Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

NGUYÊN tắc LỊCH sử cụ THỂ và sự vận DỤNG nó vào TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN cứu KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.35 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học

NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ
VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO TRONG
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Nhóm 6 Lớp 1 Khóa 24 thực hiện
Nhóm trưởng : Đào Thái Huy
Thành viên 1 : Mao Thiên Huệ
Thành viên 2 : Nguyễn Thị Ngọc Hòa
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

TP. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2015


MỤC LỤC
I.

II.

III.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
1. Cơ sở của nguyên tắc lịch sử - cụ thể.............................................................................4
1.1. Nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới..........................................................4
1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.......................................................................4
1.3. Nguyên lý về sự phát triển....................................................................................5


2. Nội dung của quan điểm lịch sử - cụ thể........................................................................6
Hoạt động nghiên cứu kinh tế
1. Vai trò của hoạt động nghiên cứu kinh tế......................................................................6
2. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế.....................................................7
II.1. Phân tích và tổng hợp...........................................................................................7
II.2. Lịch sử và logic.....................................................................................................7
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa............................................................8
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào trong hoạt động nghiên cứu kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Nội dung.........................................................................................................................9
1.1. Tính lịch sử...........................................................................................................9
1.2. Tính cụ thể..........................................................................................................10
2. Bài học..........................................................................................................................12
KẾT LUẬN.....................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................14
BẢNG BÁO CÁO KẾT QUẢ CÔNG VIỆC................................................................15
PHỤ LỤC........................................................................................................................ 16

PHẦN MỞ ĐẦU
Hoạt động nghiên cứu kinh tế có vai trị rất quan trọng trong việc giúp chúng ta hiểu được bản
chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, từ đó nắm được các quy luật kinh tế chi phối sự
vận động và phát triển kinh tế. Việc áp dụng các nguyên tắc phù hợp để nghiên cứu kinh tế là


một yêu cầu cấp thiết. Với tư cách là nguyên tắc của mọi nguyên tắc triết học xét về nghĩa rộng,
nguyên tắc lịch sử - cụ thể cần được tìm hiểu một cách kĩ lưỡng và vận dụng linh hoạt vào hoạt
động nghiên cứu kinh tế để vận động theo đúng các quy luật khách quan, tránh bệnh chủ quan,
giáo điều, duy ý chí. Do đó, chúng em đã chọn nội dung này làm đề tài nghiên cứu của nhóm.
Mục tiêu nghiên cứu của nhóm là tìm hiểu cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nội
dung của hoạt động nghiên cứu kinh tế và việc vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào trong

hoạt động nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thơng qua việc tìm hiểu,
phân tích nội dung giáo trình, các bài viết của các nhà nghiên cứu, nhóm đã làm sáng tỏ tính
lịch sử, cụ thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa áp dụng tại Việt Nam để
từ đó kiên định với lý tưởng, với định hướng mà Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.
Bố cục của bài tiểu luận gồm ba phần chính như sau:
I.
II.

III.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
1. Cơ sở của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
2. Nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Hoạt động nghiên cứu kinh tế
1. Vai trò của hoạt động nghiên cứu kinh tế
2. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào trong hoạt động nghiên cứu kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Nội dung
2. Bài học

Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy của TS. Bùi Văn Mưa. Những kiến thức
quý báu cùng sự nhiệt tình giảng dạy của Thầy đã giúp chúng em rất nhiều trong việc sống và
làm theo tư duy biện chứng, để từ đó cải tạo tự nhiên và xã hội ngày một tốt đẹp hơn.


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I.
1.


Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Cơ sở của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Cơ sở khách quan của nguyên tắc lịch sử, cụ thể chính là ba nguyên lý của phép biện

chứng duy vật: Nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới, Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và Nguyên lý về sự phát triển.
1.1.
Nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vơ tận.
Trong thế giới vật chất khơng có gì khác ngồi những sự vật, q trình vật chất có một kết
cấu, tổ chức nhất định, đang biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân của
nhau, cùng chịu chi phối bởi các quy luật khách quan của thế giới vật chất.
Ý thức của con người chỉ là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là vật chất xã hội và bộ
óc của con người. Thế giới vật chất thống nhất và duy nhất.
Tính thống nhất thế giới trong tính vật chất thể hiện ở sự tồn tại của thế giới thông qua
giới vô cơ, giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa chúng có sự liên hệ,
tác động qua lại, vận động và phát triển. Các q trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống nhất
vật chất của thế giới trong các hình thức và giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử, từ
phân tử đến các cơ thể sống, từ các cơ thể sống đến con người và xã hội loài người.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong

1.2.

mọi lĩnh vực hiện thực, chi phối một cách tổng quát sự tồn tại, vận động, phát triển của mọi sự
vật, hiện tượng, quá trình xảy ra trong thế giới.
Do sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới thống nhất mà chúng tồn tại trong muôn
vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng. Trong
muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ

phổ biến cũng tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng.
Mối liên hệ phổ biến có những tính chất sau:
Tính khách quan: thể hiện ở chỗ bản thân một sự vật, hiện tượng hay quá trình đều tồn tại
trong sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau. Đó là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

4


Tính phổ biến: thể hiện ở chỗ bất cứ sự vật, hiện tượng hay q trình nào cũng khơng tồn
tại tuyệt đối, biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; mặt khác, bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với các hệ thống – sự vật khác, và
thông qua sự tương tác mà chúng quy định và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng: thể hiện ở chỗ các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những
mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có
những tính chất và vai trò khác nhau.
Nguyên lý về sự phát triển
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
1.3.

từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, do mâu thuẫn trong sự vật gây ra, được thực hiện thông qua
bước nhảy về chất, theo xu hướng phủ định của phủ định.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, cái
mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên
khơng ngừng. Phát triển là khuynh hướng chung tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển:

Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Cách thức và hình thái của sự phát triển:
Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Tính chất của sự phát triển:
Phát triển là q tình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, tính phổ biến và
tính đa dạng.
+
Phát triển trong giới tự nhiên vô sinh, phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh, phát
+

triển trong xã hội, phát triển trong tư duy, tinh thần.
Phát triển là sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập, giữa chất và lượng, giữa cái cũ và
cái mới, giữa cái chung và cái riêng, giữa nguyên nhân và kết quả, giữa nội dung và
hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa khả năng và hiện thực, giữa tất nhiên và

2.

ngẫu nhiên.
Nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Nguyên tắc này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát

triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định. Những điều kiện này sẽ có
ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong

5


những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác
nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hồn tồn bản chất của sự vật.
Từ nội dung trên ta có thể thấy rằng, quan điểm lịch sử - cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong

q trình nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội. Khi vận dụng nguyên tắc này cần phải đảm bảo
các yêu cầu cơ bản sau:


Trong hoạt động nhận thức, phải tìm hiểu quá trình ra đời, tồn tại, phát triển cụ thể của
những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nghĩa là:
+

Phải biết được sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện,
hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào.

+

Hiện giờ sự vật hiện đang tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao, do những quy luật nào chi phối.

+

Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật sẽ tồn tại như thế nào, trong điều kiện, hoàn
cảnh, quan hệ nào trong tương lai



Trong hoạt động thực tiễn, để đạt được hiệu quả phải xây dựng được những đối sách cụ
thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể đang tồn tại trong những điều kiện, hồn cảnh, quan
hệ cụ thể mà khơng nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào,
trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.

II.
1.


Hoạt động nghiên cứu kinh tế
Vai trò của hoạt động nghiên cứu kinh tế
Theo Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ (1936) của John Maynard Keynes:

"Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng
lớn hơn điều người ta thường tưởng. Nói đúng ra, thế giới gần như chỉ được hướng dẫn bởi
những tư tưởng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của
các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ. Những
người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thượng giới thật ra đều chắt
lọc từ những không tưởng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án
nào đó”.
Cịn theo Tư tưởng kinh tế (1987) của M. Blaug: “Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các
nhà kinh tế học, giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình
nắm được chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định
nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành những quy tắc khoa học.

