ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------***-------
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà nội – 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------***-------
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số:
6.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Trịnh Đức Thảo
Hà nội - 2005
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBCC
Cán bộ, công chức
GDPL
Giáo dục pháp luật
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Uỷ ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN 11
BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Tổng quan lý luận chung về giáo dục pháp luật.
Khái niệm và đặc điểm của giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam.
1.3.
Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam.
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ,
1.1.
1.2.
11
26
32
38
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
Khái quát thực trạng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.
2.2. Thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện
nay.
2.3. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO
2.1.
38
43
57
65
DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN
CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN
NAY
Tăng cƣờng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính 65
quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam - yêu
cầu cấp thiết hiện nay.
3.2. Phƣơng hƣớng tăng cƣờng giáo dục pháp luật cho cán bộ, 72
công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam hiện nay.
3.3. Các giải pháp tăng cƣờng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công 75
chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam hiện nay.
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
3.1.
"Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó, con
người đã thay đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một
nền giáo dục đã thay đổi" [25.tr10]
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
GDPL cho toàn thể nhân dân nói chung, cho đội ngũ cán bộ, công chức
nói riêng luôn là mối quan tâm lớn đối với Đảng và Nhà nước ta. Điều đó
được phản ảnh qua các văn kiện của Đảng và thể hiện trong nhiều quy định
pháp luật do Nhà nước ban hành.
Trong các văn kiện của Đảng, quan điểm coi trọng công tác GDPL được
thể hiện nhất quán và ngày càng rõ nét, đặc biệt là kể từ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI tới nay. Thể chế hoá quan điểm do Đảng đề ra, nhiều văn bản
pháp luật đã được Nhà nước ban hành, như: Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
kèm theo Quyết định số 136-2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001, trong đó xác
định một trong những nhiệm vụ cần thực hiện nhằm đảm bảo việc tổ chức
thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức
là “cung cấp cho cán bộ, công chức đầy đủ thông tin về chính sách, pháp luật
của Nhà nước để vận dụng, giải quyết công việc theo chức trách, thẩm
quyền"; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2003 được
Thủ tướng Chính phủ ban hành Phê duyệt chương trình phổ biến, GDPL từ
năm 2003 đến năm 2007; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12
năm 2004 do Thủ tướng Chính phủ ban hành Phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia về phổ biến, GDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010…
Trên cơ sở đó, thời gian qua, công tác GDPL nói chung, GDPL cho cán
bộ, công chức nói riêng đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng
2
cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng cao văn hoá pháp lý, bước đầu tạo
dựng sự ổn định trong lối sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của các
tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác GDPL vẫn
còn nhiều bất cập và hạn chế, nhất là GDPL cho các đối tượng ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới và hải đảo, trong đó có miền núi phía Bắc. Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong Chỉ thị 32-CT/TW của Ban Bí thư ngày 09/12/2003 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, GDPL, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã đưa ra nhận định:
"Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác phổ biến,
GDPL chưa được tập trung đúng mức; trách nhiệm của các cấp, các ngành đối
với công tác này chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên kết quả đạt được còn
thấp so với yêu cầu, sự hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân còn nhiều
hạn chế"
Về phía Quốc hội, tại kỳ họp thứ 6 - Khoá XI (tháng 11/2004), nhiều đại
biểu cho rằng chúng ta chưa đặt vấn đề này đúng tầm vóc, rằng, khi sách
GDPL còn nằm im trong tủ thì tình trạng vi phạm pháp luật gia tăng là điều
dễ hiểu. Đến kỳ họp thứ 7 - Khoá XI (tháng 5, tháng 6/2005), Quốc hội tiếp
tục nhấn mạnh: đưa các đạo luật vào cuộc sống, đó mới là điều có ý nghĩa
quyết định. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị [5.tr3]. Tất nhiên,
GDPL không chỉ đơn thuần là việc mang những quyển sách ra khỏi tủ sách
pháp luật. Và mặc dù xét trên phương diện lý luận, chúng ta không còn phải
tranh cãi nhiều về khái niệm, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL, song,
thực hiện đầy đủ, có hiệu quả những lý thuyết ấy trên thực tế quả thực còn là
câu chuyện trăn trở của những nhà giáo dục, các báo cáo viên, tuyên truyền
viên; còn là niềm hy vọng, sự nỗ lực của nhà làm luật, nhà quản lý.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đưa pháp luật vào cuộc sống? Làm thế
nào để GDPL đạt hiệu quả? Theo khoa học lý luận chung về nhà nước và
3
pháp luật, một trong những nguyên tắc được đề cập đến đầu tiên là “phải tính
toán khả năng lĩnh hội những kiến thức pháp lý của các tầng lớp dân cư, các
loại đối tượng, từ đó lựa chọn những biện pháp và hình thức giáo dục thích
hợp” [49.tr285].
