Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.05 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Đức Sơn

TRANH KỸ THUẬT SỐ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 62 21 01 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2015


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. Nguyễn Xuân Thành

Phản biện 1: PGS. Lê Anh Vân
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam
Phản biện 2: PGS. TS. Lê Bá Dũng
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phản biện 3: TS. Đinh Hồng Hải
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,


Đại học Quốc gia Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Số 32, Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi……….giờ ……..ngày…….tháng……..năm 2015

Có thể tìm hiểu tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới ngày nay đã và đang chuyển sang giai đoạn phát triển
mới với một nền kinh tế tri thức, hội nhập toàn cầu hoá. Việt Nam
cũng đã và đang chuyển mình mạnh mẽ trên con đường công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong lĩnh vực nghệ thuật ở Việt Nam,
ngày càng nhiều nghệ sĩ ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiên
tiến vào quá trình sáng tạo nghệ thuật. Từ thực tế đó, tranh kỹ thuật
số (KTS) đã bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, khi đề cập đến tranh KTS ở Việt Nam hiện nay, rất
nhiều người thậm chí là cả giới nghệ sĩ cũng đều nhìn nhận nó dưới
góc độ “kỹ thuật”. Lý do chính là sự thiếu cập nhật thông tin gây nên
những hiểu biết sai lệch về lĩnh vực này. Thực tế, vẫn chưa có công
trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành
về các vấn đề của tranh KTS, để từ đó có một cái nhìn toàn diện hơn,
sâu sắc hơn về hình thức của dạng nghệ thuật này. Việc nghiên cứu

và xem xét tranh KTS theo quan điểm: nghệ thuật học, mỹ thuật học,
ký hiệu học nghệ thuật, cấu trúc văn bản nghệ thuật… nhằm đúc kết
thành một công trình mang tính khoa học là rất cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn nêu trên, tác giả mạnh dạn chọn
đề tài Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu
muốn đề cập đến thực trạng, xu hướng phát triển của tranh KTS ở
Việt Nam. Đồng thời phân tích, tổng hợp và lý giải những vấn đề
liên quan đến tranh KTS ở Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đề tài
Trên thế giới, công trình nghiên cứu The digital computer as a
creative medium nghiên cứu việc sử dụng máy vi tính trong thực
hành nghệ thuật như là một phương tiện sáng tạo nghệ thuật. Frank
Dietrick trong nghiên cứu Visual Intelligence: The first Decade of
Computer Art (1965 - 1975) bàn về sự phát triển của nghệ thuật đồ
họa vi tính trong những năm thập niên 60 của thế kỷ XX. Công trình


2

nghiên cứu Media Aesthetics - Aesthetics Theory của Herber T. Zettl
đưa ra những ứng dụng thẩm mỹ trên các phương tiện truyền thông,
và những lý thuyết quan trọng nhằm phân tích tính thẩm mỹ của các
tác phẩm nghệ thuật KTS. Herbert W. Franke Leonardo trong nghiên
cứu The New Visual Age: The Influence of Computer Graphics on
Art and Society đề cập đến những ảnh hưởng của đồ họa vi tính trong
nghệ thuật và xã hội vào thời điểm những năm thập niên 80 của thế
kỷ XX, đưa ra những lập luận về sự phát triển trong lĩnh vực CNTT
đã và đang làm cho nghệ thuật KTS thâm nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào giới nghệ sĩ chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư trong xã
hội. Công trình nghiên cứu Visual Literacy Theory của Paul Messaris

về hình ảnh thị giác trong nhiều lĩnh vực từ truyền thông đến tâm lý
học, giáo dục, thẩm mỹ và thậm chí cả trong nghiên cứu văn hóa.
Nghiên cứu History of Art in the Digital Age: Problems and
Possibilities của William Vaughan cung cấp một tổng quan về sự tác
động của máy vi tính trong việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Công
trình nghiên cứu của Boden, M. Aesthetics and Interactive Art đưa ra
và khẳng định tính mới trong nghệ thuật tương tác cũng như sự quan
trọng của nó đối với lịch sử nghệ thuật, bảo trợ và thực hành nghệ
thuật. Bài viết Behind the Canvas: an Algorithmic Space Reflections
on Digital Art của Frieder Nake bàn nhiều về không gian trong hình
ảnh và không gian nghệ thuật. Bài viết nghiên cứu của George
Mallen On the relationship of computing to the arts and culture – an
evolutionary perspective đề cập đến vấn đề nghệ thuật trong kỷ
nguyên KTS, làm rõ được mối quan hệ của máy tính với nghệ thuật
và văn hóa. Frieder Nake cũng có bài viết Paragraphs on Computer
art, past and present là một tuyên ngôn của Nghệ thuật KTS. Bài
viết Creating continuity between computer art history and
contemporary art của Bruce Wands tìm hiểu phương thức tạo ra sự
liên tục giữa lịch sử nghệ thuật máy tính với các nghệ sĩ thế hệ mới,
những người lao động nghệ thuật trên máy tính một cách tự nhiên


3

nhằm tạo nên nền nghệ thuật đương đại. Trong nghiên cứu The
Computer as a dynamic medium của Nick Lambert đề cập đến không
gian đại diện trong các màn hình máy tính. Công trình nghiên cứu
của Anna Bentkowska-Kafel, Trish Cashen và Hazel Gardiner:
Digital Art History, A Subject in Transition, Computers and the
History of Art khẳng định nghệ thuật KTS không phải là một hoạt

động độc lập rời rạc được tách ra từ các loại hình nghệ thuật khác.
Mà nó chính là một phương pháp tiếp cận và có thể liên quan đến tất
cả các phương thức liên kết với các dạng thực hành nghệ thuật khác.
Ở Việt Nam, tài liệu của tác giả Đỗ Trung Tuấn Giới thiệu về
Đa phương tiện (ĐPT) có bàn về Multimedia giới thiệu khái quát về
Multimedia, mô tả các dạng của Multimedia, trong đó đề cập về các
tình huống dùng Multimeida, những vấn đề liên quan đến bản quyền
trong công nghiệp Multimedia. Tài liệu dịch của tác giả Cao Thụy và
Cao Bình về Multimedia và thế giới ảo giới thiệu khái quát về nghệ
thuật truyền thông ĐPT và những kiến thức cơ bản về thế giới ảo
cũng như những ứng dụng của Multimedia trong giáo dục. Tác giả
Mai Thanh Long và Nguyễn Thanh Tùng cũng có sách Ngành mỹ
thuật ĐPT đề cập và mô tả ngành mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam ở mức
độ nêu vấn đề, liệt kê và giải thích những kiến thức phổ thông trong
lĩnh vực mỹ thuật ĐPT. Luận văn Thạc sĩ của tác giả luận án nghiên
cứu đặc trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS.
Ngoài ra, tác giả cũng thực hiện một số bài viết nghiên cứu về mỹ
thuật ĐPT và hội họa KTS ở Việt Nam: bài nghiên cứu Thiết kế đồ
họa – Giảng dạy thiết kế đồ họa trong kỷ nguyên KTS đề cập đến
thiết kế đồ họa của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. Các bài viết:
Giảng dạy Mỹ thuật truyền thông ĐPT ở Việt Nam trong Kỷ nguyên
KTS; Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo Thiết kế mỹ
thuật ĐPT ở Việt Nam hiện nay; Một số vấn đề về ứng dụng Công
nghệ KTS trong Công nghệ dạy và học thiết kế ở Việt Nam hiện nay
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề giảng dạy nghệ thuật ĐPT ở Việt


