước ngầm ở Tân Lạc cũng tương đối dồi dào có thể khai thác để
phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
• Tài nguyên rừng
Rừng tự nhiên ở Tân Lạc có tổng diện tích 2.317.476 ha, chiếm 82.92% diện
tích ròng trong tỉnh, rừng trồng có 477.273 ha, chiếm khoảng 17,8%. Trong thảm
rừng ở Tân Lạc có nhiều loại gỗ quý (Lim, sến, táu, lát, nghiến,...) tre, nứa, bương,
vầu và các loại cây đặc sản có giá trị (sa nhân, mây song, cánh kiến...). Dưới tán
rừng là hệ thống động thực vật với nhiều loại động vật quý hiếm (khỉ, lợn, hố,


hươu, nai...). Đặc biệt xã Phú Vinh có những hang dơi lớn, hàng năm cung cấp
một lượng phân bón lớn và thực phẩm quý cho nhân dân quanh vùng.
• Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Tân Lạc chủ yếu là đá vôi với một số loại khoáng

sản quý như: vàng, than đá...
Do địa hình hiểm trở, điều kiện giao thông ở Tân Lạc vẫn còn gặp khá nhiều
khó khăn. Trước cách mạng tháng 8, Tân Lạc gần như cô lập với bên ngoài, việc
đi lại giữa các xã, các Mường rất hạn chế, chủ yếu bằng đường mòn trên núi đá.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 nhất là từ ngày thành lập 1957 đến nay, trải qua
mấy chục năm xây dựng và phát triển, hệ thống giao thông của huyện từng bước
được nâng cấp. Nhiều hệ thống đường giao thông huyết mạch, những con đường
nối liền Ngổ Luông- Quyết Chiến- Lỗ Sơn- Lạc Sơn...Cùng các con đường liên
xã, liên mường,... đã được mở rộng, giúp cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa dễ
dàng hơn. Tuy nhiên đường giao thông của Tân Lạc hiện nay chủ yếu là đường
đất, nhiều dốc đá ghập ghềnh, quanh co, hiểm trở, thường hay sạt lở, lầy lội về
mùa mưa, làm cho việc đi lại chuyên trở hàng hóa vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
1.2.

Đặc điểm xã hội
Theo số liệu thống kê năm 2002, huyện Tân Lạc có 23 xã: Quyết Chiến,

Nam Sơn, Bắc Sơn, Ngố Luông, Lũng Vân, Ngòi Hoa, Trung Hòa, Phú Vinh, Phú
Cường, Quy Hậu, Mãn Đức, Thanh Hối, Tử Mê, Đông Lai, Ngọc Mỹ, Phong Phú,
Mỹ Hòa, Địch Giáo, Tuân Lộ, Quy Mỹ, Lỗ Sơn, Do Nhân, Gia Mô và thị trấn
Mường Khen.
Trước đây, Tân Lạc thuộc huyện Lạc Thổ, Phủ Thiên Quang, đạo Thanh
Bình. Cho đến khi thực dân Pháp thành lập tỉnh Mường Hòa Bình, vùng Tân Lạc
nằm trong hai tống Lạc Thiện và Lạc Nghiệp, Phủ Lạc Sơn. Thời gian này xã
Lũng Vân vẫn thuộc tỉnh Thanh Hóa. Sau cách mạng tháng 8, tố chức hành chính
của nước ta được sắp xếp lại, theo đó tháng 8/1946, chính phủ nước Việt Nam dân
chủ Cộng Hòa đã quyết định sát nhập xã Lũng Vân về châu Lạc Sơn, tỉnh Hòa
Bình.



Ngày 2/1/1955, ủy ban hành chính liên khu III quyết định chia xã Thạch Bi
thành 9 xã: Địch Giáo, Quy Mỹ, Do nhân, Tuân Lộ, Phong Phú, Phú Vinh, Phú
Cường, Mỹ Hòa và Quyết Chiến. Tiếp theo, ngày 15/9/1956, xã Quyết Chiến
được chia làm 6 xã: Ngổ Luông, Lỗ Sơn, Gia Mô, Trí Đạo, xã Kiến Thiết được
chia thành 5 xã: Phú Tuy, Chí Thiện, Ngọc Mỹ, Văn Sơn và Thượng Cốc.
Ngày 22/1/1957, xã Đoàn Kết được chia thành 5 xã: Đong lai, Thanh Hối,
Mãn Đúc, Tủ Lê, Quy Hậu. Xã Mỹ Hòa được chia thành 3 xã: Mỹ Hòa, Ngòi Hoa
và Trung Hòa.
Xuất phát từ yêu cầu đẩy mạnh kinh tế miền núi, ngày 15/10/1957, Thủ
tướng chính phủ đã quyết định chia huyện Lạc Sơn thành hai huyện: Lạc Sơn và
Tân Lạc. Lúc mới thành lập, huyện Tân Lạc có 22 xã, riêng xã Ngòi Hoa của
huyện Đà Bắc đến ngày 28/2/1985 mới được cắt sang huyện Tân Lạc. Đen ngày
19/3/1988, Hội đồng bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết
định thành lập thị trấn Mường Khến. Thị trấn Mường Khến được thành lập từ các
xóm Chiềng và Minh Khai của xã Mãn Đúc, xóm Tân Hồng của xã Quy Hậu. Như
vậy, kể từ đó đến nay, địa giới hành chính của huyện Tân Lạc được ốn định với 24
đơn vị hành chính cấp xã.
Theo thống kê năm 2007, dân số của huyện Tân Lạc là 78.900 người. Mật độ
dân số bình quân đạt 151 người/km2. Dân số thành thị chiếm 5,6%, dân số nông
thôn chiếm 94,4%.
Trước cách mạng tháng 8/1945, chủ yếu ở Tân Lạc là người Mường Bi, sau
đó có thêm đồng bào dân tộc kinh lên xây dựng kinh tế mới. Hiện nay, người kinh
chiếm khoảng 16% ngoài ra còn có một số dân tộc khác như: Thái, Tày, Dao,
Mông chiếm khoảng 0,5%, nhiều nhất là người Mường vẫn chiếm đa số với
83,5%.
Với địa hình, khí hậu, dân số và kết cấu dân cư như vậy đã tạo nên sự phong
phú, đa dạng của tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và văn hóa nơi đây
và ảnh hưởng lớn đến đời sống cư dân Mường Bi.