Như vậy, đối tượng là yếu tố mà GDPL hướng tới, là yếu tố quyết định
hình thức, biện pháp, nội dung và cũng là yếu tố quan trọng kiểm định hiệu
quả GDPL.
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là đối tượng hết sức đông đảo và
quan trọng của GDPL. Thời gian qua, được sự chú trọng xây dựng và phát
triển của Đảng, của Nhà nước, họ đã không ngừng lớn mạnh. Tuy nhiên,
trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, đội ngũ này không phải không
có những bất cập, cả về lực lượng, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về kỹ
năng thực hiện công việc và về kiến thức pháp luật.
Sự bất cập này thể hiện rõ nét hơn ở các địa phương miền núi phía Bắc,
xuất phát từ nhiều lý do khách quan và chủ quan.
Về khách quan, miền núi phía Bắc Việt Nam là địa bàn có nhiều đồi núi,
gây khó khăn trong quy tụ dân cư, là trở lực lớn đối với công tác quản lý ngay
từ cấp chính quyền cơ sở; ở đây có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống
với sự đa dạng phong tục, tập quán tham gia chi phối, điều chỉnh quan hệ xã
hội, mà nhiều khi các phong tục, tập quán đó còn có vai trò ưu trội hơn pháp
luật, là trở lực đối với việc đưa pháp luật vào cuộc sống; bên cạnh đó, cùng
với những khó khăn về địa lý, về giao thông thì dân trí thấp chính là nguyên
nhân kìm hãm phát triển và khiến mặt bằng kinh tế ngày càng tụt hậu, kéo
theo sự tụt hậu trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống, đặt cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã trước những thách thức và đòi hỏi ở họ sự nỗ lực nhiều
khi vượt quá khả năng đáp ứng.
Về chủ quan, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở các tỉnh miền núi phía
Bắc không nằm ngoài tình trạng bất cập chung của đội ngũ cán bộ, công chức
4
cấp xã ở Việt Nam hiện nay. Thậm chí, sự cách biệt trên nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội so với nhiều vùng, miền khác còn dẫn đến một hệ
quả tất yếu là sự cách biệt về trình độ của cán bộ, công chức cấp xã ở các tỉnh
miền núi phía Bắc trong mối tương quan với trình độ của cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã nhiều địa phương trong cả nước. Điều này càng bộc lộ rõ
nét hơn sau khi chủ trương công chức hoá cán bộ chính quyền cấp xã được
thể chế thành các quy định pháp luật, rồi Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND và UBND năm 2003 ra đời, cùng nhiều văn bản khác
mang nội dung phân cấp, phân quyền theo tinh thần hướng mạnh về cơ sở,
giao cho cấp xã một số nhiệm vụ trong thi hành án dân sự, trong chứng thực
giấy tờ v.v.. lần lượt được ban hành.
Những yếu tố khách quan và chủ quan đó cản trở không nhỏ tới sự lớn
mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, cản trở không nhỏ
đến nhận thức về nhu cầu hiểu biết pháp luật và khả năng nắm bắt pháp luật
của bản thân họ.
Có thể khẳng định, thực hiện công tác GDPL cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã các tỉnh miền núi phía Bắc, từ chính sách, từ văn bản đến
thực tiễn triển khai không phải là khoảng cách gần gũi. Mà nhu cầu về kiến
thức pháp luật, nhu cầu tạo dựng nền văn hoá pháp lý cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã các tỉnh miền núi phía Bắc thì đã và đang ngày càng trở
nên vô cùng bức thiết.
Xuất phát từ nhận thức đó, học viên lựa chọn đề tài: "GDPL cho cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện
nay" để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu.
GDPL là một nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và
pháp luật. Vì vậy, đây là vấn đề luôn được nhiều cơ quan nghiên cứu khoa
5
học, các nhà khoa học pháp lý, giáo dục học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Tìm hiểu các công trình khoa học đã được công bố trong nước và nước
ngoài cho thấy, GDPL được đề cập dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau,
về cơ bản gồm các nhóm vấn đề sau:
Nhóm 1, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về GDPL, gồm khái
niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức của GDPL. Điều này được
minh chứng qua các công trình khoa học:
Giáo dục ý thức pháp luật, Nguyễn Trọng Bích, Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 4/1989, tr34-35.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc
đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994, mã số 92-98-223 ĐT, Viện
Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp.
Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp
luật, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX 07 - 17, Viện Nhà nước và
Pháp luật - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi
mới, Đề tài khoa học cấp bộ, mã số 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
Bàn về giáo dục pháp luật, Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1995.
Xã hội hoá công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Hồ
Việt Hiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 9/2000.
Nhóm 2, nghiên cứu GDPL đối với các đối tượng cụ thể nhằm lý giải
tính đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL cho từng đối
tượng, thể hiện qua các công trình như:
Giáo dục pháp luật cho nhân dân, Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí
6
Cộng sản, số 10, tr34-38, năm 1983.
Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong
một số dân tộc ít người, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, năm
1995.
Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó
tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai, năm 1996.
Giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân
Thảo năm 1996.
Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khơ-me Nam Bộ, Luận
văn Thạc sĩ Luật học của Lê Văn Bền, bảo vệ tại Học viện Chính trị
quốc gia, năm 1998.
Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Trung Nghĩa,
bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia, năm 2000.
Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở
nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo
trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của Đặng Ngọc Hoàng, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia, năm
2000.
Nhìn lại một năm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Gia Lai,
Trần Xuân Thiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2/2000.
Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắk
Lắk - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm
Hàn Lâm, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia, năm 2001.
7
Nhóm 3, nghiên cứu GDPL trong mối quan hệ với các nội dung khoa
học pháp lý khác, với một số công trình nghiên cứu:
Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế XHCN và xây
dựng con người mới, Phùng Văn Tửu, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số
4/1985, tr18-22.
Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam, Luận án Phó tiến
sĩ Luật học của Nguyễn Đình Lộc, năm1985.
Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN,
Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Trần Ngọc Đường, năm 1988.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về GDPL nói chung,
GDPL cho các đối tượng đặc thù và GDPL trong mối quan hệ với các vấn đề
khác như đã kể trên, song đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về
GDPL cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã gắn với địa bàn cụ thể là
miền núi phía Bắc Việt Nam. Vì vậy, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu
vấn đề này ở cấp độ Luận văn thạc sĩ. Tuy nhiên, các công trình nêu trên là
nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi nghiên cứu và hoàn thiện
Luận văn.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu vấn đề từ năm 1998 đến năm 2004.
(Năm 1998 là năm Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02/1998/CTTTg ngày 7/01/1998 về việc tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn
hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998 về việc Ban hành
Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 - 2002 và thành lập Hội
đồng phối hợp công tác PBGDPL).
Đặc biệt, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng GDPL cho
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã các tỉnh miền núi phía Bắc trong thời
gian từ sau năm 1999 đến năm 2004 (năm 1999 là năm mà các cơ quan: Bộ
Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
8
Uỷ ban Dân tộc miền núi và Hội Nông dân cùng ký Nghị quyết liên tịch số
01/1999/NQLT-TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND ngày 07/9/1999 về việc
phối hợp phổ biến GDPL cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, và năm 2004, các địa phương trên cả
nước tiến hành tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết này).
Về đối tượng, luận văn nghiên cứu về GDPL cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam.
Về địa bàn khảo sát, nghiên cứu: Hiện nay, miền núi phía Bắc Việt
Nam được hợp thành bởi hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc gồm có 15 đơn vị
hành chính cấp tỉnh, là một địa bàn rộng đối với việc khảo sát vấn đề GDPL
cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã trong một luận văn tốt nghiệp cao
học, do vậy, học viên chỉ tiến hành khảo sát tại một số tỉnh trên cơ sở đảm bảo
các tiêu chí đặc thù của khu vực miền núi phía Bắc như: các tỉnh có đa thành
phần dân tộc sinh sống; một số tỉnh có đường biên giới chạy qua, có cửa khẩu
quốc tế hoặc quốc gia; hầu hết các tỉnh có sự phát triển kinh tế – xã hội không
đồng đều giữa các vùng, các dân tộc…
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
4.1- Mục đích của luận văn.
Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực trạng GDPL cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã miền núi phía
Bắc, đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường GDPL cho
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.
4.2- Nhiệm vụ của luận văn.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về GDPL và GDPL cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở miền núi phía Bắc Việt Nam, trên cơ sở đó, làm rõ khái
niệm, đặc trưng, mục đích, chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL
cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã miền núi phía Bắc.
9
+ Phân tích, đánh giá thực trạng GDPL cho cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở miền núi phía Bắc.
+ Nêu và phân tích phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường GDPL
cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở miền núi phía Bắc Việt Nam
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.
5.1- Cơ sở lý luận.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và khoa
học lý luận Nhà nước, pháp luật nói chung, lý luận về GDPL nói riêng.
5.2- Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, Tổng hợp, Lịch sử cụ thể; Đồng thời, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp khoa học của luận văn.
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống và toàn diện về GDPL cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, với những đóng góp khoa học mới, cụ thể sau:
- Về phương diện lý luận:
Trên cơ sở các tri thức khoa học về GDPL nói chung, luận văn góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về GDPL cho cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã gắn với địa phương cụ thể là các tỉnh miền núi phía Bắc. Đó là,
xác định khái niệm, đặc điểm, đồng thời, làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến
GDPL cho đối tượng này, trong đó, chú ý nhấn mạnh các yếu tố lịch sử, văn
hoá, địa lý, trình độ phát triển kinh tế v.v.. làm nên tính đặc thù của đối tượng
GDPL và có ảnh hưởng đến hiệu quả GDPL.