4

Nam trong kỷ nguyên KTS. Thực trạng và giải pháp để phát triển đội

ngũ họa sĩ KTS ở Việt Nam. Ứng dụng Công nghệ khoa học kỹ
thuật, đặc biệt là CNTT trong giảng dạy và học tập mỹ thuật ĐPT...
Bài viết nghiên cứu Đặc trưng mỹ thuật ĐPT đề cập đến những đặc
trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam, những ưu điểm và hạn chế của
những đặc trưng này trong xã hội nói chung cũng như trong nghệ
thuật tạo hình nói riêng. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT đến
nghệ thuật thị giác đề cập đến phần còn thiếu trong hoạt động lý luận
phê bình nghệ thuật Việt Nam khi chưa có nhận định, đánh giá cũng
như sự định hướng cần thiết cho sự phát triển của nghệ thuật thị giác
ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ thuật
ĐPT đến sự phát triển của nghệ thuật thị giác Việt Nam trong kỷ
nguyên KTS cũng đề cập đến những giải pháp quản lý vĩ mô với
những chiến lược đào tạo dài hạn, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ
“họa sĩ số”... Bài viết: Hội họa KTS trong mối quan hệ với hội họa
truyền thống và bài viết Internet trong đào tạo hội họa kỹ thuật số ở
Việt Nam cũng bàn nhiều về hội họa KTS và giảng dạy hội họa KTS
ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nghệ
thuật ĐPT trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng trên thực tế rất
cần phải có những công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên
sâu, tiếp cận liên ngành để luận giải và đúc kết những vấn đề về lý
luận khoa học và thực tiễn của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu chuyên sâu về tranh KTS ở Việt Nam. Luận án hệ
thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nêu lên được những đặc
trưng ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam; luận bàn về
phương thức tạo hình tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ bản chất cũng
như vai trò của họa sĩ trong quá trình sáng tác tranh KTS. Luận án
tạo cơ sở tiền đề cho những nghiên cứu chuyên sâu hơn và những
hướng nghiên cứu khác về nghệ thuật KTS ở Việt Nam, đồng thời



5

cũng đóng góp một số lý luận mang tính ứng dụng và thực tiễn phục
vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập mỹ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. Phạm
vi nghiên cứu: Nghiên cứu từ năm 2000 đến nay; tập trung nghiên
cứu ở hai trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam
là Hà Nội và TP. HCM.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận án thuộc chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật.
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở mỹ thuật học, thông qua nghiên
cứu đa ngành, liên ngành như: văn hóa, lịch sử, khoa học, nghệ thuật,
mỹ thuật… Quá trình nghiên cứu của luận án thông qua các phương
pháp chủ yếu như: nghiên cứu văn bản, tài liệu; nghiên cứu thực tế
và điền dã; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn giải; phương pháp
lịch sử; nghiên cứu khảo sát; thể nghiệm.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Ngày nay, khi họa sĩ sử dụng máy tính như là một phương tiện,
công cụ để hỗ trợ sáng tác nghệ thuật, đã làm nảy sinh vấn đề rằng
liệu tranh KTS có phải là nghệ thuật hay không? Giả thiết rằng nếu
tranh KTS cũng được coi là một dạng nghệ thuật, vậy thì đặc trưng
của nó là gì? Hơn thế nữa, CNTT hiện nay đang phát triển rất nhanh
trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội trong đó có nghệ thuật. Giả thiết rằng ở Việt
Nam hiện nay có nhiều người vẽ tranh KTS, vậy tranh KTS ở Việt
Nam có những khuynh hướng sáng tác và đặc trưng nào? Những
phương thức vẽ nào có thể làm cho tranh KTS trở nên sống động

hơn, hấp dẫn hơn, và có giá trị nghệ thuật cao? Cần có những định
hướng và giải pháp nào nhằm phát triển tranh KTS ở Việt Nam?
Thông qua nghiên cứu, đề tài luận án sẽ làm sáng tỏ những giả
thuyết và câu hỏi nghiên cứu nêu trên.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án


6

Đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo về lý thuyết và thực tiễn
cho các nhà phê bình, lý luận nghệ thuật, nhà quản lý văn hóa nghệ
thuật; họa sĩ, nhà thiết kế đang hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực
nghệ thuật KTS. Đề tài nghiên cứu đưa ra cách nhìn nhận có hệ
thống về đặc trưng ngôn ngữ tạo hình và những phương tiện biểu đạt
tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải
pháp tích cực góp phần dự báo và định hướng cho sự phát triển của
nghệ thuật KTS ở Việt Nam.
8. Một số khái niệm công cụ
Luận án đưa ra và giải thích một số khái niệm công cụ được
thao tác và sử dụng trong luận án: hội họa; hội họa giá vẽ; nghệ
thuật đa phương tiện; ngôn ngữ tạo hình hội họa; nghệ thuật
tradigital; họa sĩ kỹ thuật số.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (19 trang), Kết luận (04 trang), Tài liệu
tham khảo (12 trang) và Phụ lục (70 trang). Nội dung nghiên cứu của
đề tài được cấu trúc gồm có 03 Chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tranh KTS ở Việt Nam (36
trang).
Chương 2: Đặc trưng của tranh KTS ở Việt Nam (39 trang).
Chương 3: Luận bàn về phương thức biểu đạt tranh KTS ở

Việt Nam hiện nay (31 trang).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái lược về tranh KTS
Các nghệ sĩ trên thế giới bắt đầu sử dụng công nghệ để tạo ra
nghệ thuật KTS vào năm 1960. Khoảng nửa sau của thế kỷ XX và
đặc biệt là trong mười năm đầu của thế kỷ XXI, nghệ thuật KTS phát
triển rất nhanh và thực sự trở thành một phương tiện được nhiều
người trên thế giới biết tới, đặc biệt là giới họa sĩ.