1.3. Khái quát về văn hóa vật chất và tinh thần của người Mường ở Mường
Bi- Hòa Bình
Tân Lạc được biết đến là một trong những cái nôi của người Mường, với nền
văn hoá Hoà Bình nổi tiếng mà Mường Bi là địa danh tiêu biểu. Trải qua lịch sử
lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển, người Tân Lạc đã xây dựng được cho
mình một nền văn hoá truyền thống mang đậm đà bản sắc người Mường.

về nhà ở
Người Mường từ bao đời nay vẫn duy trì ngôi nhà sàn. Đây là nét độc đáo
riêng trong văn hóa ở của người Mường nói chung và người Mường ở Tân Lạc nói
riêng. Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền, việc dựng nhà sàn
của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc kết kinh nghiệm cư trú.
về trang phục

Trang phục nam: nam mặc áo xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới
hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Quần lá
tọaống dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là Khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi
tóc, trên đầu bịt khăn, khăn dài gấp 3 vòng đầu quấn dưới búi tóc. Cũng có khi họ
dùng khăn ngắn hơn, quấn vòng từ sau gáy sang phía trước giao nhau ở trán, hai
đầu khăn dựng nghiêng giống như hình đôi sừng trông khá ngộ nghĩnh.
Trong dịp lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài
khoác đôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sườn phải.
Trang phục nữ: bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc
đáo. Khăn đội đầu (mụ) là một mảnh vải trắng hình chữ nhật khôngthêu thùa. Váy
(Wắl) dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy, cạp váy nổi
tiếng với các loại hoa văn được dệt kì công. Trang sức thường ngày gồm vòng tay,
chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu
bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là Áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn,
xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc

trắng (về sau có thêm các màu không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại Áo


báng (yếm), cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn
trắng, xanh với các phong cách không cầu kỳ như một sốtộc người khác.
Váy là loại váy kín màu đen, toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy,
khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể.
Đây là một cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn
ngữ và khu vực láng giềng. Trong các dịp lễ, tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực
thường không cài khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang
trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn
xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong, về cơ bản giống yếm của phụ nữ
dân tộc Kinh nhưng ngắn hơn.
Tỗ chức cộng đồng
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang
đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng) chia nhau cai quản các
vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc
đạo xóm, cai quản một xóm.
Tín ngưỡng
Người Mường Bi ở Tân Lạc thờ đa thần (tổ tiên, thành hoàng, thần đất, thần
núi,...). Cũng như một số tộc người thiểu số khác ở Việt Nam, người Mường ở Tân
Lạc cho rằng muôn vật trên thế gian này đều có linh hồn cả. Phật giáo và các tôn
giáo khác ảnh hưởng đến nơi đây là không đáng kể. Chính vì có quan niệm tín
ngưỡng như trên mà họ cầu cúng tất cả các loại thần thánh, ma quỷ một khi cảm
thấy cần thiết. Họ cho rằng, con người chết đi cũng biến thành ma và ma tổ tiên sẽ
phù hộ được con cháu. Vì thế thờ cúng tổ tiên có tầm quan trọng số 1 trong đời
sống tâm linh của họ, nó phản ánh ý thức sâu sắc về cội nguồn, về tình cảm ruột
già máu mủ và trở thành đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên họ còn thờ thần bản mệnh, thổ công, thờ các
nhân vật huyền thoại, người anh hùng, thờ động vật, cây cỏ...

