Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

VẬN DỤNG cặp PHẠM TRÙ cái CHUNG và cái RIÊNG của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật vào PHÂN TÍCH mô HÌNH KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.26 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài

VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO
PHÂN TÍCH MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Nhóm 8 - Lớp đêm 1 - Khóa 24 thực hiện
Nhóm trưởng : Bùi Thị Thu Lan
Thành viên 1 : Lâm Nguyễn Ngọc Lan
Thành viên 2 : Dương Thế Lân
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

TP.Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2015


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mà Đảng
ta đã lựa chọn cho thời kỳ đổi mới ( bắt đầu từ năm 1986). Mô hình này vừa mang
tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù và được quyết định
bởi các nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Đến nay, sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta
đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng hàng năm đều ở mức khá cao
so với (thời kỳ bao cấp) trước kia, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên một
cách rõ rệt…. Những thành tựu trên đã chứng minh rằng sự lựa chọn của Đảng là vô


cùng đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, trình độ phát triển của nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay còn ở mức khá thấp so với các nước trong khu vực
và thế giới. Điều này đòi hỏi chúng ta phải không ngừng học tập, tiếp thu kinh
nghiệm từ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhằm “đi tắt, đón đầu”, có
như thế mới mong sớm bắt kịp được họ. Thế nhưng, trong quá trình học hỏi đó,
chúng ta cũng phải có sự cân nhắc, lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trong
nước. Bên cạnh đó phải xem chủ nghĩa Mác làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động
nhận thức, phải vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm triết học Mác, đặc
biệt là quan niệm về cặp phạm trù “ cái chung, cái riêng ” vào hoạt động cụ thể.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn vai trò của triết học Mác nói chung và vai
trò của cặp phạm trù “ cái riêng, cái chung ” trong công cuộc xây dựng kinh tế thị
trường nước ta hiện nay, từ đó có những hành động cụ thể hơn, thiết thực hơn nhằm
góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh nên nhóm đã quyết định chọn
“ Phân tích mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng vào quá trình
xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay” làm nội
dung cho bài tiểu luận của mình.
Bố cục bài tiểu luận gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận

1


PHẦN 2. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm cái riêng, cái chung
“Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một trong những sự vật, hiện
tượng, quá trình riêng lẻ, xác định trong thế giới khách quan mà trong chúng có
chứa thuộc tính hay yếu tố chung” [1, 130]. Ví dụ: Trong đời sống hàng ngày, chúng
ta thường xuyên tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau như ngôi
nhà, cái bàn, cái ghế, hiện tượng ô nhiễm không khí, quá trình ra hoa của một cái
cây….. Mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ đó được gọi là cái riêng. Ngoài ra, “cái riêng

còn có thể được hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng
hơn, phổ biến hơn”[2, 1]. Ví dụ: Thái dương hệ ( bao gồm nhiều hành tinh và tiểu
hành tinh) là cái riêng trong vũ trụ bao la, rộng lớn.
“Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ một mặt (thuộc tính, yếu tố)
không chỉ có ở trong cái riêng (sự vật) này mà còn được lập lại trong những cái
riêng (sự vật) khác” [1, 130]. Ví dụ: Cái chung của người Việt Nam là có một lòng
nồng nàn yêu nước, cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của
công nhân làm thuê, cái chung của sinh viên là đi học, thi cử…..
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung
“Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong những cái riêng và thông qua
những cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của chính mình” [1, 130] . Ví dụ: Không
có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây mai, cây đào, cây quất… Nhưng cây mai,
cây đào, cây quất nào cũng có rễ, thân, lá, có quá trình lý hóa để duy trì sự sống.
Những đặc tính này lặp lại ở những cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm
“cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự,
nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
“Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung và
thông qua cái chung mà những cái riêng có liên hệ chuyển hóa lẫn nhau” [1,
130] . Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại
2


ngoài mối liên hệ với tự nhiên và xã hội. Không cá nhân nào không chịu sự tác động
của các quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con
người. Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung trong nó.
“Thứ ba, cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng, do đó cái riêng
không gia nhập hết vào trong cái chung, bên trong cái riêng còn chứa cái đơn
nhất”
[1, 130] . Có thể khái quát mối quan hệ cái chung, cái riêng bằng công thức như
sau:

Cái riêng = Cái chung

+ Cái đơn nhất

Ví dụ:
- Cái chung: Cây ăn quả
- Cái đơn nhất: Khế, Dừa, Mít, Táo… là cái đơn nhất của mỗi cây.
- Cái riêng: Mỗi cây khế, cây dừa, cây mít, ….là 1 cái riêng.