7

1.1.1. Khái niệm Tranh kỹ thuật số
Digital painting (tranh KTS) là hình thức nghệ thuật dùng kỹ
thuật vẽ giống như trong hội họa giá vẽ. Những kỹ thuật này được áp
dụng với các công cụ vẽ KTS nhằm tạo ra tác phẩm một cách trực
tiếp trên máy tính. Hình ảnh tác phẩm có thể được lưu trữ dưới dạng
băng từ hoặc KTS.
Về công cụ và phương tiện biểu đạt: phần mềm hỗ trợ vẽ KTS
cung cấp cho họa sĩ nhiều kiểu cọ vẽ, màu vẽ và hiệu ứng vẽ khác
nhau; về chất lượng và nội dung của tác phẩm: tương tự như hội họa
giá vẽ truyền thống, tác phẩm hoàn thiện mới thực sự quan trọng; về
bản chất: có thể nói tranh KTS là một thể loại của hội họa giá vẽ
truyền thống; về mặt cảm thụ: tác phẩm được xem thông qua màn
hình máy tính hoặc được kết xuất ra bằng phương pháp in KTS trên
một chất liệu như giấy hoặc vải... Ngày nay, phần lớn họa sĩ kết hợp
kỹ thuật và chất liệu của hội họa giá vẽ với KTS trong tác phẩm của
mình, hình thành nên một dạng tranh tổng hợp: Tradigital Art.
1.1.2. Đặc trưng của tranh KTS

1.1.2.1. Đặc trưng về hình thức và truyền thông tác phẩm
Tranh KTS có 2 nguyên lý đặc trưng cơ bản: “biến đổi” - tác
phẩm hội họa tồn tại ở nhiều biến thể khác nhau; “chuyển mã” chuyển dịch tác phẩm sang một định dạng khác. Tranh KTS được tạo
ra bằng phần mềm hỗ trợ vẽ như Adobe Photoshop hoặc Corel
Painter,… và được lưu bằng định dạng cụ thể tùy thuộc vào phương
thức tác phẩm được xem. Tranh KTS có thể được in, sao chép và sản
xuất hàng loạt nhằm nhân rộng và chuyển tới công chúng một cách
nhanh chóng và hiệu quả thông qua nhiều kênh truyền thông như:
truyền hình, internet, CD tương tác, ấn phẩm…
1.1.2.2. Đặc trưng về quy trình vẽ và sáng tạo
Quá trình vẽ tranh KTS về cơ bản gần giống với vẽ tranh giá vẽ.
Một bức tranh KTS bao gồm không chỉ là một hình ảnh cuối cùng,
mà còn là công nghệ KTS trợ giúp họa sĩ trong quá trình vẽ; sự


8

tương tác giữa con người và máy tính khi vẽ và họa sĩ KTS kết hợp
các kỹ thuật của hội họa giá vẽ với công nghệ trong sáng tác.
1.1.2.3. Đặc trưng về phương thức tạo hình tác phẩm
Vẽ tranh trên máy tính có thể được xem như là một công nghệ
“nhẹ nhàng”. Họa sĩ không cần phải tiếp xúc với những mùi độc hại
của sơn dầu, họ cũng không cần bận tâm về hàng tá cọ vẽ, bay vẽ,
bút chì, bảng màu… Cái họ cần chỉ là chiếc máy vi tính với những
thiết bị hỗ trợ vẽ và chiếc máy in. Nếu xét về nghệ thuật, vẽ tranh
trên máy vi tính cũng gần giống như vẽ tranh hội họa giá vẽ. Tuy
nhiên, những tiện ích của công nghệ KTS có thể làm tăng thêm hiệu
quả thị giác bằng những hiệu ứng đặc biệt. Về phương thức tạo hình:
hình ảnh KTS gồm nhiều lớp. Khi thể hiện tác phẩm, họa sĩ có thể
lưu tiến trình sáng tác thành từng bước hoặc lưu một phần của tác

phẩm và họ có thể quay trở lại để vẽ hoàn tất tác phẩm.
1.1.2.4. Đặc trưng về ngôn ngữ tạo hình các yếu tố thị giác
Một số đặc trưng về ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS: tỷ lệ
của không gian thao tác; ánh sáng và màu sắc KTS; điểm ảnh KTS;
bố cục thường dùng dạng lưới (grid); ngoài không gian truyền thống
(dài, rộng, sâu) còn có chiều thời gian và chiều tương tác; đặc trưng
về định dạng và độ phân giải của tranh KTS; đặc trưng hình ảnh KTS
(vector và bitmap). Ngoài những đặc trưng về ngôn ngữ tạo hình,
tranh KTS còn có những đặc trưng khác liên quan đến kỹ thuật và
công nghệ: chất lượng tác phẩm phụ thuộc vào thiết bị kết xuất; thiết
bị hiển thị màn hình; độ phân giải màn hình; độ phân giải hình ảnh;
độ phân giải kết xuất; định dạng hình ảnh; mô hình màu sắc để xây
dựng tác phẩm; thiết lập tùy biến trên thiết bị người sử dụng...
1.1.2.5. Đặc trưng về sự tương tác giữa họa sĩ và máy tính
Đặc trưng chủ yếu của tranh KTS chính là “sự giao tiếp” của
họa sĩ với tác phẩm của mình. Thông qua thiết bị màn hình trung
gian với một giao diện người dùng. Hình thức giao tiếp giữa họa sĩ
và máy vi tính là quá trình tương tác hai chiều trong quá trình vẽ: từ


9

máy tính tới họa sĩ và từ họa sĩ tới máy vi tính; Ngoài ra, trong lĩnh
vực nghệ thuật KTS còn có sự tương tác qua lại giữa người xem
(công chúng) với tác phẩm.
1.2. Sự hình thành nghệ thuật đa phương tiện và tranh kỹ
thuật số
1.2.1. Lược sử tranh kỹ thuật số trên thế giới
1.2.1.1. Sự xuất hiện của nghệ thuật đa phương tiện trên thế
giới

Năm 1965 thuật ngữ “Multimedia” được sử dụng lần đầu tiên
trên thế giới để nói về một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Từ những
năm 1950 đến 1960: thiết bị màn hình đồ họa xuất hiện tại Đức
(1959); SAGE bút sáng thao tác với màn hình (1960); William Fetter
đưa ra phương pháp đồ hoạ vi tính (1960). Từ 1960 đến 1970: Ivan
Sutherland đưa ra khả năng tạo mới, hiển thị và thay đổi được những
hiện thực theo thời gian thực trên màn CRT (1963). Từ 1970 đến
1980: đồ hoạ điểm, bắt đầu sử dụng chuẩn đồ hoạ GKS. Từ 1980 đến
1990: phát triển mạnh về phần cứng, thiết bị hình học đồ hoạ Silicon.
PHIGS xác định các phương pháp chuẩn cho các mô hình thời gian
thực và lập trình hướng đối tượng; Giao diện người dùng và máy. Từ
1990 đến 2000: giao diện chương trình ứng dụng; các triển vọng
phần cứng: Texture mapping, blending… 2000 đến hiện nay: nhân
loại chứng kiến sự xuất hiện và phát triển vượt bậc của ảnh hiện thực
với card đồ hoạ máy tính. Ngày nay, những phần mềm hỗ trợ vẽ
tranh KTS - trong số đó Painter Corel và Adobe Photoshop đóng vai
trò chủ đạo - tiếp tục phát triển cùng với phần cứng máy tính, tranh
KTS có nhiều hiệu ứng sáng tạo rất đa dạng và phong phú…
1.2.1.2. Những sự kiện trong lĩnh vực nghệ thuật đa phương tiện
làm nền tảng cho sự xuất hiện của tranh kỹ thuật số
Giữa thập niện 1960 của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện
nhiều nghệ sĩ quan tâm đến những hoạt động sáng tạo nghệ thuật
trong lĩnh vực giao thoa giữa nghệ thuật và công nghệ và đã hình