Lịch


Lịch Cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng
với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày,
giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các
nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với
tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.
Lễ hội
Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Lễ khai hạ, hội xuống đồng
(Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ cơm mới...
Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian người Mường khá phong phú, có các thểloại thơ
dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em,
đồng dao, hát đập hoa, hát đối, hát trẻ con chơi.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi là xắc bùa hay Khóa rác) được nhiều người ưa thích.
Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợilao động và
các nét đẹp phong tục dân tộc. Đặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca, đó là
những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra còn có nhị, sáo,
trống, khèn lù...
Ẩm thực
Người Mường Bi ở Tân Lạc xưa nay vẫn tự hào về ấm thực của họ, điều đó
thể hiện thông qua việc truyền tụng trong xã hội những câu thành ngữ khá nổi
tiếng “củ mài, rau sắng, măng đắng, mật ong”
Hoặc “cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui..
Nguyên liệu dùng để chế biến các món ăn hàng ngày của người Mường ở
Tân Lạc chủ yếu do trồng trọt, chăn nuôi của họ cung cấp. Đe cất trữ thực phẩm,
theo tập quán cổ truyền, người Mường ở Tân Lạc thường phơi khô các loại thịt bò,

thịt trâu, thịt lợn.. .và các loại măng, mộc nhĩ, nấm...
Phương pháp cất trữ khá nổi tiếng của họ là muối chua các loại thịt cá, tiết
trâu, tiết bò, măng, rau cải (muối dưa), làm mắm tôm, tép...


Rượu cần người Mường nối tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của
men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại
ống điếu to. Đặc biệt phụ nữ còn có phong tục nhiều người
cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Tiểu kết chương 1
Với nhũng đặc điểm tự nhiên - văn hóa - xã hội kể trên, Mường Bi (Tân Lạc)
gặp không ít khó khăn trong việc phát triển kinh tế xã hội. Xong chính những điều
kiện đó cũng mang lại cho Mường Bi một môi trường thuận lọi cho việc giữ gìn,
bảo tồn các yếu tố quý giá của văn hóa truyền thống.
Có thể nói nền văn hóa của người Mường ở Mường Bi - Hòa Bình mang đậm
sắc thái văn hóa dân gian, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt
Nam. Tuy có nhiều yếu tố chung về nếp sống, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần
với người Mường ở các vùng khác như: Kim Bôi, Lạc Sơn (Hòa Bình) ; Phú Thọ,
Thanh Hóa...Song nền văn hóa của người Mường Bi ở Tân Lạc, Hòa Bình vẫn có
những đặc điểm riêng biệt.
Trải qua thời gian dài với bao tác động của lịch sử, Mường Bi vẫn giữ được
cho mình những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán, sinh hoạt
văn hóa đặc sắc. Trong đó nghi thức ma chay là một trong những nghi thức tôn
giáo “đậm đặc” của người Mường Bi, đã thể hiện được những tập tục cổ truyền,
những quan niệm về vũ trụ, thế giới nhân sinh quan dân tộc.
CHƯƠNG 2
NHŨNG NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI
MƯỜNG Ở MƯỜNG BI - HÒA BÌNH
2.1.


Một số quan niệm liên quan đến tang ma

2.1.1.

Quan niệm về âm giới và vũ trụ
Tang ma là một trong những lễ thức quan trọng trong tín ngưỡng vòng đời

người, phản ánh tập tục cố truyền và quan niệm về vũ trụ, thế giới tự nhiên và xã
hội của người Mường.
Giống như nhiều tộc người khác ở Việt Nam cũng như trên thế giới, âm giới
trong quan niệm của người Mường là nơi linh hồn sẽ cư ngụ ở đó sau khi rời khỏi


thế xác. Việc cử hành tang lễ chính là một hình thức “hướng dẫn” linh hồn đi đến
âm giới khi nó không còn nơi trú ngụ ở dương thế. Và nghệ thuật diễn xướng (mà
cụ thể ở đây là mo Mường) là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực
hành nghi lễ này. Theo PGS. Từ Chi: “Nếu quả thực, như chúng tôi nghĩ, khái
niệm “linh hồn” là hạt nhân của mọi tư tưởng tôn giáo, thì tang lễ ắt phải là biểu
hiện rõ nét nhất của khái niệm ấy. Vì ma chay là gì nếu không phải là giải pháp
cao nhất và cuối cùng - giải pháp tối chung - mà một cộng đồng người sống đưa ra
để khuôn xếp số phận của linh hồn một thành viên... Theo dõi diễn biến của tang
lễ, thông qua đường đi nước bước của hồn người chết, cũng có thể biết được một
số vùng thuộc vũ trụ ấy” .
Rõ ràng đường đi của linh hồn chính là con đường giúp chúng ta tìm hiểu vũ
trụ luận theo quan niệm của các tộc người nói chung và của người Mường nói
riêng. Theo một quan niệm tồn tại ở hầu hết các tộc người và các nền văn hoá,
mỗi con người đều có một linh hồn, nó cư ngụ trong thể xác khi còn sống và rời
bỏ thể xác khi con người tắt thở. Do đó, điếm khởi đầu trong hành trình của linh
hồn để “trở về với cát bụi” là khi con người trút hơi thở cuối cùng. Sau đó, linh