6


Khơng có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cứu lịch sử kinh tế học […], nó đem lại
phịng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhường cần thiết về phương pháp
luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế học. Ngồi ra, đó cịn là một
phịng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay khơng […]”.
Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động nghiên cứu kinh tế giúp cho chúng ta hiểu được bản
chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm được các quy luật kinh tế chi phối sự vận
động và phát triển kinh tế và vận dụng lý luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh
bệnh chủ quan, giáo điều, duy ý chí.
2.
2.1


Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế
Phân tích và tổng hợp
Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ thành từng bộ phận để đi sâu nhận thức

các bộ phận đó.
Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm
nhận thức cái tồn bộ.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau nhưng lại thống nhất biện
chứng với nhau. Sự thống nhất của phân tích và tổng hợp là một yếu tố quan trọng của phương
pháp biện chứng. Do đó khơng nên tách rời phân tích và tổng hợp, khơng nên cường điệu
phương pháp này với phương pháp kia và ngược lại. Ph.Anghen viết tư duy bao hàm ở chỗ đem
những đối tượng của nhận thức ra phân tích các yếu tố cũng như đem những yếu tố có quan hệ
với nhau hợp thành một thể thống nhất nào đó. Khơng có cái phân tích thì khơng có cái tổng
hợp.
2.2

Lịch sử và logic
Mỗi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên hoặc trong xã hội đều có một lịch sử, tức q trình

phát triển và diệt vong của nó. Đặc điểm của lịch sử là nó diễn ra theo một trật tự thời gian với
những biểu hiện cụ thể, nhiều hình, nhiều vẻ trong đó khơng chỉ có cái bản chất, cái tất nhiên
mà cịn có cái không bản chất, cái ngẫu nhiên, cả những bước quanh co của sự phát triển. Ý
thức tư tưởng cũng có lịch sử của mình với tính cách là lịch sử của q trình phản ánh.
Phạm trù logic có hai ý nghĩa: thứ nhất, nó chỉ tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật, đó
là logic khách quan của sự vật; thứ hai, nó chỉ mối liên hệ tất yếu nhất định giữa cái tư tưởng
phản ánh thế giới khách quan vào ý thức con người. Đó là logic của tư duy, của lý luận.

7



Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử, cụ thể của sự
vật với những chi tiết của nó, phải nắm lấy sự vận động lịch sử trong tồn bộ tính phong phú
của nó, phải bám sát lấy sự vật trong máu thịt của nó, phải theo dõi mọi bước đi của lịch sử theo
trình tự thời gian.
Phương pháp logic vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức
lý luận trừu tượng và khái quát. Phương pháp logic có nhiệm vụ dựng cái logic khách quan
trong sự phát triển của sự vật.
3.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở

kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao
động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định.
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, nhằm phục
vụ lợi ích thu lợi nhuận của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ
công hữu do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ chế
độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng cộng sản Việt Nam xây
dựng với bốn tiêu chí cơ bản như sau:
Một là, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và
khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo
và từng bước khá giả hơn.
Hai là, về phương hướng phát triển kinh tế: phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Ba là, về định hướng xã hội và phân phối: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo… giải quyết tốt các vấn đề xã hội
vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thơng qua phúc
lợi xã hội.

8


Bốn là, về định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý: phát huy quyền làm chủ
xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
III.

Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào trong hoạt động nghiên cứu kinh tế thị

1.

trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Nội dung

1.1

Tính lịch sử
Theo quan điểm lịch sử - cụ thể trong triết học Mác - Lênin, khi nghiên cứu quá trình xây

dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thì việc tìm hiểu tình hình trong và
ngồi nước là hết sức cần thiết. Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới
là tăng trưởng thấp khoảng 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ từ nước
ngồi là chủ yếu. Những năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu

lạm phát vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và khơng thể kiểm sốt được.
Thêm vào đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lại chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế Việt Nam đã nghèo nàn lại càng lạc hậu
về mọi mặt: công nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ, giao thơng vận tải,...
Vì nước ta đi thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nên đã gặp phải rất nhiều khó khăn
và bỡ ngỡ trong việc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi chúng ta
đang trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới - giai đoạn rất quan trọng mà chính trị là yếu
tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xơ và các nước Đơng Âu sụp đổ hàng loạt đã gây
nhiều hoang mang cho Đảng ta. Bên cạnh đó, cịn có rất nhiều thế lực phản động đã và đang
tìm cách chống phá quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Nước ta nằm trong khu vực Đơng Nam Á, Thái Bình Dương, là một khu vực được coi là
có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây.
Hầu hết các nước trong khu vực đã xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường được mấy thập
kỷ và trở thành các nước công nghiệp mới.
Trên thế giới, mặc dù còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hịa bình và hợp tác vẫn là xu
thế chủ đạo của thời đại ngày nay. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những
bước tiến vượt bậc, đặc biệt là trong các lĩnh vực: tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và
năng lượng mới làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ, từ đó dẫn đến sự
phân cơng lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Chính vì thế mà ngày nay không một nền kinh tế