10
- Về phương diện thực tiễn:
Luận văn đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng, chỉ rõ những
nguyên nhân của kết quả đạt được và các hạn chế của công tác GDPL cho cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đồng thời, đề
xuất và luận giải một hệ thống phương hướng và các giải pháp đồng bộ, cụ
thể nhằm tăng cường hiệu quả GDPL cho cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã các tỉnh miền núi phía Bắc.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.
11
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
1.1- Tổng quan lý luận chung về giáo dục pháp luật.
1.1.1- Khái niệm GDPL.
GDPL là một nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và
pháp luật. Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy, có
nhiều quan điểm khác nhau về GDPL.
Có quan điểm cho rằng, GDPL đồng nghĩa với hoạt động dạy, học
pháp luật ở các trường học. Như vậy, quan điểm này không xếp các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến pháp luật diễn ra ngoài phạm vi trường học là GDPL.
Khi coi GDPL chỉ là hoạt động dạy, học pháp luật ở trong nhà trường thì vô
hình chung chúng ta đã coi nhẹ các hoạt động GDPL diễn ra ngoài trường
học, được tiến hành bởi các chủ thể khác những người giáo viên, mà hoạt
động GDPL diễn ra ngoài trường học nhiều khi lại có ý nghĩa xã hội hết sức
to lớn, có tác dụng cho nhiều đối tượng, có tác động kịp thời, thường xuyên,
lâu dài.
Một quan điểm khác lại cho rằng, GDPL là hoạt động tuyên truyền, phổ
biến, thông tin pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Quan
điểm này là nguyên nhân dẫn đến thái độ thụ động của những người làm công
tác GDPL, khiến họ chỉ thực hiện việc GDPL khi có văn bản mới ra đời, do
vậy, hoạt động GDPL không được tiến hành thường xuyên, có mục đích, có
định hướng, khó tạo nên nền văn hoá pháp lý ổn định và ngày càng phát triển
trong xã hội.
Có quan niệm thậm chí còn cho rằng, pháp luật vốn dĩ có chức năng
giáo dục, bản thân pháp luật với những chế tài nghiêm khắc của nó là sự giáo
12
dục hữu hiệu nhất, ngoài ra, hoạt động GDPL do bất kỳ chủ thể nào tiến hành
cũng đều là điều không cần thiết. Đây thực sự là một quan điểm hết sức cực
đoan. Vì, mặc dù bản thân pháp luật đã có chức năng giáo dục, có giá trị giáo
dục, song, nếu chúng ta chỉ đơn thuần thực hiện việc công bố các văn bản
pháp luật tới nhân dân với hy vọng các chế tài nghiêm khắc được đặt ra trong
trường hợp vi phạm các quy định do Nhà nước ban hành sẽ tác động mạnh mẽ
đến tri thức người dân, làm giàu hiểu biết pháp luật, thì chắc chắn chúng ta
chỉ có được sự hiểu biết pháp luật dưới dạng thực hành xã hội nhỏ lẻ mà thôi.
Pháp luật theo con đường tự thân đó, muốn đi vào đời sống, trở thành hành vi
cuộc sống sẽ vô cùng khó khăn.
Để có một khái niệm tương đối hoàn thiện và đầy đủ về GDPL, thiết
nghĩ, trước hết cần làm rõ khái niệm giáo dục, qua đó, tiếp cận khái niệm
GDPL từ cả góc độ khoa học ngôn ngữ học, khoa học giáo dục học và khoa
học pháp lý.
Dưới góc độ khoa học ngôn ngữ học, giáo dục được hiểu là "(đgt) tác
động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra" [51.tr734].
Như vậy, trong hoạt động giáo dục luôn phải có yếu tố chủ thể giáo dục, là
người thực hiện việc tác động lên đối tượng giáo dục. Việc tác động đó cần
hướng tới những mục tiêu cụ thể được xác định từ trước và là điều mà đối
tượng được giáo dục cần đạt tới sau quá trình giáo dục. Giáo dục nói chung và
GDPL nói riêng đều phải đảm bảo các yêu cầu đó.
Dưới góc độ khoa học giáo dục học, giáo dục được tiếp cận theo hai
nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những nhân
tố khách quan và chủ quan nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất
định của đối tượng giáo dục. Yếu tố khách quan ở đây bao gồm chế độ xã hội,
13
trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống v.v..; Còn yếu tố chủ quan chính
là các tác động tự giác, có chủ định và có định hướng của nhân tố con người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình tác động có định hướng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu
tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy
đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội.
Trong hai cách tiếp cận về giáo dục theo khoa học giáo dục học nêu
trên, mặc dù các nhà khoa học luôn đề cao yếu tố khách quan, tức là giáo dục
hiểu theo nghĩa rộng, song, vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh, được coi là có ý
nghĩa quyết định chính là nhân tố chủ quan. Bởi, trong cả hai yếu tố khách
quan và chủ quan thì yếu tố khách quan là nhóm yếu tố ảnh hưởng, nó có
thể ảnh hưởng theo các chiều hướng tiêu cực và tích cực khác nhau, vai trò
chủ động của chủ thể và đối tượng giáo dục rất mờ nhạt; còn yếu tố chủ quan
là nhóm yếu tố tác động, ở đây, vai trò của chủ thể vô cùng quan trọng. Do
vậy, chúng ta thường sử dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp.