hồn sẽ đi đến một thế giới khác. Cái thế giới khác này là nơi mà chúng ta đang
bàn đến, đó chính là vũ trụ quan của các tộc người và ở đây chính là âm giới. Như
vậy, âm giới bao gồm cả những nơi tốt đẹp hoặc không tốt đẹp, hoặc một thế giới
nào đó mà các linh hồn sẽ trú ngụ sau khi rời thể xác.
Quan niệm vũ trụ của người Mường được chia thành ba tầng, bốn thế giới.
Tầng cao nhất là thế giới của Mường Tròi (Mường K,lơi) là nơi trú ngụ của Vua
trời và các phò tá của Vua Trời. Tầng ở giữa là Mường Pưa (Mương Pưa), là thế
giới của người sống, tập họp lại thành các gia đình, thành xóm và thành mường.
Tầng thứ ba có hai thế giới là Mường Pưa Tín (Mương Pưa Tín) ở dưới mặt đất và
mường Vua Khú ( Mương Bua Khú) ở đáy nước. Thế giới bên dưới mặt đất không
phải là âm ty, không phải là thế giới siêu nhiên của tinh linh, mà là thế giới của
những người tí hon, gia xúc cũng tí hon, có lối thông lên thế giới của người trên
mặt đất. Hệ thống vũ trụ “ba tầng - bốn thế giới” của người Mường lấy Mường
Pưa, thế giới của người sống làm trung tâm, mọi đường đi đều xuất phát từ đây,


mọi thế giới đều quy tụ về đây. Tuy nhiên ở trong không gian hữu hạn, mỗi thế
giới lại có một bản chất riêng, do đó sự thông thương giữa các thế giới bị hạn chế.
Mường Pưa là thế giới tự nhiên, là “cõi sống” của người Mường. Mường Pưa Tín,
vốn thông thương với Mường Pưa, cũng là thế giới tự nhiên nhưng thấp kém hơn.
Mường Trời là thế giới siêu nhiên hoàn chỉnh nhất, thời gian ở đây vô tận. Mường
Vua Khú là một thứ thế giới siêu nhiên.
Người Mường cho rằng khi sống thì họ ở Mường Trần gian, lao động sản
xuất đế có cái ăn và làm đẹp bản mường, đến khi mất là họ trở về với thế giới của
ông bà, tiếp tục cuộc sống ở thế giới Mường Ma, cũng có cửa có nhà, cũng chăm
lợn gà và các công việc vốn quen làm như thuở trước sống ở Mường Trần gian.
Khi còn sống ở “mường người” đạo lý là hành động cư xử tốt đẹp, là sự chăm sóc
tận tình với nhau. Đen khi chết, đạo lý ấy biến thành trách nhiệm và bổn phận của
người sống đối với người chết “nghĩa tử là nghĩa tận” , là sự đưa tiễn người đến
“Mường Ma” một cách long trọng và đủ đầy. Không có chữ viết, nên “tang ca” là

cách mà người Mường (qua người hành lễ - Bố mo) ôn lại lần cuối cho người
chết, cũng là một lần nói cho người sống về cách đối xử với nhau, về quan niệm
sinh thành, về linh hồn, về cõi sống, cõi chết, về môi trường tự nhiên...

2.1.2.

Quan niệm về hồn, vía con ngưòi và linh hằn người sau khỉ chết
Người Mường có quan niệm, chết không phải là hết, không phải là chấm dứt

tất cả mà là chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cái chết đối với họ chỉ là cuộc
hành trình cuối cùng của đời người ở thế giới trần tục và sự mở đầu của một cuộc
hành trình mới ở thế giới khác, thế giới bên kia. Đó mới là thế giới vĩnh hằng và ở
đó mọi hoạt động diễn ra bình thường, không khác gì cuộc sống nơi trần gian,
cũng có ăn ở đi lại, cũng làm nương, làm ruộng...Sở dĩ người Mường có quan
niệm như vậy là bởi họ cho rằng con người sống có linh hồn. Trong tiếng Mường
có hai từ để chỉ linh hồn là: hồn (wại) và vía (bía). PGS. Nguyễn Đức Từ Chi khi
nghiên cứu về tang ma người Mường đã viết: “Con người lúc sống dù nam hay nữ
có tất cả 90 hồn, 40 hồn ở bên phải và 50 hồn ở bên trái cơ thể. Với người Mường,
vía chính là thuộc tính của con người và sống trong mỗi con người”. Lúc còn sống
vía chi phối và tác động trực tiếp lên mọi hoạt động của con người. Tuy nhiên vía


cũng có thể rời bỏ cơ thể đi đâu đó khiến con người ta có những biếu hiện bất
thường, trong trường hợp đó họ đều mời ông mo về làm lễ cúng gọi là làm vía.
Khi con người mất đi, vía không tồn tại trong cơ thể mà lìa khỏi thể xác, nhập vào
các loài cây cỏ, các con vật bé nhỏ như bướm để đi lại theo mây gió.
Người Mường ở Mường Bi quan niệm rằng: con người có phần xác và phần
hồn. Chết là xác rời khỏi linh hồn, linh hồn vẫn tồn tại và sẽ tiếp tục sống ở một
thế giới khác. Đó là thế giới Mường trời và thế giới Mường ma. Họ hiểu cái chết
là sự ra đi vĩnh viễn của một bộ phận quan trọng nhất của các hồn. Họ tin con