9


của một nước nào đó có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó địi hỏi một sự
hợp tác ngày càng rộng, tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển
hay đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để
phát triển rộng lớn như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới
như: EU, AFTA, ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), WTO (tổ chức thương mại thế
giới),...
1.2


Tính cụ thể
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự

khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn
xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước
quá độ lên CNXH. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế
thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là cái “phổ biến”, còn kinh tế thị trường định
hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của
Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử cho thấy cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh
tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa.
Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng
hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều khẳng định này bác bỏ luận điểm cho rằng kinh tế thị
trường là “hiện tượng thuộc về quá khứ đối với chủ nghĩa xã hội” hay “kinh tế thị trường không
cộng sinh với chủ nghĩa xã hội” (Thời báo Kinh tế Việt Nam, số ra ngày 13-4-1994, tr.2).
Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Kinh tế tập thể khơng
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại

10



thị trường từng bước được xây dựng, phát triển vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường,
vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo
đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh của mình… Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,
môi trường... Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế” (Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.73-75).
Sự lựa chọn mơ hình phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là sự khẳng định
quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hóa tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi
thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường
định hướng XHCN). Đây không phải là nền kinh tế thị trường rập khuôn theo kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định) mà là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo
định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hóa - xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng triệt để quan điểm
lịch sử - cụ thể trong việc lựa chọn phát triển kinh tế đất nước theo mơ hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Lựa chọn mơ hình này khơng phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị
trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị
trường trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm
phát huy vai trị tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân… Đồng thời, hạn chế những
mặt tiêu cực của kinh tế thị trường như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khơng hồn
hảo, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng…
2. Bài học

Khi giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế, các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật đòi hỏi chúng ta:
a.


Phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân, tổ chức hay các giai – tầng, quốc gia –

dân tộc) khác nhau trong xã hội; biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống cịn) và lợi ích khơng
cơ bản, lợi ích kinh tế, …; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ

11


khắp các lĩnh vực hoạt động kinh tế từ các thành phần kinh tế để có thái độ, biện pháp, đối sách
hành động thích hợp mà khơng sa vào chủ nghĩa bình qn, quan điểm dàn đều, tức khơng thấy
trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
b.

Phải chú ý đến tình hình trong nước và tình hình quốc tế, xu thế phát triển của dân tộc và

xu thế phát triển của thời đại để hoạch định các đường lối, chính sách dài hạn, trung hạn hay
ngắn hạn một cách tối ưu và khả thi. Trước những biến động, thay đổi của thời cuộc phải kịp
thời điều chỉnh đường lối, chính sách; tránh bảo thủ, giáo điều, máy móc.
c.

Phải nắm vững các mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế

và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN
Với việc áp dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể một cách hiệu quả vào quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, chúng ta đã có một nền kinh tế thị
trường năng động với những thành tựu to lớn. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của đất


12


nước trong mỗi giai đoạn mà Đảng và Nhà nước ta đã luôn linh hoạt đưa ra những kế sách phát
triển kinh tế - xã hội phù hợp, từ đó đã đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng khoảng, trì trệ
và lạc hậu về kinh tế và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên trường khu vực và quốc
tế. Một thực tế không thể phủ nhận là sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
khởi sắc về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... đời sống người dân được nâng cao hơn
rất nhiều. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, vẫn còn chậm
phát triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải
thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng sáng tạo nguyên tắc lịch sử - cụ thể để đạt
được một nền kinh tế thị trường hồn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được
những sai lầm của nền kinh tế thị trường từ những quốc gia khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Lý luận Chính trị, Tiểu ban Triết
học, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc ngành khoa học
xã hội và nhân văn)
2 – Bài giảng bộ môn Triết học của TS. Bùi Văn Mưa
3 – Các bài nghiên cứu trên Tạp chí Cộng sản

13


BẢNG BÁO CÁO KẾT QUẢ CƠNG VIỆC
Thời gian

Cơng việc

Nội dung cụ thể

Nguyễn Thị Ngọc Hòa:
Viết phần 1 và phần Kết luận

Lần 1: Tuần 4 – 5

Xác định đề tài, nội dung sơ
bộ của tiểu luận, phân chia
cơng việc để tìm tài liệu viết
bài