10

thành nên nghệ thuật vi tính. Hai cuộc triển lãm đầu tiên về nghệ
thuật vi tính do các nhà khoa học tổ chức ở phòng triển lãm tranh
Wise (NewYork và Stuttgart Đức) năm 1965. Năm 1967, Kluver và

Robert Rauschenberg kêu gọi một số nghệ sĩ và kỹ sư công nghệ
thành lập một hiệp hội “hợp tác - phát triển giữa nghệ sĩ và kỹ sư”.
1.2.1.3. Một số nghệ sĩ tiên phong trong lĩnh vực nghệ thuật kỹ
thuật số
Vera Molnar; Manfred Mohr; Larry Cuba; Lillian Schwartz;
Peter Mc Lane; Herbert Franke, Frieder Nake; George Nees; Harold
Cohen, Duane Palyka, Darcy Gerbarg, Colette; Charles Bangert… đã
đóng góp nhiều cho sự phát triển cuả nghệ thuật KTS thuở ban đầu.
1.2.2. Sự xuất hiện của nghệ thuật đa phương tiện dẫn đến sự
hình thành và phát triển tranh kỹ thuật số ở Việt Nam
Sự phát triển của CNTT có ảnh hưởng đến lớn nghệ thuật. Ở
Việt Nam dần xuất hiện nghệ thuật ĐPT.
1.2.2.1. Sự xuất hiện của nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam
Trong lĩnh vực mỹ thuật hình thành một đội ngũ “hoạ sĩ số”.
Nhiều cơ sở đào tạo nghệ thuật ĐPT trong nước ra đời là kết quả tất
yếu của sự vận động và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường
nghệ thuật ĐPT: khoa thiết kế Mỹ thuật truyền thông ĐPT của
trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai (2002). Đại học Mỹ
thuật Việt Nam đã có sự kết hợp giữa đồ họa tạo hình và đồ họa ứng
dụng trong sự giao thoa và cộng hưởng của nghệ thuật tạo hình và
thiết kế. Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh cũng đã mở ra một
hướng đào tạo nghệ thuật ĐPT bằng cách kết hợp giữa đồ họa tạo
hình và đồ họa ứng dụng, đưa những học phần minh họa KTS vào
giảng dạy trong chương trình của khoa Đồ họa và Mỹ thuật ứng
dụng. Ngoài ra, cũng có một số cơ sở đào tạo mỹ thuật và mỹ thuật
công nghiệp như: Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội, Đại học
Nghệ thuật Huế, Đại học Kiến trúc TP. HCM... Bên cạnh hệ thống
các cơ sở đào tạo công lập, ở Việt Nam còn xuất hiện các cơ sở đào



11

tạo công lập và liên kết với nước ngoài: RMIT; ARENA; Raffles
LaSalle; Kent…
1.2.2.2. Những hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật KTS thúc
đẩy sử phát triển của tranh KTS ở Việt Nam
Một số cuộc triển lãm nghệ thuật KTS đáng chú ý: Cứ làm đi
của ARENA; Digital Art: Unreal 49,9% ; Mộng du và Huyền thoại;
Triển lãm tranh vẽ trên máy vi tính do Câu lạc bộ họa sĩ trẻ thuộc
Hội mỹ thuật Việt Nam với chủ đề Nghệ thuật thị giác KTS. Hội Mỹ
thuật TP. HCM (2008) cũng tổ chức được một số triển lãm về digital
art; triển lãm “Không gian ảo” (2009) đánh dấu sự ra đời câu lạc bộ
Nghệ thuật KTS (Digital Art) đầu tiên ở Việt Nam…
Tiểu kết
Vẽ tranh KTS là hình thức dùng kỹ thuật vẽ gần giống như
trong hội họa giá vẽ. Những kỹ thuật này được họa sĩ áp dụng trên
các công cụ vẽ KTS nhằm tạo ra tác phẩm hội họa một cách trực tiếp
trên máy tính. Tranh KTS chủ yếu xây dựng trên những kiến thức
nền tảng của nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên, tranh KTS cũng có
những đặc trưng riêng. Đó là quá trình số hóa tất cả những tín hiệu
thị giác của nghệ thuật thị giác: màu KTS; hình ảnh KTS; không gian
thể hiện của tác phẩm; hình thức tương tác của nghệ sĩ với tác phẩm
và những phương tiện biểu đạt tranh KTS…
Thế giới biết đến nghệ thuật số thông qua những cuộc triển lãm
nghệ thuật số đầu tiên của những nghệ sĩ: Vera Molnar, Manfred
Mohr, Larry Cuba, Lillian Schwartz, Charles Csuri, Michael Noll,
June Nam Paik, Frieder Nake, John Whitney, Herbert Franke,
George Nees từ Đức; Harold Cohen, Duane Palyka, Darcy Gerbarg,
Colette và Charles Bangert từ Hoa kỳ… Họ là những người tiên
phong trong lĩnh vực nghệ thuật KTS và đã góp phần đáng kể cho sự

phát triển cuả nghệ thuật vi tính trên thế giới thuở mới hình thành.
Các nghệ sĩ Việt Nam lĩnh hội và phát triển nghệ thuật ĐPT
thành một trong những lĩnh vực sôi động nhất trong nền văn hóa


12

nghệ thuật hiện nay. Sự xuất hiện của nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam
chủ yếu được đánh dấu bằng sự ra đời của những trường cao đẳng,
đại học chuyên đào tạo nghệ thuật và các cơ sở liên kết đào tạo với
nước ngoài. Hiện nay, đã hình thành một thế hệ họa sĩ KTS trẻ năng
động. Những hoạt động nghệ thuật KTS của họ đã và đang góp phần
xây dựng nền nghệ thuật Việt Nam phát triển trong kỷ nguyên KTS.
Chương 2
ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH KTS Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm tranh KTS ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát nghệ thuật KTS ở Việt Nam và một số nước
trong khu vực
Hoạt động nghệ thuật và triển lãm ở Việt Nam gần đây đã bắt
đầu có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều thể loại tác phẩm, nhiều
khuynh hướng sáng tác và cách tân nghệ thuật. Tuy nhiên, sự phát
triển của nghệ thuật KTS ở Việt Nam hiện nay vẫn còn manh mún,
bộc phát chưa có những chiến lược phát triển dài lâu. Cần có định
hướng phát triển nguồn nhân lực nghệ thuật KTS. Bên cạnh đó,
phương pháp sáng tác tranh KTS ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có
định hướng một cách rõ nét. Đa số chỉ là những thể nghiệm theo
nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau. Cần có một cơ chế, hệ
thống chính sách, chiến lược cho sự phát triển của nghệ thuật KTS
nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển nghệ thuật KTS trong
nước và hội nhập cùng với các nước trong khu vực.