người có hồn có vía, khi còn sống vía luôn cần xác trong con người và gắn với thế
xác. Khi chết, vía sẽ rời bỏ xác và ra đi vĩnh viễn. Trong một thời gian nhất định
biến thành ma, lang thang. Thời kì đó tương đương với giai đoạn để tang (một
năm). Sau thời gian để tang hồn người chết được nhập vào với thế giới bên kia,
nơi có cộng đồng tổ tiên sinh sống và trở thành tổ tiên của gia đình con cháu.
Với người Mường, chết không phải là hành vi vĩnh viễn chấm dứt sự tồn tại
của các linh hồn. Ngược lại cái chết được hiểu như là sự tiếp tục cuộc sống linh
hồn, như trong một thế giới khác với đầy đủ những đòi hỏi về vật chất cũng như
người sống. Vì vậy tang ma của người Mường ở Mường Bi có rất nhiều nghi thức,
lễ nghi nhằm đế chuấn bị cho người chết sống ở thế giới mới. Điều này thế hiện rõ
trong các bài mo.
Trong khi đó, ở thế giới người sống người ta lại cho rằng họ có bốn phận
cung phụng cho những nhu cầu riêng của người chết bằng những lễ tục, đồ cúng
thì người chết sẽ được vui sướng.
Chính vì vậy, trong thế giới người sống, người taphải liên kết tổ tiên với
những hành vi của con cháu mình, người ta phải cúng lễ cho tổ tiên những hạt
cơm đầu mùa gặt hái, người ta hỏi ý kiến của tổ tiên trong nhiều trường hợp và
báo cáo cho tổ tiên biết những sựkiện xảy ra trong gia đình. Khi có điều tai họa
xảy ra trong gia đình, người ta phải cầu khấn tổ tiên che chở hoặc cầu khấn tổ tiên
đừng nối giận nữa. Như vậy mặc dầu có sựtách biệt thế giới người sống và thế
giới người chết, song cuộc sống của những người còn lại vẫn nhuộm ánh phản


chiếu buồn thảm của một cuộc sốngđang tiếp diễn, giống như hệt và song song ở
bên kia thế giới...
Tóm lại, quan niệm về sống, chết của người Mường khá phức tạp. Họ cho
rằng, con người khi chết đi sẽ đi vào thế giới của mình, đó là thế giới người chết,
thế giới đó tách rời với thế giới người sống. Nhưng họ cũng thừa nhận rằng giữa
hai thế giới ấy lại có mối liên hệ kì lạ, huyền bí không sao phá nổi. Họ cũng cho
rằng ma không hẳn là lực lượng xấu xa, độc hại, kẻ phá hoại, mà nhiều khi trở

thành kẻ phù trợ cho mình. Vì những lí do trên,họ đưa ra những biện pháp phòng
ngừa, xua đuổi tà ma nhưng mặt khác lại làm tròn bổn phận của người sống đối
với người đã chết để ma của họ được no đủ và yên bình. Đó cũng là nét đặc sắc
trong đời sống tâm linh của họ.
2.2.

Các nghi lễ trong tang ma truyền thống của người Mường ở Mường Bi-

Hòa Bình

2.2.1.

Nghi lễ mộc dục
Khi người chết tắt thở, gia đình tang chủ thực hiện nghi lễ mộc dục cho

người chết, tức là tắm gội, lau chùi cho người chết. Với mong muốn đế người chết
được sạch sẽ, thơm tho, tẩy sạch bụi trần, bước sang thế giới bên kia. Người nhà
nấu nước thơm đế tắm rửa thi hài (thường là nấu nước lá bưởi hoặc lá quế) dùng
khăn sạch để lau rửa.
Lúc tắm, đặt người chết lên một tấm phản gỗ hoặc chõng tre, xung quanh
vây màn kín lại, người tang chủ quỳ xuống rồi cáo: “Nay con cháu xin tắm gội
sạch bụi trầnđế.. .về với tổ tiên cho được mát mẻ”.
Con gái hoặc con trai đều có thể tắm gội cho bố hoặc mẹ. Tắm gội nghĩa là
lấy miếng vải đắp vào nước lá bưởi, lau mắt lau mình cho sạch.Trong khi một số
người lo việc tắm rửa, một số người khác lấy quần áo ngắn, quần áo dài, mỗi thứ
bốn, năm hoặc chín mười bộ lồng vào nhau, áo lồng theo áo, quần lồng theo quần
để sau khi tắm gội xong thì mặc cho thi hài.
Mặc xong quần áo, lấy lược chải tóc, lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn lau lại
chân, hai tay, lấy dao, kéo cắt móng tay, móng chân rồi gói lại đế sau này bỏ vào