Theo đó, GDPL với tính cách là một hoạt động có định hướng, có mục
đích, cũng cần được tiếp cận dưới góc độ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục.
GDPL là sự tác động có hệ thống, có định hướng của chủ thể giáo dục
lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành nên ở đối tượng giáo dục những tri
thức pháp lý, tạo nên niềm tin vào pháp luật, để họ có đầy đủ khả năng tham
gia các quan hệ xã hội một cách phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật
hiện hành.
Như vậy, GDPL là hoạt động có mục đích, được tiến hành bởi các chủ
thể nhất định, tác động lên những đối tượng nhất định, chứa đựng các nội
dung và được truyển tải bằng các hình thức, phương pháp cụ thể.
1.1.2- Mục đích của GDPL.
Hoạt động giáo dục nói chung, GDPL nói riêng luôn phải hướng tới
những mục đích nhất định. Bởi vì đây là loại hoạt động có hệ thống, có tổ
14
chức và luôn mang tính định hướng. Mục đích của GDPL là yếu tố có vai trò
chi phối đến các yếu tố khác cấu thành nên hoạt động GDPL. Từ mục đích,
chúng ta lựa chọn chủ thể có khả năng thực hiện việc GDPL, qua đó, xác định
nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phù hợp với đối tượng đã được xác
định trước.
Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay, pháp luật được
khẳng định là chiếm vị trí thượng tôn trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh
hành vi con người. Pháp luật bởi vậy không chỉ là công cụ của Nhà nước, mà
còn là công cụ của nhân dân1. Mọi tầng lớp nhân dân, tất cả cán bộ, công chức
nhà nước đều phải có kiến thức pháp lý vững vàng, hình thành nên niềm tin
vào pháp luật, vào sự nghiêm minh, công bằng, khách quan, nhân đạo của
pháp luật và có thói quen xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Mục đích
của GDPL vì vậy có thể khẳng định bao gồm:
Thứ nhất, cung cấp tri thức pháp lý. Tri thức nói chung, là "những điều
hiểu biết có hệ thống" [51.tr1704]. Theo đó, tri thức pháp lý chính là sự hiểu
biết một cách có hệ thống về pháp luật với tư cách là tổng thể các quy phạm
hiện hành điều chỉnh hành vi con người trong xã hội. Việc cung cấp tri thức
pháp lý là mục đích đầu tiên và là mục đích quan trọng nhất của GDPL, nếu
mục đích này đạt được thì các mục đích tiếp theo mới có khả năng trở thành
hiện thực. Con người muốn có niềm tin vào pháp luật trước hết phải có sự am
tường về hệ thống pháp luật. Từ chỗ hiểu biết, có niềm tin vào pháp luật, con
người mới tạo nên cho mình khả năng tham gia các quan hệ xã hội một cách
tự chủ, tự tin và phù hợp với đòi hỏi của pháp luật.
Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng các quan hệ xã hội cần có
sự điều chỉnh của pháp luật, với xu thế hội nhập quốc tế, gia nhập các tổ chức
hợp tác nhiều lĩnh vực trên thế giới, yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
1
Quan niệm của PGS, TS Nguyễn Đăng Dung – Khoa Luật ĐHQG Hà Nội.
15
hệ thống pháp luật luôn đặt ra như một thách thức với Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, mục tiêu cung cấp tri thức pháp lý cho các đối tượng GDPL lại càng
trở nên cần thiết và phải được chú trọng thực hiện.
Vấn đề cần lưu ý là, khối lượng tri thức pháp lý ngày càng đồ sộ và
luôn có sự biến động, phần lớn các đối tượng không thể nắm bắt chúng một
cách trọn vẹn. Từng nhóm đối tượng của GDPL sẽ có những nhu cầu về tri
thức pháp lý khác nhau. Xác định rõ nhu cầu đó, hay nói cách khác, xác định
rõ tính đặc thù của mục đích nhận thức là nhiệm vụ không thể xem nhẹ của
các chủ thể GDPL.
Thứ hai, tạo niềm tin vào pháp luật.
Ngoài việc cung cấp những tri thức pháp lý, hoạt động GDPL còn
nhằm mục đích tạo ra những tình cảm pháp lý, hay còn gọi là niềm tin vào
pháp luật. Đối tượng GDPL cần cảm nhận được những ưu việt, những giá trị
xã hội của pháp luật như tính nhân đạo, sự công bằng, thước đo tính chuẩn
mực của hành vi, giá trị thông tin nằm trong các quy phạm v.v.., cần có thái
độ không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật. Niềm tin pháp
luật là động lực mạnh mẽ thôi thúc con người hành động đúng pháp luật.