Tranh KTS của Indonesia vẫn giữ được bản sắc bản địa một
cách mạnh mẽ. Họ thường xuyên kế thừa những giá trị văn hóa
truyền thống… Ở Singapore tranh KTS không phát triển theo một
hướng cụ thể. Trong khi đó tranh KTS Malaysia đã và đang hình
thành những thay đổi trong cách tiếp cận mới. Đối với tranh KTS ở
Thái Lan, trong quá khứ chủ yếu bị ảnh hưởng của hội họa tôn giáo.
Tuy nhiên, những nghệ sĩ Thái trẻ sinh ra trong thập niên 1970 và


13

1980, đang hình thành xu hướng mới với những tác phẩm truyền
thông mới (trên nền tảng KTS)… Tranh KTS Philippines có một
cộng đồng nghệ thuật lớn và mạnh mẽ nhất Đông Nam Á do nó bắt
nguồn từ bốn di sản văn hóa lớn của châu Á, châu Âu, Mexico và
Mỹ.
2.1.2. Về thể loại tranh
Tranh KTS ở Việt Nam được họa sĩ sáng tác với nhiều hình
thức đa dạng và phong phú, bao gồm: nghệ thuật tạo hình; tranh
minh họa; nghệ thuật màn hình; tranh truyện, hoạt hình, biếm họa; đồ
hoạ; tranh cổ động…
2.1.3. Về xây dựng hình tượng nghệ thuật và đề tài sáng tác
Nội dung tranh KTS ở Việt Nam cũng đa dạng và phong phú
nhưng chưa thực sự đặc sắc. Đa số bị ảnh hưởng của những phong
cách quốc tế. Cũng có những đề tài mang tính thời sự được một số ít
các họa sĩ KTS thể hiện: sự kiện chính trị, xã hội, thể thao, hoặc
những vấn đề liên quan đến môi trường,… Những đề tài mang tính
triết lý nhân sinh, tranh sinh hoạt cũng được họa sĩ KTS Việt Nam
bước đầu chú ý khai thác sáng tác. Những mảng đề tài lấy cảm hứng
từ truyền thuyết, lịch sử dân tộc, truyện cổ tích văn chương Việt

Nam chưa được chú trọng nhiều.
2.2. Khuynh hướng sáng tác tranh KTS ở Việt Nam
Tranh KTS ở Việt Nam hiện nay chứa đựng nhiều hướng cách
tân nghệ thuật. Xuất hiện các khuynh hướng sáng tác và tìm tòi thử
nghiệm của họa sĩ KTS ở Việt Nam hiện nay: Hiện thực; Ấn tượng;
Lập thể; Siêu thực; Trừu tượng, Pop art…
2.2.1. Khuynh hướng hiện thực
Nhiều họa sĩ KTS Việt Nam lấy hiện thực xã hội và những vấn
đề có thực của cuộc sống làm đối tượng sáng tác nhằm cung cấp cho
công chúng thưởng thức những bức tranh chân thực, sống động, quen
thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung quanh...
2.2.2. Khuynh hướng Ấn tượng


14

Tranh KTS được nhiều họa sĩ Việt vẽ rất nhanh nhằm ghi lại
một cách tổng quan khung cảnh hoặc nhân vật cần diễn đạt và nó
được thể hiện một góc nhìn mới. Các họa sĩ thường chọn chủ đề về
cuộc sống đương thời và luôn được vẽ với tông màu sáng dịu và tinh
khiết…
2.2.3. Khuynh hướng lập thể
Một số họa sĩ thường bóp méo và làm biến dạng các nhân vật và
các hình thức trong thế giới tự nhiên; hình thể được bố cục chồng
chéo, đan xen nhau; không gian của tác phẩm được thể hiện đồng
thời tại nhiều thời điểm khác nhau với các góc nhìn khác nhau…
2.2.4. Khuynh hướng siêu thực
Nhiều họa sĩ KTS cố gắng diễn tả tiềm thức bằng cách diễn đạt
các vật thể và sự việc như được thấy trong những giấc mơ. Họ
thường theo đuổi những chủ thể rất bình dị đặt trong một bối cảnh bí

ẩn, hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa
mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng
thái không thực…
2.2.5. Khuynh hướng Trừu tượng
Họa sĩ KTS Việt thường sử dụng ngôn ngữ phi hình thể của các
yếu tố thị giác nhằm gợi ra phần nội hàm của đối tượng cụ thể. Vẻ
đẹp của các đối tượng được được diễn đạt bằng những hình khối hình
học...
2.2.6. Khuynh hướng Pop Art
Mỉa mai, châm biếm và sự chế nhạo là những khía cạnh nổi bật
của phong trào nghệ thuật Pop art ở Việt Nam. Có thể nói khuynh
hướng Pop art gần gũi công chúng Việt hơn Siêu thực và Lập thể.
2.2.7. Khuynh hướng hiện thực huyền ảo
Tranh KTS hiện thực huyền ảo ở Việt Nam thường có những
yếu tố ảo cấu thành bộ phận tự nhiên của môi trường hiện thực.
2.2.8. Những khuynh hướng khác:
Ngoài những khuynh hướng chính, tranh KTS ở Việt Nam cũng


15

có những dạng khác như: mỉa mai, châm biếm; cóp nhặt; bóp méo
thời gian; tối giản luận; tối đa luận; nghệ thuật Ý niệm; Faction; điều
khiển học; viễn tưởng; phân mảnh; hoang tưởng.
2.3. Đặc trưng tạo hình trong tranh kỹ thuật số ở Việt Nam
Một là, ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam được vẽ
với lối tạo hình cách điệu nhẹ nhàng, thuận mắt. Cách nói ẩn ý, tế nhị
và pha chút thâm sâu cho dù tác phẩm có được thể hiện dưới hình
thức đồ họa trang trí. Bên cạnh lối vẽ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tranh
KTS Việt Nam thường có cấu trúc bố cục âm dương.