quan tài. Người ta buộc hai ngón tay cái lại với nhau, tay được đặt trước ngực, hai
chân duỗi thắng, hai ngón chân cái cũng được buộc lại với nhau.
Xong những việc ấy đưa thi hài đặt lên giường đắp cho một tấm chăn đơn có
dải vải đỏ ở giữa, một chiếc chăn bônghoặc nhiều hơn nữa. Hai bên người chết
còn trải tấm lụa tơ tằm dài từ đầu đến chân, mặt của người chết được cuốn vải và
che lại bằng khăn tránh việc mắt người chết có thể mở ra. Còn hàm người chết
được quấn vải kéo lên giữ không cho hàm người chết mở ra, người Mường
Bi ở Tân Lạc gọi là “Tóng cáng” - kéo hàm. Trước khi kéo hàm người ta bỏ vào
hàm người chết vài hạt gạo, 7 hạt đối với nam và 9 hạt đối với nữ.
Đồng thời lúc này ông Trượng (thầy cúng) làm một lễ tống trùng. Người
Mường quan niệm rằng, hồn phải ra đi là do có ma ác làm hại. Vì vậy trước khi
nhập quan phải đuối hết ma ác.

2.2.2.

Nghỉ lễ nhập quan
Đầu tiên thầy mo sẽ thực hiện nghi lễ chia vải vóc. Những thành viên trong

gia đình sẽ dựng cọc, mắc màn, lấy vải trắng quây xung quanh, lấy chăn quây che
phần trên cùng. Người chết sẽ được khâm liệm, mặc quần áo mới, quấn vải trắng
quanh áo quan, trong cùng là vải của con út, ngoài cùng là vải của con trưởng.
Mặt trên của áo quan được treo vải trắng. Phía trên quan tài buộc một cái sào để
treo quần áo của con cái. Phía ngoài sân cũng được treo vải trắng, người quá cố có
bao nhiêu người con trai thì treo bằng ấy mảnh.
Người quá cố được đặt ở gian giữa của ngôi nhà. Các con cháu vào, đứng lại
gần. Một người nói: “Nay được giờ lành, chúng con xin rước nhập quan”. Con trai
bên trái, con gái bên phải đứng quây quần xung quanh.
Chiếc quan tài của người Mường ở Mường Bi (Tân Lạc) được làm bằng cây
gỗ khoét rỗng thành hình chiếc thuyền. Người chết sẽ được chôn cùng đồ tùy táng

như: bát, đĩa chôn giữa mộ, vò đựng nước chôn ở đầu mộ. Nhà lang xưa kia còn
chôn theo cả sanh và vật dụng đế ninh xôi được làm bằng đồng.
Trước khi cho người quá cố vào trong quan tài, người ta có rải một lớpthan
củi vào bên trong quan tài nhằm chống thấm, chống mối, sau đó trải một chiếc
chiếu vào trong quan tài. Người chết đặt vào trong quan tài phải cho đầu về phía


ngọn cây dùng làm quan tài, sau đó người ta cho quần áo, đồ dùng cá nhân (chỉ
một số đồ dùng tùy thuộc vào gia đình) và thường để dưới chân và hai bên của
người chết.
Đặt người chết vào quan tài, tạm thời đóng quan tài lại. Quan tài được đưa
lên nhà, đặt nằm dọc hoặc nằm ngang (tùy dòng họ) trước cửa sổ voóng, lấy màn
quây lại. Ngoài màn còn có một diềm vải hoa phủ thành diềm chữ nhật.

2.2.3.

Lễ động tiếng
Chọn được giờ tốt, người ta làm lễ động tiếng. Người con trai cả đeo dao đi

rùng tới cửa sổ voóng- cửa sổ gian chính, nơi này được coi là Rốn thiêng của ngôi
nhà. Người này đứng nghiêm trang, mắt nhìn thắng qua cửa voóng. Mọi người đã
túc trực đầy đủ. Anh ta dùng tay phải rút dao từ trong vỏ ra chặt mạnh ba nhát vào
cửa số (có người nói là “gỡ” ba tiếng thật mạnh ).
Động tác này thể hiện điều là: “Thưa các đấng linh thiêng, thế là dòng họ
này lại có một người ra đi, tách kìa khỏi dòng máu chúng

tôi. Tốtiên

bắt


đầu
nhận lấy hồn này và từ đây hãy tiếp tục giúp hồn ở thế giới mường ma”.
Sau khi có động tác “băm” của con trưởng, mọi người mới bắt đầu được
khóc. Khóc và khống. Khống là nói lên lời thương, lời nhớ, lời vĩnh biệt...
Lúc này người ta đánh:
Ba hồi cồng dài không có tiếng láy lại
Ba hồi chiêng dài không có tiếng láy
lại Ba hồi trống dài không có tiếng láy
lại (Neu người chết là đàn ông, bắn ba
phát súng)

2.2.4.

Quạt ma
Khi ông Trượng xướng roóng khấu đầu, các nàng dâu trong nhà làm lễ Quạt

ma. Te quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt
ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt
ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo


vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt
trang trí tua hạt cườm. Phía trước đặt một chiếc ghế mây.
Quạt ma là một điệu múa khoan thai, nhẹ nhàng, tỏ tình thân quý, trìu mến,
xót thương người ra đi. Dâu cả múa trước, các con dâu lần lượt múa theo.
Mục đích của nghi lễ quạt ma này nhằm tỏ lòng thương tiếc và yêu quý
người đã chết, dâu hiền quạt mát cho linh hồn người chết thanh thản. Động tác
múa trong nghi lễ quạt ma thường rất đơn giản, người múa quay mặt về phía thầy
mo, một tay cầm quạt che trước ngực, một tay cầm gậy chống xuống đất múa theo
nhịp chiêng của thầy mo. Động tác từ người dâu cả đến người dâu cuối cùng theo

thứ tự đuổi nhau bằng động tác múa hình sóng lượn.