Công thức trên có thể không đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một
chừng mực nào đó thì nó có thể nói lên được quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái
riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái
riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại
đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách
biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau.
3


“Thứ tư, trong những điều kiện xác định, cái đơn nhất và cái phổ biến hay
cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau: Cái mới thường xuất hiện dưới dạng cái
đơn nhất, qua quá trình phát triển mở rộng, cái mới sẽ chiến thắng cái cũ và trở
thành cái phổ biến. Cái cũ ban đầu thường tồn tại dưới dạng cái phổ biến, sau đó
nó ngày càng suy yếu, thu hẹp dần thành cái đơn nhất và cuối cùng mất đi”
[1, 130]. Ví dụ: Trong quá trình phát triển của sinh vật xuất hiện những biến dị ở
một hoặc một số ít cá thể riêng biệt biểu hiện thành đặc tính mà khi ngoại cảnh thay
đổi nó trở nên phù hợp hơn thì đặc tính được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Ngược lại những đặc tính không phù hợp sẽ mất
dần đi và trở thành cái đơn nhất; hoặc là trước Đại hội Đảng lần thứ VI thì kinh tế
thị trường chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại hội
thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành

cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc
phòng, an ninh năng lượng…
Đôi khi sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất chỉ mang tính tương đối.
Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu xét trong
nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ: Cá trê là cái chung nếu xem xét trong các
loại cá trê ( vàng, đen, trắng,….) nhưng nó lại là cái riêng nếu xem xét trong tất cả
các loại cá (cá trê, cá phi, cá rô….).
1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.3.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được sự dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để phát
4


triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước;
đồng thời sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất,
phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và

các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển. Tăng trưởng kinh tế đi đối với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo
con người, xây dựng và phát triển nguồn lực của đất nước” [3, 1].
1.3.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Xét về hoàn cảnh lịch sử xuất phát điểm của nến kinh tế nước ta là kinh tế phong
kiến. Ngoài ra đất nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, mà ở đó
cơ sở vật chất đã ít ỏi mà còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung
dựa vào hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời gian đầu sau chiến
tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống
XHCN mà mô hình kế hoạch hóa đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền
kinh tế lac hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hóa nhà nước đã tập trung vào tay
mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản tiền bạc để ổn định phát triển
kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức
cao nhất sức người, sức của cho tuyền tuyến.
5


Sau ngày giải phóng miền Nam, bức tranh nền kinh tế nước ta tồn tại một bức
tranh với ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế
hàng hóa. Do sự không hài hòa giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc không
cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi
trường…Lúc này, nước ta đồng thời bị cắt giảm nguồi viện trợ từ các nước XHCN. Tất
cả những nguyên nhân đó kiến cho nền kinh tế của nước ta trong những thập niên 80
rơi vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số nơi
còn bị nạn đói đe dọa.
Đảng ta đã xác định đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan

và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyền từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là
một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tế cũng như trong lý
luận.
2. Vận dụng cặp phạm trù cái chung và cái riêng của phép biện chứng duy vật
vào phân tích mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay.
2.1. Cái chung được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
Quá trình phát triển mô hình KTTT mỗi quốc gia đều có màu sắc riêng đó là
những điều kiện đặc thù về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó nhất
thiết có đặc điểm chung mang tính quy luật mà khi theo mô hình kinh tế này đất
nước chúng ta buộc phải trải qua.
Một đặc điểm chung cơ bản dễ nhận ra đó là cũng như mọi nước khác, chúng
ta cũng chịu sự phận công lao động theo nhiều ngành nghề, có sự khác biệt về sở
hữu tài sản và đặc biệt lợi nhuận là động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế nước ta
cũng vận động theo quy luật vốn có của nền KTTT đó là quy luật cung cầu, quy luật
giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và phát triển các loại thị trường như thị trường tài
6


chính, thị trường chứng khoán, thị trường lao động…đây là những đặc điểm tốt mà
kinh tế thị trường đem lại.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN do người lao động làm chủ. Điều này
có thể trên cơ sở nhà nước thực sự của dân, do dân và chế độ công hữu. Trong đó,
người lao động đóng vai trò sở hữu tư liệu sản xuất.
Đặc điểm chung nữa là những vấn đề tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại,
đó là sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên
gây ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp gây khó khăn cho cuộc sống của nhiều
người, các tệ nạn xã hội cũng gây sức ép to lớn cho nền kinh tế nước ta làm cho kinh