Hai là, bố cục tạo hình các yếu tố thị giác trong tranh KTS ở
Việt Nam chủ yếu dàn hình và mảng trên mặt tranh, ít phô diễn nhiều
ảo giác ánh sáng và bóng tối. Cách biểu hiện vừa nhẹ nhàng, vừa tạo
nên sự tập trung thị giác vào nhân vật và điểm chính của bố cục để
rồi người xem tưởng tượng thêm những gì có thể có và cần thiết của
bối cảnh xung quanh. Chính điều này sẽ khuyến thích người xem
cùng sáng tạo với họa sĩ. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ nhiều khuynh
hướng sáng tác khác nhau nhưng lối bố cục trong tranh KTS của các
họa sĩ Việt Nam thường có không gian nhỏ, hẹp và khép kín.
Ba là, tranh KTS ở Việt Nam thường kết hợp ngôn ngữ của hội
họa với đồ họa làm mờ ranh giới giữa nghệ thuật và thiết kế. Đa số
họa sĩ KTS ở Việt Nam hiện nay đều hoạt động trong lĩnh vực thiết
kế. Họ dễ dàng đưa hội họa hiện đại vào tranh thông qua việc kết
hợp ngôn ngữ của hội họa với ngôn ngữ thiết kế.
Bốn là, mức độ cách điệu, cường điệu trong tạo hình tranh KTS
ở Việt Nam còn thấp, dè dặt và lệ thuộc nhiều vào cái thực. Hình
tượng nhân vật của tranh KTS ở Việt Nam vẫn còn ở mức chung
chung và bị ảnh hưởng nhiều bởi lối tạo hình lai tạo, ghép nhặt từ
nhiều nơi.
Năm là, mức độ ứng dụng công nghệ KTS trong tạo hình tranh
KTS còn thấp và chưa chuyên nghiệp. Họa sĩ KTS ở Việt Nam
thường hay lạm dụng những lệnh vẽ đã được xây dựng sẵn trong các


16

phần mềm nên thường tạo nên những hình ảnh chuyển động múa
may với quá nhiều ảo giác của nét và màu. Màu sắc và đường nét
chưa thực sự tiết giản để tác phẩm trở nên súc tích hơn.
Tiểu kết

Tranh KTS ở Việt Nam phát triển nhanh và mang trong nó
những đặc trưng riêng thể hiện ở đặc trưng ngôn ngữ tạo hình; thể
loại và phương thức thể hiện tác phẩm; nội dung và đề tài sáng tác;
đội ngũ sáng tác và hoạt động nghệ thuật trong lĩnh vực nghệ thuật
ĐPT ở Việt Nam. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến nền nghệ thuật trong
nước: đa dạng hóa loại hình nghệ thuật; thúc đẩy sự phát triển của
công nghệ truyền thông KTS; tạo điều kiện cho mỹ thuật ứng dụng
phát triển nhanh; nâng cao vai trò và sự ảnh hưởng của nghệ thuật
trong nền văn hóa... Ngày càng nhiều những thử nghiệm sáng tạo,
những tìm kiếm ngôn ngữ tranh KTS mới, vừa phù hợp với sự phát
triển chung của đất nước đồng thời cũng vừa thể hiện được tài năng
của họa sĩ Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Sự đa dạng trong lối thể
hiện với cách tạo hình khác nhau khiến cho các tác phẩm sinh động,
thu hút hơn thông qua nhiều khuynh hướng sáng tác. Tuy nhiên, việc
phát triển nghệ thuật KTS ở Việt Nam hiện nay vẫn còn manh mún,
bộc phát chưa có những chiến lược phát triển dài lâu. Cần phải có
những giải pháp quản lý từ vĩ mô cho đến những chiến lược dài hạn
đầu tư nhân lực và vật lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng và phát triển
thế hệ họa sĩ KTS trẻ. Cần có một cơ chế, hệ thống chính sách, chiến
lược cho sự phát triển của nghệ thuật KTS nhằm tạo môi trường
thuận lợi để phát triển nghệ thuật KTS.
Chương 3
LUẬN BÀN VỀ PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT
TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Một số vấn đề của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Nhận thức về tranh KTS ở Việt Nam


17


Một là, về vai trò của công nghệ và chất liệu KTS trong tranh
KTS ở Việt Nam: thông qua sáng tạo, họa sĩ không ngừng thể
nghiệm, kết hợp những ưu điểm của các phương tiện truyền thống
bằng cách bổ sung vào đó những tính năng nổi trội của KTS. Trên
thực tế, yếu tố thẩm mỹ của tranh KTS nằm ở hình ảnh cuối cùng, và
các công nghệ KTS được sử dụng để tạo ra hình ảnh chỉ đơn giản là
một công cụ, cũng giống như cọ vẽ sơn dầu trong hội họa giá vẽ.
Họa sĩ KTS sử dụng máy tính như là một công cụ biểu đạt nhằm đạt
được hiệu quả thị giác như mong muốn. Họ không sử dụng các phần
mềm như một phương thức thay thế cho phương tiện truyền thống
mà là sự bổ sung trong phương thức biểu đạt tác phẩm.
Hai là, về công chúng và cách tiếp nhận tranh KTS ở Việt Nam:
tranh KTS được giới thiệu đến công chúng theo những cách thức
mới. Người xem có thể thưởng thức tác phẩm thông qua kết nối
Internet, qua các phương tiện truyền thông đại chúng và các dạng ấn
phẩm...
Ba là, về họa sĩ KTS ở Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay, bên
cạnh những họa sĩ KTS trẻ năng động, sáng tạo và có tay nghề vững,
cũng đang có nguy cơ hình thành một thế hệ họa sĩ bị số hoá, với
những tác phẩm khô khan, thiếu cảm xúc sáng tạo… Bên cạnh đó,
vẫn còn một số họa sĩ chưa tiếp xúc nhiều với thế giới nghệ thuật
KTS, chưa thấy sự đa dạng của các hình thức nghệ thuật và gắn liền
với nó là sự đa dạng của quan điểm và phương pháp sáng tác...
3.1.2. Về định hình phong cách sáng tác
Hiện nay, những tác phẩm KTS ở Việt Nam có nội dung và
hình thức biểu đạt đa dạng và phong phú. Những phong cách quốc tế
cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến tác phẩm sáng tác. Sự lai tạp phong
cách hiện nay cũng là điều đáng lo ngại… Hiện nay, điểm hạn chế
nhất của phần lớn họa sĩ KTS trẻ là họ thiếu một nền tảng vững chắc
về nghệ thuật. Một số “nghệ sĩ” sùng ngoại đã bị “hòa tan” khi hội

nhập với hội họa thế giới.