2.2.5.

Lê củng và các đêm mo
Người Mường Bi cổ ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình quan niệm rằng “nghĩa

tử là nghĩa tận”. Khi gia đình có người chết, họ sẽ làm tang ma kéo dài 12 ngày
đêm với rất nhiều thủ tục dài đằng đẵng để giúp cho linh hồn thoát khỏi thế xác và
trở về với cõi vĩnh hằng.Tùy vào từng điều kiện của mỗi gia đình và tùy vào các
lang lớn hay nhỏ mà thời lượng các đêm mo có sự thay đổi. Nghi lễ mo được coi
là quan trọng nhất trong đám tang của người Mường Bi cổ.
Thầy mo Mường là người quan trọng nhất trong nghi lễ này chứ không phải
là con, cháu và là người trực tiếp điều hành mọi thủ tục lễ nghi trong đám tang
đồng thời cũng là người trực tiếp mo. Ông là người rất được nhân dân kính trọng,
là người có khả năng liên lạc được giữa người sống và người chết. Làm mo trong
đám tang là một nghi thức mê tín ăn sâu trong tâm thức của mọi người dân
Mường ở Mường Bi.Đối với người Mường, không mo thì không thể mai táng.
Sau đây là bản tóm lược bản motiêu biểu ở Mường Bi do bố Mo Đinh Công
Thiệu người huyện Tân Lạc chuyên hành lễ cho đám tang các lang nhỏ và người
bình dân. Hệ thống tang ca của bố mo Đinh Công Thiệu chùm lên mười một đêm
mo, mỗi áng (roóng) mang một tiêu đề chính thức.
Đêm Mo thử nhất
Ông Mo kể về sức mạnh của túi khót, túi khót là túi đựng những vật thiêng
của ông Mo, bao gồm: nanh hổ, nanh gấu, nanh lợn lòi, vỏ ốc, các loại đá có hình


thù khác nhau. Những vật kế trên, người Mường coi đó là vật thiêng để che
chởcho ông Mo. Túi khót có chức năng trừ tà và khống chế sức mạnh của các lực
lượng siêu nhiên khi chúng ám hại con người, vì vậy nó được coi là vật bất ly thân

đối với các thầy Mo khi hành nghề.
Đẻ có thể “bắt linh hồn” nghe theo, thì thầy Mo phải thực hiện nghi lễ Đạp
ma (hay còn gọi là lễ Giậm nước). Nghi lễ Đạp ma được thực hiện như sau:
Thầy mo đến cạnh xác người quá cố, tay phải vác gươm trên vai, tay trái
dùng quạt phe phay trên bụng mình, tư thế đứng bình thường, chân phải đeo chiếc
vòng chuôi dao. Sau khi chấm dứt đoạn mo trên thì thầy mo hú lên một tiếng, gọi
tên người chết một lần rồi co chân phải giậm mạnh xuống sàn nhà. Sau đó, thầy
mo dùng chân làm tâm để xoay một góc 700. Như vậy linh hồn sẽ nghe theo thầy
mo để thụ lễ.
Đêm Mo thứ hai
Chỉ có một roóng mo dài: Đẻ đất, Đẻ nước, Con chu, Kéo lội, Đoọc moong
(sinh ra đất, sinh ra nước, chặt cây chu, kéo cây lội, săn muông thú). Một roóng
gồm ba tích truyện khác nhau. Tang ma có thể chấm dứt với tích thứ nhất khi thần
thoại đã cạn vì con người đã thắng trong đấu tranh với thiên nhiên. Nhưng có lẽ
người Mường lại nhìn với đôi mắt có phần khác, vì đối với họ thần thoại mới là
bước đầu trước khi lịch sử hiện ra. Lúc này con người phải chiến đấu với các lực
lượng siêu nhiên nhưng dưới dạng bình thường trong thế giới trần gian. Và thế là
Đẻ đất, Đẻ nước được tiếp nối bằng hai tích khác, nhưng lần này không còn mang
chất thần thoại: “ cồn chu kéo lội, Đoọc moong” .
Đêm Mo thứ ba
Cũng chỉ một roóng mo dài: Nhòm họ, nhòm Mường, nghé nhàn, nghé dậu.
Roóng này gồm hai chuyến đi. Chuyến đi thứ nhất “qua Mường Ma” và “trên
đường về”. Chuyến đi thứ hai: để cho người chết tạm biệt làng và Mường của
mình.
Từ đêm Mo thứ tư đến đêm Mo thứ tám
Đưa người chết đi kiện vua trời, xuống âm phủ đối kiện, thắng kiện trở về


Truyền thuyết người Mường kể rằng, con người khi sống đã làm cho muôn
loài bất bình đã lên tận trời để kiện nên khi chết con người phải đi hầu kiện.