Đào Thái Huy:
Viết phần Mở đầu và phần 2
Mao Thiên Huệ:
Viết phần 3

14


Nguyễn Thị Ngọc Hịa:
Đọc lại phần 3 để sửa lỗi
chính tả
Các thành viên gửi bài cho
nhóm trưởng tổng hợp, cùng
tìm hiểu, bổ sung, chỉnh sửa
lần thứ nhất

Lần 2: Tuần 6 – 7

Lần 3: Tuần 8 – 9


Toàn bộ thành viên đọc lại
tồn bộ nội dung chính để
sửa lỗi chính tả, đồng thời
làm sáng rõ những nội dung
chưa hiểu, đọc thêm các tài
liệu tham khảo để làm phong
phú bài tiểu luận

Lần 4: Tuần 10 – 11

Chỉnh sửa chính tả lần cuối
để hoàn thiện bài làm và gửi
cho giảng viên

Đào Thái Huy:
- Đọc lại phần 1 để sửa lỗi
chính tả
- Đọc lại phần 3 để đảm bảo
nội dung vận dụng tương
ứng với cơ sở lý luận
Mao Thiên Huệ:
Đọc lại phần 2 để sửa lỗi
chính tả
Nguyễn Thị Ngọc Hịa:
Tìm hiểu các bài nghiên cứu
liên quan đến hoạt động
nghiên cứu kinh tế
Mao Thiên Huệ&
Đào Thái Huy:
Tìm hiểu các bài nghiên cứu

liên quan đến nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN

Đào Thái Huy:
Gửi bài cho Lớp trưởng

PHỤ LỤC
MỘT SỐ QUAN NIỆM CĨ TÍNH PHÊ PHÁN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
VÀ SỰ PHẢN BÁC LẠI NHỮNG QUAN NIỆM ĐĨ
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã trải qua nhiều mơ hình kinh tế khác nhau,
như: kinh tế tự nhiên; kinh tế hàng hóa: kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN) mà giai đoạn phát triển cao là kinh tế thị trường TBCN. Kinh tế
thị trường ra đời, phát triển qua các giai đoạn và đến nay là kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát
triển theo các mơ hình kinh tế đó đã chứng minh: phát triển kinh tế thị trường là con đường phát

15


triển kinh tế có hiệu quả, khơng những là tất yếu khách quan mà còn rất cần thiết và quan trọng
để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều chuyển sang thực hiện mơ hình kinh
tế hỗn hợp, nghĩa là kết hợp kinh tế thị trường tự do cạnh tranh với sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. Điều khác nhau ở đây là tuỳ thuộc vào bản chất của các nhà nước. Nhà nước tư sản hay là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
Đối với nước ta, sự chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI
năm 1986 và đến Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã trải qua 25 năm, thể hiện rõ sự phát

triển tư duy lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về kinh
tế thị trường. Đại hội chỉ rõ: “… thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
(1).
Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến
xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại
thị trường từng bước được xây dựng, phát triển vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường,
vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo
đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh của mình… Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,

16



môi trường... Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế” (2).
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XI,
Đảng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn đó là chủ nghĩa xã hội, mơ hình mà
chúng ta đang thực hiện đó là: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là mơ hình hồn
tồn đúng đắn và hợp quy luật. Q trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
có những đóng góp rất lớn vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường tự nó vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém trong tiến trình thực hiện. Do
vậy, cần có sự nhận thức đúng đắn về mơ hình kinh tế này cả về lý luận và thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng, có
một số quan niệm có tính phê phán nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, như sau:
- Một số quan điểm cho rằng, không thể kết hợp kinh tế thị trường với định hướng xã hội
chủ nghĩa. Theo họ, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản cho nên kinh tế thị trường không
thể định hướng xã hội chủ nghĩa được, phải từ bỏ hệ tư tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Nghĩa là họ đã đem đối lập hoàn toàn giữa
kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Theo Ph. Ăng-ghen: đó là lối tư duy siêu hình phủ định tính biện chứng nằm ngồi
những mâu thuẫn vốn có, khơng dám chấp nhận mâu thuẫn để giải quyết mâu thuẫn. VI. Lê-nin
đã từng yêu cầu phải “Tự giác kết hợp các mặt đối lập, một sự kết hợp tưởng chừng như không
thể nào kết hợp được, như giữa đất với trời chẳng hạn, giữa người buôn sỉ với người cộng sản,
giữa chuyên gia tư sản với người cộng sản” nếu không sẽ là con đường tự sát và dại dột mà
chính VI. Lê-nin cũng đã từng chỉ ra. Đó cũng chính là cơ sở phương pháp luận để Đảng ta xử
lý các mối quan hệ trong tiến trình thực hiện cơng cuộc đổi mới.
- Có ý kiến cho rằng, khơng thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ
nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” định hướng xã
hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng khác nào “trộn dầu vào nước”, tạo ra một cơ thể
“đầu ngơ mình sở”. Đây là những ý kiến không đúng, không hiểu rõ được sự phát triển với
những quy luật vốn có của nó, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn

toàn phù hợp với quy luật khách quan; những ý kiến này hoặc vẫn còn ở lối tư duy cũ, đồng
nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho rằng kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố, xu thế mới của
kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại - đó là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội.
- Và cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều đặc trưng chung của kinh tế thị trường, chưa thấy
hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc trưng đặc thù của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Từ đó chưa tin tưởng vào mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Thậm chí có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa như “nước
với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau? Như chúng ta thấy, kinh tế thị trường không
phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả chung của văn minh nhân loại, tồn tại
trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Nó vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu

17


cực trong các phương thức sản xuất, tuỳ thuộc vào lợi ích kinh tế của giai cấp cầm quyền, giai
cấp thống trị.
Cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách
quan, là sự cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, sự
tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan
sinh ra nó quy định; người ta không thể áp đặt ý muốn chủ quan một cách tuỳ tiện cho điều này.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện làm nẩy sinh sản xuất hàng hóa:
phân cơng lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
khơng hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực hiện thông qua thị
trường với những quan hệ giá trị, tiền tệ. Mặc dù C.Mác đã từng dự báo về sự mất đi của kinh tế
hàng hóa trong xã hội tương lai, nhưng khi các điều kiện kinh tế, xã hội chưa chín muồi, Ơng
vẫn khẳng định: Sau khi đã xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn cịn đang
duy trì nền sản xuất xã hội, thì sự quy định giá trị vẫn có tác dụng chi phối, theo ý nghĩa là việc

điều tiết thời gian lao động xã hội giữa những nhóm sản xuất khác nhau, và cuối cùng việc ghi
chép tất cả những khoản đó vào sổ kế tóan sẽ trở thành quan trọng hơn bao giờ hết.
Mặt khác, nước ta thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa về thực chất là quá trình phát triển “rút ngắn” của lịch sử, đây khơng thể là sự “đốt cháy”
giai đoạn. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sự lựa chọn cách đi tới mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội một cách có hiệu quả và thuận lợi hơn. Đã có quan điểm đồng nhất kinh tế thị
trường với chủ nghĩa tư bản và cho rằng, phát triển kinh tế thị trường là đi theo chủ nghĩa tư
bản, là xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Lơgíc và lịch sử của kinh tế hàng hóa cho thấy,
kinh tế thị trường với tính chất là kinh tế hàng hóa phát triển hơn từ kinh tế hàng hóa giản đơn
đã từng xuất hiện rất sớm, từ trước khi có chủ nghĩa tư bản. Ở các giai đoạn tiền tư bản đã xuất
hiện sự sản xuất để trao đổi, để cho người khác dùng và sản phẩm chỉ được thực hiện trên thị
trường; đã nẩy sinh các quan hệ cung - cầu, giá trị và giá cả. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản chỉ
đánh dấu một giai đoạn mà kinh tế thị trường đã trở thành phổ biến, bao trùm toàn xã hội và
phát triển tới đỉnh cao. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chúng đã gắn bó chặt chẽ với nhau đến
mức làm cho người ta tưởng như là một. Về thực chất, kinh tế tư bản chủ nghĩa là một thực thể
kinh tế khác với kinh tế thị trường, chúng sản xuất vì giá trị thặng dư, vì lợi nhuận. Do vậy, kinh
tế thị trường và chủ nghĩa tư bản là hai thực thể, hai động lực kinh tế hồn tồn khác nhau,
khơng hề đồng nhất với nhau và càng không thể coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của
chủ nghĩa tư bản.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự lựa chọn về định
hướng phát triển hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của
thời đại.
Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo
những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử.
Song, trong sự tồn tại hiện thực sẽ khơng thể có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung
chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà là những nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường cụ thể
gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản
đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường tồn tại trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, đương nhiên nó phải
gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Ngay như