tế nươc ta phát triển mất cân đối.
2.2. Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
Chúng ta đều thống nhất mô hình KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh
tế chung của nhiều đất nước nhưng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam cũng có những cái riêng, cái đặc thù của Việt Nam.
Nước ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
và thiết lập quan hệ sản xuất mới. Mục đích của chúng ta là xây dựng nước ta thành
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ ,công bằng xã hội trong mỗi bước phát
triển. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn hoá, giáo
dục để nâng cao dân trí, đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng một nền văn hoá đậm
đà bản sắc dân tộc.
Nhà Nước với chức năng quản lý, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như bảo đảm sự ổn định về chính trị, xã
hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để
tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả. Xây
7


dựng kết cấu hạ tằng kinh tế -xã hội bảo đảm yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà
nước quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội.Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà Nước về kinh tế và chức năng chủ sở
hữu tài sản công của Nhà Nước. Nhà nước chỉ với chức năng điều tiết và quản lý vĩ
mô, không can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng như quyền tự
chủ của doanh nghiệp.
Nền KTTT ở Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN dưới sự dẫn dắt và
lãnh đạo của Đảng. Chính nền KTTT định hướng XHCN đảm bảo cho mọi loại hình

doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình, mỗi người dân bình đẳng về kinh
tế, chính trị, xã hội. Trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra, Đảng chủ trương xây
dựng nền KTTT phải dựa trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình
thức kinh tế.
Ở Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN, mặc dù phân bố các nguồn lực
cho các nhu cầu sử dụng khác nhau chủ yếu được quyết định bởi thị trường, nhưng
nhà nước XHCN đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô, bảo đảm
giữ vững các cân đối khách quan một cách tự giác. Bằng cách này hệ thống kinh tế
có thể hạn chế và khắc phục một số khuyết điểm của KTTT đảm bảo đạt tới mục
tiêu phát triển của một nền kinh tế định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là sự tìm tòi thể hiện mới cả về lý luận
lẫn thực tiễn của CNXH trong thời đại ngày nay. Đại đại hội Đảng IX, Đảng ta đã
xác định những nội dung lớn trong việc xây dựng KTTT ở nước ta trong những năm
tới là tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả
quản lý kinh tế của Nhà nước. Thúc đẩy sự hình thành và phát triển, từng bước hoàn
thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trướng
quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường
chứng khoán….Như vậy cùng với sự hoàn thiện và thích đáng dẫn đến hệ thống
kinh tế mới, thuật ngữ KTTT định hướng XHCN cũng đang ở trong quá trình hoàn
thiện về nhận thức.
8


Theo lý luận của Mac – Lenin chúng ta đã biết cái riêng phong phú hơn cái
chung, cái riêng bao hàm cái chung. Ở đây, KTTT định hướng XHCN là cái riêng
trong nền kinh tế thị trường, nó vận hành theo những quy luật chung của KTTT mà
ngoài ra còn có những nét riêng đặc trưng mà chúng ta đã nói ở trên.
2.3. Những thành tựu và hạn chế nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
2.3.1. Thành tựu

Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân:
kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không ngừng được
cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng và
vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ, môi trường đầu tư
nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng, xuất khẩu Việt Nam cũng tăng
liên tục trong nhiều năm.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình kinh tế - xã
hội của Việt Nam vẫn còn những mặt yếu kém đó là:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch đề ra. Chất
lượng tăng trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao.
Do cách làm chạy theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng trốn thuế, lừa đảo, gian
lận và nhiều tệ nạn xã hội xuất hiện như: ma túy, mại dâm cướp bóc…
Mọi vấn đề xã hội đều bị thương mại hóa, bị chi phối bởi đồng tiền làm cho
tình cảm giữa người với người đôi khi có thể bị cân đo đong đếm.
Tuy nhiên thế giới luôn vận động và luôn tồn tại những mặt đối lập, chúng sẽ
đấu tranh và loại trừ lẫn nhau. Mở cửa du nhập KTTT thì ngoài những tích cực cũng
không thể tránh khỏi tiêu cực. Đó là điều tất yếu mà mỗi quốc gia phải tự biết điều
chỉnh và khắc phục sao cho thu được kết quả tốt đẹp.
9