Trên thực tế, có nhiều người rất am hiểu về pháp luật, song lại không xử sự
đúng yêu cầu pháp luật đặt ra, mà luôn tìm cách "lách luật". Đó là bởi, ngoài
tri thức pháp lý đơn thuần ra, họ không có được niềm tin vào pháp luật, không
nhìn nhận pháp luật như một công cụ để bảo vệ tự do, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, mà lại chỉ coi pháp luật như
là sự hạn chế quyền, tự do của chính bản thân mình.
Thứ ba, hình thành thói quen hành vi phù hợp quy định của pháp luật
khi tham gia các quan hệ xã hội.
Tính chất pháp lý của hành vi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia
quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội luôn thuộc một trong hai trạng thái: hoặc là
hợp pháp, hoặc là vi phạm pháp luật. Việc các chủ thể của quan hệ pháp luật
16
lựa chọn loại hành vi nào thông thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó,
yếu tố tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý đóng vai trò hết sức quan trọng. Có
tri thức pháp luật con người mới biết được trong hoàn cảnh, điều kiện mà mối
quan hệ xã hội mình tham gia đang xảy ra, pháp luật quy định như thế nào về
hành vi của mình (bắt buộc phải là gì, cho phép làm gì, cấm làm gì v.v..), đó
là căn cứ xác định tính đúng, sai của hành vi. Sau đó, yếu tố niềm tin pháp lý,
tình cảm pháp lý sẽ là yếu tố thúc đẩy sự lựa chọn hành vi xử sự đúng đắn.
Như vậy, mục đích thứ ba là mục đích đạt được dựa vào hệ quả của mục đích
thứ nhất và thứ hai. Nếu không đạt được mục đích thứ nhất và thứ hai thì
không thể có mục đích thứ ba. Mục đích thứ ba cũng chính là mục đích cuối
cùng, là điều mà bất kỳ nhà nước nào, bất kỳ chủ thể GDPL nào cũng đều
hướng tới, mong muốn đạt được.
Ngày nay, chúng ta đề cập rất nhiều đến pháp chế, pháp chế XHCN.
GDPL với những mục đích như trên chính là nhiệm vụ cần thiết mà qua đó,
pháp chế ngày càng được tăng cường.
Từ mục đích của GDPL được đề ra từ khi hoạt động GDPL bắt đầu,
cho đến khi chấm dứt một chu trình GDPL, đánh giá lại những điều đạt được,
đánh giá về hiệu quả GDPL, chúng ta lại cần tham chiếu đến mục đích ban
đầu đó, bao gồm những kiến thức pháp luật cụ thể mà các đối tượng lĩnh hội
được, những tình cảm pháp lý nảy sinh trong lòng đối tượng GDPL, sự biểu
hiện ra bên ngoài thành thói quen cư xử đúng pháp luật của đối tượng được
GDPL thể hiện qua sự giảm thiểu vi phạm pháp luật trong xã hội. Như vậy, ba
mục đích trên đồng thời cũng là ba tiêu chí đánh giá hiệu quả của hoạt động
GDPL.
1.1.3- Chủ thể và đối tượng của GDPL.
1.1.3.1- Chủ thể của GDPL
Khi phân tích, đánh giá hoạt động có mục đích của con người, yếu tố
chủ thể luôn được đề cập, coi trọng, như là một nguyên nhân chính dẫn đến sự
17
thành công của hoạt động đó. Theo quan niệm thông thường, chủ thể "là đối
tượng gây ra hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị hành động là
khách thể" [51.tr394]. Còn trong khoa học giáo dục học, chủ thể chính là các
thầy giáo, cô giáo, những người thực hiện nhiệm vụ truyền đạt kiến thức đến
cho đối tượng giáo dục là học sinh, sinh viên, học viên.
Như vậy, chủ thể của GDPL là những người tiến hành hoạt động
GDPL. Hoạt động GDPL do các chủ thể tiến hành có thể là theo chức năng,
nhiệm vụ, những chủ thể này còn gọi là những chủ thể mang tính chuyên
nghiệp, có trình độ chuyên môn về GDPL, tiến hành hoạt động GDPL một
cách thường xuyên, liên tục với tư cách là công việc được giao đảm nhiệm.
Họ có thể là những người giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy về pháp luật, các
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở các cơ quan của Đảng, của Nhà
nước, các tổ chức xã hội v.v.. Hoạt động GDPL cũng có thể do các cá nhân, tổ
chức tiến hành một cách không trực tiếp, thực hiện do phái sinh từ nhiệm vụ
chính hoặc do nhận thức về trách nhiệm xã hội, hay còn gọi là những chủ thể
không mang tính chuyên nghiệp, như hoạt động GDPL lồng ghép vào quá
trình thực hiện nhiệm vụ tư pháp của các cán bộ làm công tác tư pháp, hoạt
động của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, các luật gia, luật sư, thậm chí cả
những người đã hết tuổi lao động, có trình độ chuyên môn luật, tâm huyết với
sự nghiệp nâng cao văn hoá pháp lý của nhân dân, tích cực tham gia GDPL
v.v..