18


trong cùng một chế độ kinh tế - xã hội, nhưng sự phát triển của kinh tế thị trường ở mỗi dân tộc
khác nhau cũng sẽ mang màu sắc, đặc tính khơng giống nhau. Ví như, cũng là kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa nhưng lại có sự khác nhau giữa kinh tế thị trường tiêu dùng của Mỹ với kinh tế
thị trường xã hội của Cộng hòa liên bang Đức, với kinh tế thị trường cộng đồng của Nhật Bản…
Nền kinh tế thị trường ở mỗi nước trên, ngồi những tính quy luật chung về kinh tế thị trường,
về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị, chúng cịn in đậm dấu ấn riêng về trình độ phát
triển kinh tế, kết cấu kinh tế - xã hội, phong tục tập quán mà chúng tồn tại trong đó. Chúng ta
hiểu được các mơ hình kinh tế thị trường TBCN hiện đại để có thể hiểu được trong thực tế nền
kinh tế thị trường vận hành như thế nào ở mỗi nước cụ thể như:
Mơ hình kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ: với đặc điểm là sự đề cao vai trò của thị trường
trong việc điều tiết nền kinh tế và phân phối thu nhập so với vai trị của Chính phủ. Mơ hình này
có đặc trưng chiếm ưu thế của sở hữu tư nhân, cơ chế thị trường cạnh tranh và sự năng động của
kinh doanh, sự can thiệp thấp của Chính phủ và do đó, chấp nhận sự phân hóa xã hội ở mức độ
cao.
Mơ hình kinh tế thị trường cộng đồng Nhật Bản: mơ hình kinh tế Nhật Bản được hình thành
trong giai đoạn sau chiến tranh và được mô tả như là “hệ thống mẫu mực của phát triển đuổi
kịp” - nổi bật trước hết bởi hiệu quả cao của việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế cả ở tầm vi mơ
và vĩ mơ. Có thể nói đây là mơ hình thật sự tối ưu trong giai đoạn xã hội công nghiệp. Ở Nhật
Bản, nền kinh tế phát triển mang sắc thái triết lý phương Đông với cơ chế nhiều tầng bảo vệ.
Người Nhật Bản cho rằng hệ thống kinh tế của họ là một sự cân bằng giữa tự do kinh tế và sự
can thiệp của Nhà nước, hay gọi là hệ thống kiểu phát triển đuổi kịp. Với hệ thống này, chúng ta
thấy rõ sự can thiệp sâu vào kinh tế của Nhà nước và có hình thức tổ chức hoạt động kinh tế rất
đặc thù. Thể chế kinh tế này đã mang lại nhiều thành công, đưa tới sự thần kỳ Nhật Bản những
thập kỷ qua. Đặc trưng của mơ hình này là coi trọng sự hiệp đồng, phối hợp hài hòa các quan hệ
kinh tế - xã hội, đặc biệt là các quan hệ giữa nhà nước - các doanh nghiệp - người tiêu dùng,
quan hệ giữa giới quản lý với người lao động, tạo nên sự nỗ lực chung, mang tính cộng đồng từ

thấp đến cao. Dưới tiền đề phát huy tác dụng của thị trường, nỗ lực giải quyết các vấn đề có sự
phối hợp, ràng buộc nhau vào thể chế kinh tế tổng thể, phát huy tác dụng chỉ đạo của các chính
sách phát triển sản xuất.
Mơ hình kinh tế thị trường xã hội của CHLB Đức: Có đặc trưng phối hợp sức mạnh của cơ
chế thị trường tự do với sự can thiệp của Nhà nước để đạt được các mục tiêu xã hội đề ra; giả
định mở rộng các nguyên tắc cạnh tranh gắn với tạo lập một hạ tầng xã hội mạnh nhằm làm
giảm nhẹ các khiếm khuyết của thị trường; hình thành một cơ cấu thể chế phức tạp, nhiều tầng
lớp của hệ thống an sinh xã hội. Đây là nền kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa nguyên
tắc tự do và nguyên tắc công bằng xã hội, trên cơ sở nền kinh tế thị trường và hướng vào mục
tiêu khuyến khích, động viên mọi sáng kiến của cá nhân để bảo đảm lợi ích chung của xã hội;
đồng thời loại bỏ lạm phát, thất nghiệp và nghèo đói. Nền kinh tế đó phải đạt 6 tiêu chuẩn cụ
thể là: Quyền tự do cá nhân, công bằng xã hội, khắc phục các chu kỳ kinh doanh, chính sách
tăng trưởng kinh tế, chính sách cơ cấu, bảo đảm tính tương hợp của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường xã hội cạnh tranh, có hiệu quả là yếu tố trung tâm. Tuy nhiên, ở
đây cũng luôn tồn tại nguy cơ đe dọa cạnh tranh có hiệu quả, đó là nguy cơ do Nhà nước gây ra;
sự hoạt động kinh tế của các tổ chức tư nhân đã tạo ra những hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc
và chiều ngang; sự hợp nhất và thâu tóm lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ sẽ dẫn