18

3.1.3. Về nguồn nhân lực – đội ngũ họa sĩ kỹ thuật số
Kỷ nguyên KTS đòi hỏi hoạ sĩ Việt Nam phải có khả năng làm
việc ở bất kỳ một lĩnh vực nào của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Có
thể chia thành hai nhóm chính: nhóm họa sĩ xuất thân từ hội họa, mỹ
thuật tạo hình. Nhóm xuất thân từ những ngành khác có liên quan
đến nghệ thuật thị giác: thiết kế, mỹ thuật công nghiệp, kiến trúc…
3.1.4. Về đào tạo họa sĩ kỹ thuật số
Hiện nay vẫn còn một khoảng trống rất lớn trong “thị trường”
đào tạo nghệ thuật KTS của Việt Nam. Do đó, các trường đào tạo mỹ
thuật có khuynh hướng cải tiến chương trình đào tạo của mình cho
phù hợp hơn với nhu cầu xã hội và sự phát triển biến đổi không
ngừng của công nghệ. Chiến lược, giải pháp đào tạo và bồi dưỡng
giảng viên trong lĩnh vực nghệ thuật KTS cũng chưa được chú trọng.
Chương trình đào tạo (mỹ thuật) của các trường trong cả nước cũng
khác nhau… Có hai giải pháp chính đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
họa sĩ nghệ thuật ĐPT: đào tạo hàn lâm; đào tạo bồi dưỡng họa sĩ tạo
hình trở thành những họa sĩ chuyên về nghệ thuật KTS.
3.2. Phương thức biểu đạt tranh KTS ở Việt Nam
3.2.1. Sử dụng Internet như là một công cụ hỗ trợ sáng tác
tranh kỹ thuật số
Ở Việt Nam hiện nay, một số cơ sở đào tạo mỹ thuật chưa
khuyến khích sinh viên hướng đến vẽ tranh KTS. Nếu không có
những diễn đàn nghệ thuật và cộng đồng nghệ sĩ KTS trên mạng
Internet trong những năm qua, họa sĩ KTS ở Việt Nam sẽ khó có thể
tiếp cận và phát triển nghệ thuật KTS của mình được. Cần trang bị

cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc sử dụng
internet như là một công cụ để học tập và sáng tạo. Về vấn đề bản
quyền tác giả KTS: những kiến thức số hóa thông tin bản quyền tác
giả cần được họa sĩ KTS hiểu biết và tôn trọng khi đưa tác phẩm của
mình vào thị trường hoặc “lưu thông” trên internet.
3.2.2. Ứng dụng phần mềm trong tạo hình tranh kỹ thuật số


19

Corel Painter và Adobe Photoshop thường được sử dụng tích
hợp với nhau, luôn có sự chuyển đổi qua lại giữa chúng trong quá
trình thể hiện tranh KTS. Việc sử dụng tích hợp nhiều phần mềm
cùng lúc sẽ cho phép họa sĩ khai thác tối đa sức mạnh của công nghệ
KTS. Hiện nay có hai khuynh hướng ứng dụng phần mềm vẽ tranh
KTS: phác thảo tìm ý và vẽ trực tiếp bằng máy tính; ứng dụng tính
năng nhân bản (stamp clone). Tuy nhiên, họa sĩ KTS cần vận dụng
những kiến thức về nguyên lý thị giác, nguyên lý sáng tạo, kiến thức
về nghệ thuật học… đồng thời kết hợp tốt giữa kỹ năng kỹ xảo bằng
tay với sự trợ giúp của máy tính, để tránh được tính khô khan, máy
móc trong tranh KTS.
3.2.3. Tạo hình nghệ thuật Tradigital bằng chất liệu tổng hợp
Xu hướng sáng tác hiện nay là Tradigital art - kết hợp cả chất
liệu KTS với chất liệu của hội họa giá vẽ trong một tác phẩm. Đối
với Tradigital art, tác phẩm không phải là một hình ảnh hoàn toàn do
máy tính tạo ra, nhưng cũng không phải là một một tác phẩm cắt dán
tổng hợp. Hiện nay, họa sĩ sử dụng hình ảnh trong tranh KTS bằng
hai cách: sử dụng hình ảnh như là một tài liệu tham khảo; tích hợp
hình ảnh vào tác phẩm. Máy tính có thể liên kết các phương tiện
thành một nhằm tăng cường khả năng hiển thị về mặt thị giác cho tác

phẩm. Tác phẩm tradigital art hoàn thiện có thể được xem trực tiếp
trên màn hình vi tính hoặc cũng có thể được kết xuất bằng những
thiết bị in hoặc máy vẽ…
Tiểu kết
Hiện nay, quá trình “số hoá” diễn ra nhanh và mạnh trên toàn
thế giới đã và đang đặt ra một vấn đề lớn trong việc dần thay đổi
quan niệm nghệ thuật cũng như thói quen sáng tạo của họa sĩ Việt
Nam. Cần quan niệm rằng, nghệ thuật là nghệ thuật. Cho dù tác
phẩm nghệ thuật có được sáng tác bằng chất liệu truyền thống hay
KTS thì nó vẫn là nghệ thuật. Do đó, nghệ thuật KTS sẽ không bao
giờ thay thế nghệ thuật truyền thống. Nó chỉ là một phương thức


20

khác, một phương tiện khác để biểu đạt tác phẩm. Ở Việt Nam hiện
nay, rất nhiều người đang sử dụng phần mềm vẽ KTS như là một
công cụ để sáng tác tranh. Nhưng đa số họ đều không thể được coi là
một nghệ sĩ KTS thực thụ. Họa sĩ KTS phải là người vừa thông thạo
các phần mềm vẽ KTS vừa có cảm nhận nghệ thuật dựa trên tính
thẩm mỹ. Điểm hạn chế của phần lớn họa sĩ KTS trẻ hiện nay là họ
thiếu một nền tảng nghệ thuật. Do thiếu bản lĩnh và tài năng nên
những “nghệ sĩ” sùng ngoại này đã bị hòa tan trong dòng chảy hội
nhập với nghệ thuật thế giới. Điều quan trọng đối với nghệ thuật
KTS ở Việt Nam hiện nay là họa sĩ cần có một nền tảng vững chắc
trong nghệ thuật. Thực hành nghệ thuật phải luôn được dựa trên một
kiến thức nền tảng của lý thuyết nghệ thuật kết hợp với khả năng ứng
dụng công nghệ KTS, trong đó có tư tưởng chủ đề hướng dẫn định
hướng. Quá trình hội nhập quốc tế vẫn diễn ra nhanh, mạnh và ngày
càng sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam.

Việc tiếp thu có chọn lọc và phát triển những lý thuyết và kỹ thuật
trong nghệ thuật là cần thiết và là động lực để những họa sĩ trẻ Việt
Nam tự tin trên con đường nghệ thuật kỹ thuật số của mình, góp
phần vào nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam nói riêng và của nhân
loại nói chung.
KẾT LUẬN
Thông qua nghiên cứu chuyên sâu về tranh KTS ở Việt Nam
hiện nay, có thể đúc rút lại một số những luận điểm cơ bản như sau:
Một là, đề tài nghiên cứu đưa ra cách nhìn nhận có hệ thống từ
lý luận cho đến hoạt động thực tiễn nghệ thuật về đặc trưng ngôn
ngữ tạo hình cũng như những phương tiện biểu đạt tranh KTS ở Việt
Nam hiện nay. Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh
vực nghệ thuật ĐPT trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng trên
thực tế vẫn chưa có những công trình nghiên cứu mang tính hệ
thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành để đưa ra vấn đề về lý luận và