Đêm mo thứ chín
Xuống sông Tỵ (theo quan niệm người Mường sông Tỵ là sông ngăn cách
giữa thế giới người sống và thế giới người chết). Roóng này chỉ dành cho các đám
tang lớn nên không phổ biến. Hồn các lang lớn còn phải xuống “Mường Vua Khú”
đế được xét xử một lần nữa. Người xét xử lần này là Vua Khú. Cuối vụ kiện người
chết cũng được xóa hết tội lỗi.
Đêm mo thứ mười
Ke chuyện “Vườn hoa núi cối” nói về tình yêu đôi lứa. Câu chuyện này có
tác dụng kể lại một chuyện tình nhằm giải trí cho người chết và người sống.
Đêm mo thứ mười một
Cũng là đêm Mo cuối cùng gồm 4 roóng:
Roóng nhà xe: Ke chuyện vua Thục Đe người trần lấy nàng Nguyệt Nga trên
mặt trăng. Họ chỉ gặp nhau trên bóng trên vía thế mà Nguyệt Nga có mang rồi
sinh một bé trai. Khi ông chết, con trai ông thả một linh cữu từ trên trời xuống để
làm ma ông bố.
Roóng trâu: Trâu và hố gắn bó với nhau khăng khít. Mỗi khi đi xa, trâu gửi
con cho hổ trông nom. Hổ đi vắng lại gửi con cho trâu.Trâu làm chết con của hổ.
Hố giết hết cả đần trâu. Cun cấn đem trâu về nhà nuôi, che chở và bắt trâu giúp
người cày, bừa. Trong nhà có người chết thì trâu phải theo về Mường Ma để tiếp
tục giúp đỡ người ấy. Từ đấy mỗi đám tang đều giết một con trâu để tế đêm cuối
cùng.
Roóng cỗ bánh ( mời hồn ma ăn bánh)
Roóng tách lìa.

2.2.6.

Le đưa tang
Lúc đưa tang người ta nâng linh cữu bằng tay trong nhà gác đi qua cửa sổ

móng. Người ta không đưa quan tài xuống bằng cầu thang chính vì người Mường

Bi quan niệm cửa chính chỉ để cho người còn sống đi.


Người ta đưa tang ra nhà trạm để đặt lên đòn táng. Đòn táng để sẵn trên một
bệ gỗ ở đây ông mo làm lễ đưa tang. Thực ra không có một quy định cụ thể nào về
việc đưa ma, qua quan sát thấy các đám đưa ma của người Mường trình tự đi như
sau :
-

Phường trống - kèn đi trước.

-

Thầy Mo đầu đội mũ Bông Múc - Bông Bạo, tay cầm quạt, tay cầm khénh, có nơi
thầy vác gươm.

-

Trưởng họ đi trước nhà ram ( đòn để khênh đặt quan tài) để chỉ huy đoàn khênh.

-

Đoàn khênh nhà ram.
Tiếp đến đoàn con cháu đi đưa tiễn, trong hàng ngũ con dâu, con dâu trưởng
đi trước vai quải cặp quần áo, sau nữa là đoàn người rồng rắn đi theo. Trên đường
đi, các nhà hai bên đường đều đốt lên một đống lửa nhỏ, người Mường gọi đó là
đốt lửa cho ma. Dân gian Mường vẫn lan truyền câu chuyện nếu nhà ai không đốt
lửa, hàng đêm ma (người chết) sẽ vào nhà xin lửa, vì sang bên mường ma tối tăm
nên hồn người chết rất cần lửa để xua đi đêm tối.
Đoàn ma đưa đi chậm rãi, thong thả, vừa đi phường trống - kèn, trống cái,

chiêng vừa tấu nhạc, khi leo dốc, xuống dốc hay qua sông suối tiếng nhạc tiếng
trống càng thúc lên liên hồi.
Neu phải xuống dốc, lên dốc, qua những nơi địa hình ghập ghềnh đoàn người
khênh nhà ram phải giữ thăng bằng, không để cho nhà ramnghiêng ngả. Họ coi
đây là sự tri ân cuối cùng với người chết. Trên đường đi, chân của quan tài hướng
đi trước, đầu của quan tài (cũng là đầu người chết) đi sau, ý là hướng về nhà, về
làng mường quê hương mình lần cuối khi còn ở trên lương gian. Khi vào đến đống
mả người ta mới cho quay đầu .
Khi đoàn đưa tang sắp đi khỏi làng, các con trai, chau trai ruột, con rể , cháu
ngoại ruột của người chết tiến hành nghi lễ nằm đàng. Nói là nghi lễ nhưng thực
ra là các con, các cháu người chết ra giữa đường mặt quay về phía đoàn đưa tang
quỳ xuống để cho mọi người khênh nhà ram đi. Thông thường mỗi người phải
làm nghi lễ này ba lần. Ý nghĩa của nghi lễ này biếu hiện lòng con cháu xót
thương cha, mẹ, ông bà không muốn cho người chết phải xa lìa con cháu.


×