Dù là chủ thể chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, thì việc GDPL
do các chủ thể tiến hành bao giờ cũng đi theo hai kênh truyền tải song song,
đó là những kiến thức cụ thể đưa đến cho người tiếp nhận bằng con đường
truyền thụ và những tác động thông qua hành vi cuộc sống hàng ngày của
chính các chủ thể đó. Vì thế, chủ thể GDPL vừa phải là người am hiểu pháp
luật, lại phải là người luôn có tình cảm, niềm tin pháp lý và luôn hướng các
18
hành vi của mình vào đúng quỹ đạo pháp luật, theo đúng quy định của pháp
luật.
1.1.3.2- Đối tượng của GDPL.
Các chủ thể của GDPL khi tiến hành hoạt động GDPL đã trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động vào các cá nhân, các nhóm cộng đồng nhất định trong xã
hội, những tác động đó đều nhằm vào ba mục đích của GDPL như đã phân
tích ở trên. Trong trường hợp đó, các cá nhân, nhóm cộng đồng chịu tác động
của đối tượng nhằm đạt mục đích GDPL được gọi là đối tượng của GDPL.
Vậy, đối tượng của GDPL được hiểu là các cá nhân công dân hoặc
nhóm cộng đồng dân cư được tiếp nhận các hoạt động do chủ thể GDPL tiến
hành nhằm đạt được mục đích của GDPL.
Đối tượng của GDPL nói chung rất đa dạng, phong phú. Trong nhiều
trường hợp, một số cá nhân, tổ chức nào đó ở mối quan hệ này là chủ thể
GDPL, ở mối quan hệ khác lại là đối tượng. Đối tượng của GDPL là yếu tố
chi phối nội dung GDPL, là vấn đề cần xác định trước để tìm ra hình thức,
phương pháp giáo dục phù hợp và là yếu tố kiểm nghiệm hiệu quả GDPL.
Với tầm quan trọng đó, xác định đúng đối tượng là nguyên nhân hàng đầu
quyết định thành công trong GDPL.
Do tính đa dạng, phong phú của đối tượng GDPL, việc xác định các
nhóm đối tượng của GDPL phải được tiến hành dựa trên những tiêu chí cụ
thể. Về cơ bản, có một số tiêu chí xác định đối tượng của GDPL như sau:
1, Tiêu chí giới tính: dựa vào tiêu chí này, chúng ta có đối tượng của
GDPL là nam giới và nữ giới. Thông thường, chúng ta sử dụng tiêu chí này để
xác định đối tượng nhằm tập trung vào việc GDPL cho phụ nữ, xuất phát từ
quan điểm cho rằng, phụ nữ là đối tượng dễ bị tổn thương và xâm hại, cần
được giáo dục về các lĩnh vực pháp luật như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật
Dân sự (về vấn đề thừa kế v.v..).
19
2, Tiêu chí độ tuổi: tiêu chí này thường được sử dụng trong trường hợp
muốn tập trung vào giáo dục cho đối tượng thanh – thiếu niên với quan niệm
cho rằng đây là nhóm đối tượng đang ở đổ tuổi định hình nhân cách, dễ bị ảnh
hưởng bởi các tác động khách quan, cần GDPL để nhóm đối tượng này có
được tri thức, tình cảm pháp lý và hình thành thói quen xử sự đúng pháp luật.
3, Tiêu chí nghề nghiệp: đây là loại tiêu chí được sử dụng nhiều nhất
trong việc xác định đối tượng. Ngoài các quy định pháp luật mang tính phổ
thông, bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải hiểu biết như nhau, thì phần
lớn các quy định của pháp luật được sử dụng ít hay nhiều tuỳ thuộc và nghề
nghiệp, môi trường làm việc của mỗi người. Dựa vào tiêu chí này, chúng ta có
các nhóm đối tượng như:
- Cán bộ, công chức nhà nước.
Đây là nhóm đối tượng có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, công tác
trong các lĩnh vực, ngành, nghề nhất định trong bộ máy nhà nước. Do đều
từng được trải qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nên
phần lớn những người này có trình độ và khả năng nhận thức về pháp luật.
Song, đây cũng là nhóm đối tượng luôn phải đặt mình trong sự vận động biến
đổi không ngừng các quan hệ xã hội, luôn chịu sự tác động của những thay
đổi pháp luật, nhiều quy định pháp luật khi triển khai và đời sống phải thông
qua các đối tượng này với tư cách là cầu nối giữa công quyền với công dân.