21

thực tiễn của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. Điểm mới của đề tài
chính là đã phân tích và lý giải những vấn đề thực tiễn dựa trên cơ sở
mỹ thuật học, thông qua nghiên cứu đa ngành, liên ngành như: văn
hóa, lịch sử, khoa học, nghệ thuật, mỹ thuật… nêu lên được những
đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ cấu
trúc nền tảng mỹ thuật và cơ sở tạo hình, cũng như bố cục và thủ
pháp tạo hình tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ bản chất cũng như vai
trò của họa sĩ trong quá trình sáng tác và vẽ tranh KTS trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Đề
tài nghiên cứu cũng đã đề xuất những giải pháp tích cực từ việc phân
tích, tổng hợp trong thực tiễn nghệ thuật ở Việt Nam. Qua đó góp

phần dự báo và định hướng cho sự phát triển của nghệ thuật KTS ở
Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai.
Hai là, đề tài nghiên cứu làm rõ sự xuất hiện, hình thành và phát
triển của nghệ thuật KTS ở Việt Nam hiện nay. Tranh KTS xuất hiện
ở Việt Nam cùng với sự hình thành và phát triển của nghệ thuật
ĐPT. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và CNTT, đặc biệt là
sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu, thế giới như bị thu nhỏ lại,
ranh giới giữa các quốc gia cũng ngày càng trở nên mỏng manh hơn
và chỉ mang tính tương đối. Các thế hệ họa sĩ Việt Nam đã và đang
hội nhập được với mỹ thuật toàn cầu, hoà nhập với các trào lưu hội
họa đương đại trên thế giới… Nghệ thuật ĐPT xuất hiện như là một
tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế. Sự xuất hiện của nghệ thuật
ĐPT ở Việt Nam chủ yếu được đánh dấu bằng sự chuyển chuyển
hướng đào tạo của hàng loạt những trường cao đẳng, đại học đào tạo
về mỹ thuật để dần hình thành nghệ thuật ĐPT, nghệ thuật KTS. Bên
cạnh đó còn có những cơ sở liên kết đào tạo với nước ngoài thông
qua chính sách xã hội hóa giáo dục và hội nhập đổi mới giáo dục ở
Việt Nam để đào tạo nghệ thuật ĐPT. Sự xuất hiện của nghệ thuật
ĐPT đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến nền nghệ thuật trong
nước trên nhiều phương diện: quan niệm nghệ thuật, phương thức


22

truyền thông thị giác, thị trường nghệ thuật, phương tiện biểu đạt
nghệ thuật, trào lưu sáng tác…
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn nghệ thuật KTS ở Việt
Nam, đề tài nghiên cứu đã phân tích và kiến giải những đặc trưng
của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay:
Đặc trưng về ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS: tranh KTS

ở Việt Nam được vẽ với lối tạo hình cách điệu nhẹ nhàng; bố cục chủ
yếu dàn hình và mảng trên mặt tranh, thường có không gian nhỏ, hẹp
và khép kín, phần hậu cảnh cũng thường được giản lược hóa. Tranh
KTS ở Việt Nam ảnh hưởng từ nhiều khuynh hướng sáng tác khác
nhau và thường kết hợp ngôn ngữ của hội họa với đồ họa; mức độ
cách điệu, cường điệu còn thấp, lệ thuộc nhiều vào cái thực; khả
năng ứng dụng công nghệ KTS trong tạo hình tranh KTS chưa cao và
chưa chuyên nghiệp.
Đặc trưng về thể loại và phương thức thể hiện tranh KTS: một
số những dạng thức mà họa sĩ KTS ở Việt Nam thường khai thác để
sáng tác hiện nay là: nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật minh họa, nghệ
thuật màn hình, hoạt hình, thiết kế không gian ảo 3 chiều, mỹ thuật ứng
dụng…
Đặc trưng về nội dung và đề tài sáng tác tranh TKS: nội dung đa
dạng và phong phú nhưng chưa thực sự đặc sắc. Chủ yếu bị ảnh
hưởng của những phong cách quốc tế. Một số ít họa sĩ KTS đã bắt
đầu tìm ra con đường riêng của mình trong những mảng đề tài mang
tính thời sự, sinh hoạt, triết lý nhân sinh, truyền thuyết lịch sử, văn
học…
Đặc trưng về đội ngũ họa sĩ KTS: đa số họa sĩ làm việc trong
lĩnh vực nghệ thuật ĐPT đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau: mỹ thuật
tạo hình, mỹ thuật ứng dụng,… Thành phần tham gia cũng rất đa
dạng: họa sĩ, nhà thiết kế, kiến trúc sư, sinh viên… hoặc những
người đam mê nghệ thuật KTS.
Đặc trưng trong hoạt động nghệ thuật KTS: số lượng triển lãm


23

nghệ thuật KTS hàng năm rất ít. Điều này có thể thấy được thông

qua thực trạng họat động nghệ thuật KTS ở Việt Nam.
Bốn là, thông qua đề tài nghiên cứu có thể thấy rằng mặc dù
tranh KTS ở Việt Nam hiện nay đang phát triển nhanh nhưng vẫn
còn tồn tại trong nó nhiều hạn chế, bộc lộ tính chất chưa chuyên
nghiệp. Hơn thế nữa, hiện nay việc phát triển tranh KTS trong lĩnh
vực nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam vẫn còn mang tính bộc phát, cần có
những chiến lược phát triển dài lâu:
Để nâng cao tính thẩm mỹ của tác phẩm, họa sĩ cần biết và ứng
dụng tốt các kỹ thuật tạo hình ứng dụng KTS trong ngôn ngữ thể
hiện tác phẩm mỹ thuật. Trong quá trình sáng tác và thực hành nghệ
thuật, nếu họa sĩ biết khéo kết hợp nhuần nhuyễn giữa các kỹ năng
tạo hình của nghệ thuật thị giác, cộng hưởng với những thủ pháp tạo
hình KTS sẽ làm cho tác phẩm trở nên sống động hơn, hấp dẫn hơn
và có giá trị nghệ thuật cao.
Để có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và từng bước phát triển kinh tế tri thức thì việc
đầu tiên là cần phải chuẩn bị điều kiện đáp ứng con người cho lĩnh
vực này. Cần phổ cập CNTT, ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) từ cấp
tiểu học. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc phổ cập mỹ thuật phổ
thông qua quá trình đào tạo nghề ngắn hạn hoặc dài hạn. Đẩy mạnh
hơn nữa việc ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy nghệ thuật. Tăng
cường trang thiết bị hiện đại để người học có thể nghiên cứu và tiếp
cận trực tiếp với những công nghệ tiên tiến và những trào lưu nghệ
thuật số mới trên thế giới.
Để kiện toàn công tác đào tạo trong các trường đào tạo mỹ
thuật, cũng cần nâng cao chất lượng đào tạo nghệ thuật KTS và đội
ngũ họa sĩ KTS. Xây dựng chương trình đào tạo mỹ thuật đầy đủ và
chuẩn mực để tạo nên một nền hội họa Việt Nam đa dạng về mặt
hình thức, chất lượng về nội dung. Cần hạn chế và khắc phục những
thành kiến cũ, những cách nhìn hạn hẹp trong lĩnh vực nghệ thuật…



×