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Sau một thời gian dài đổi mới, nghiên cứu để tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế. Đảng ta đã luôn phải đứng trước hai con đường cái chung hay cái riêng,
cái nào là quy luật phải tuân theo và cái nào có thể thay đổi, cái nào là của riêng
chúng ta. Đứng trước tình hình đó, triết học Mác-Lênin đã trở thành kim chỉ nam
định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nằm

trong hệ thống kinh tế thị trường thế giới, kinh tế thị trường nước ta chịu tác động
của các qui luật kinh tế vốn có: qui luật cung cầu, qui luật giá trị, qui luật lưu thông
tiền tệ …các phạm trù: cạnh tranh, cung cầu, giá cả …Nhưng kinh tế thị trường
nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi
với công bằng và tiến bộ xã hội. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu
mà kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để chúng ta xây dựng một xã hội dân giàu
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, xã hội yêu con người và vì con người.
Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị
trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng
của Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và vận
vào xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam, ngoài việc nâng cao nhận thức của bản
thân về kinh tế thị trường, điều nhóm thu nhận lớn nhất là hiểu được thế nào là một
tỷ lệ thích hợp giữa cái chung với cái riêng để tạo nên một thực thể riêng biệt. Vì
vậy, trong mọi hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp tốt mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng để tồn tại tốt hơn.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ts. Bùi Văn Mưa ( Chủ biên ) – Ts. Trần Nguyên Ký – Ts. Bùi Bá Linh –
Ts. Bùi Xuân Thanh, 2014, Triết học, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh –
Khoa lý luận chính trị.
2. Thongtinphapluatdansu.edu.vn
3. Giangvien.net/shops/tài tiệu môn lý luân chính trị/ mối quan hệ gữa cái
chung và cái riêng – 298.html
4. Ts. Bùi Văn Mưa ( Chủ biên ) – Ts. Trần Nguyên Ký – Ts. Bùi Bá Linh –
Ts. Bùi Xuân Thanh, 2014, Lịch sử triết học, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí

Minh – Khoa lý luận chính trị.


MỤC LỤC
Phần 1: Mở đầu........................................................................................................1
Lý do chọn đề tài...........................................................................................................1
Phần 2: Nội dung......................................................................................................2
1. Cơ sở lý luận.........................................................................................................2
1.1. Khái niệm cái riêng, cái chung...............................................................................2
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung................................................2
1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..................................................4
1.3.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .............................4
1.3.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan................................5
2. Vận dụng cặp phạm trù cái chung, cái riệng của phép biện chứng duy vật
vào việc phận tích KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay........................6
2.1. Cái chung được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay......................................................................................................................6
2.2. Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay......................................................................................................................7
2.3. Những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam........................................................................................................................9
2.3.1. Thành tựu.............................................................................................................9
2.3.2. Hạn chế................................................................................................................9
Phần 3: Kết luận.............................................................................................................10


BẢNG ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN CỦA NHÓM
TT

Nội dung thảo luận


Thời
lượng

1

2

Phác thảo đề cương bài

90 phút

Ngày thực Địa điểm
hiện

viên

30/11/2014 Khuôn viên

tiểu luận và phân công

trường Đại học

tìm kiếm tài liệu

kinh tế Tp. Hồ

Thảo luận phần mở đầu

Chí Minh

Khuôn viên

120 phút

7/12/2014

Thành
tham gia
Cả nhóm

Cả nhóm

trường Đại học
kinh tế Tp. Hồ
3

4

Thảo luận phần cơ sở lý

Chí Minh
120 phút 21/12/2014 Khuôn viên

luận và phân công đánh

trường Đại học

máy

kinh tế Tp. Hồ


Thảo luận phần: vận

Chí Minh
120 phút 02/01/2012 Khuôn viên

dụng cặp phạm trù cái

trường Đại học

chung và cái riêng của

kinh tế Tp. Hồ

phép biện chứng duy vật

Chí Minh

Cả nhóm

Cả nhóm

vào phân tích mô hình
kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
5

Phân công đánh máy
Thảo luận phần kết luận

và tổng hợp bài

90 phút

12/01/2014 Khuôn viên
trường Đại học

Cả nhóm


kinh tế Tp. Hồ
Chí Minh
Nhận xét chung:
Các thành viên trong nhóm đều tham đầy đủ các buổi họp nhóm, tích cực
đóng góp ý kiến để hoàn thiện bài tập nhóm
Các thành viên trong nhóm luôn tích cực tìm hiểu tài liệu để đóng góp cho
bài tập nhóm hoàn thiện hơn.



×