Mặt khác, đặt trong những mối quan hệ cụ thể, cán bộ, công chức còn là chủ
thể của GDPL. Nhu cầu GDPL đối với cán bộ, công chức là nhu cầu thường
xuyên và tự thân, bởi "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN" [39.tr17] chỉ có thể được thực hiện một cách
hữu hiệu trên thực tế do một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao và có một nền văn hoá pháp lý vững vàng.
- Học sinh, sinh viên.
20
Đây là lực lượng đông đảo trong xã hội, là đội ngũ những người trẻ
tuổi, được trang bị kiến thức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ để lãnh gánh
nghĩa vụ, quyền lợi làm người chủ tương lai của đất nước. Nhìn chung, nhóm
đối tượng này có nhu cầu hiểu biết về pháp luật rất cao, song những kiến thức
mà họ lĩnh hội được chưa nhiều do thời gian qua, chúng ta chưa chú trọng vấn
đề GDPL nói chung, GDPL cho học sinh, sinh viên nói riêng. Nhận thức được
tầm quan trọng của việc GDPL cho học sinh, sinh viên, trong các chương
trình hành động về GDPL ở các quy mô khác nhau của nước ta hiện nay đã
nêu vấn đề này ra đúng tầm và đang nỗ lực thực hiện, cùng với việc thực hiện
GDPL cho toàn thể nhân dân cũng như các nhóm đối tượng cụ thể khác.
- Các chủ doanh nghiệp, người quản lý, cán bộ công đoàn ở các doanh
nghiệp.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng phát triển đã làm
nên nhiều thành tựu trong các mặt của đời sống, song cũng đặt con người
trước nhiều thách thức bởi mặt trái của vấn đề. Trong bối cảnh đó, pháp luật
luôn được nhà nước sử dụng như là một công cụ quản lý hữu hiệu và tạo hành
lang an toàn cho cả xã hội trong vòng quay thị trường.
Đối với các chủ doanh nghiêp, những người quản lý, cán bộ công đoàn
ở các doanh nghiệp, họ là những người trực tiếp tham gia vào chu trình vận
hành của nền kinh tế thị trường, trực tiếp chịu tác động của pháp luật cũng
như tất cả các chính sách kinh tế của Nhà nước. Hiểu biết về pháp luật không
những giúp họ quản lý, điều hành doanh nghiệp có hiệu quả, đúng pháp luật
mà còn hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại không đáng có mà chúng ta vẫn
thường đổ cho là tại "cơ chế". Bởi vì, trong điều kiện hiện nay, dù pháp luật
có thường xuyên thay đổi, thì Nhà nước vẫn luôn tuân theo những quy luật
phát triển xã hội, dựa vào nhu cầu của xã hội để ban hành pháp luật. Và khi có
sự thay đổi, Nhà nước vẫn tạo điều kiện để các doanh nghiệp không bị những
ảnh hưởng xấu từ sự thay đổi pháp luật gây ra, miễn là người lãnh đạo, quản
21
lý và những người liên quan nắm được pháp luật, làm chủ được công cụ mà
nhà nước cung cấp cho mình.
- Các tầng lớp dân cư khác.
Mặc dù nhu cầu hiểu biết về từng văn bản pháp luật cụ thể, từng lĩnh
vực pháp luật cụ thể đối với tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội không
giống nhau, song, trong Nhà nước pháp quyền, nhu cầu hiểu biết về pháp luật
của mọi người dân nói chung rất cao. Điều cơ bản là, chúng ta phải xác định
được nhóm đối tượng nào thì cần hiểu biết sâu sắc về những lĩnh vực pháp
luật nào. Từ đó, có các nội dung, hình thức GDPL phù hợp.
Việc xác định tính chất của đối tượng đối với các tầng lớp dân cư khác
có thể chỉ dựa vào tiêu chí nghề nghiệp: như nông dân, như những người lao
động thủ công, tiểu thương v.v.., cũng có thể kết hợp các yếu tố khác về đội
tuổi, giới tính, địa bàn cư trú… để hình thành các nhóm đối tượng cụ thể như:
- Thanh niên nông thôn;
- Phụ nữ làm nghề buôn bán nhỏ;
- Nông dân ở vùng đồng bằng Sông Hồng;
- Đồng bào các dân tộc ít người;
- Nhân dân ở các vùng sâu, vùng xa v.v..
Điều chúng tôi muốn khẳng định ở đây là, GDPL chỉ có thể thực hiện
thành công nếu chúng được tiến hành với các đối tượng đã xác định trước và
những nội dung đưa ra giáo dục hoàn toàn phù hợp nguyện vọng, nhu cầu,
khả năng nắm bắt của các nhóm đối tượng.
1.1.4- Nội dung, hình thức, phương pháp GDPL.
1.1.4.1- Nội dung GDPL.
Nội dung của GDPL là các tri thức về pháp luật, ở các cấp độ: tri thức
về hệ thống pháp luật thực định (hay còn gọi là tri thức thông thường) và tri
thức khoa học chuyên sâu.