19


đến loại trừ cạnh tranh giữa họ. Trong nền kinh tế thị trường xã hội, Nhà nước chỉ can thiệp vào
những nơi q trình kinh tế khơng có hiệu quả và có chức năng duy trì, bảo vệ, định hướng cho
các hoạt động cạnh tranh đạt hiệu quả tối ưu. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế phải
tuân theo 2 nguyên tắc: nguyên tắc hỗ trợ và ngun tắc tạo ra sự hài hịa. Ngồi nhân tố thị
trường là cơ bản, những yếu tố xã hội có vai trò quan trọng, được thể hiện trên các mặt cụ thể:
Nâng cao mức sống của nhóm dân cư có thu nhập thấp trong xã hội; bảo vệ và giúp đỡ tất cả
các thành viên trong xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, những đau khổ và rủi ro của
cuộc sống gây nên.
Mơ hình kinh tế thị trường Nhà nước phúc lợi Thuỵ Điển: có đặc trưng Chính phủ ln tác

động vào đời sống kinh tế - xã hội để bảo đảm sự phát triển hài hòa các mặt kinh tế và xã hội,
“khéo léo kết hợp nền kinh tế thị trường tư nhân với mở rộng phúc lợi xã hội”. Mơ hình kinh tế
Thuỵ Điển trong suốt một thời kỳ dài vừa bảo đảm tăng trưởng thông qua hoạt động hiệu quả
của thị trường, vừa thực hiện được công bằng nhờ tiến hành phân phối lại thu nhập một cách
phổ biến, sự bảo đảm xã hội rất cao và phát triển mạnh các hiệp hội - tổ chức xã hội tự do, đó là
nét đặc thù của Nhà nước phúc lợi. Vai trò nhà nước tác động tới phân phối được đánh giá cao.
Mơ hình kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc: lấy chế độ cơng hữu làm chủ thể, kinh
tế nhiều loại hình sở hữu cùng phát triển. Thị trường đóng vai trị cơ sở rõ rệt trong việc phân
bổ tài nguyên. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước và cơ chế thị trường ln gắn bó nhau, thúc
đẩy nhau. Lấy chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể cùng với nhiều hình thức phân phối
khác cùng tồn tại. Hệ thống bảo đảm xã hội của Trung Quốc gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã
hội, phúc lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc người có cơng, tương trợ xã hội… Mở cửa với bên ngoài
là một quốc sách lâu dài, cơ bản của Trung Quốc.
Như vậy, nghiên cứu các mơ hình kinh tế thị trường trên thế giới cho chúng ta thấy rõ mỗi
quốc gia đều có con đường đi riêng của mình, với những biện pháp đặc thù, sẽ khơng có mơ
hình nào là vạn năng cả, mà chúng ta phải biết vận dụng có chọn lọc vào hồn cảnh cụ thể của
nước mình. Song, cũng cần phải nhấn mạnh rằng một xu hướng chung tất yếu trong sự phát
triển kinh tế thị trường là: nhấn mạnh các mục tiêu xã hội và phát triển con người; thừa nhận vai
trò định hướng, tổ chức và điều tiết của Nhà nuớc. Thực tiễn lịch sử chưa có một nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa; song, theo tiến trình phát triển khách quan của xã hội tất yếu sẽ có một
nền kinh tế thị trường tồn tại và bị chi phối bởi hệ thống quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển
khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển, nhưng với những mâu thuẫn vốn có
khơng thể nào khắc phục được trong lòng xã hội tư bản; nền kinh tế thị trường đó đang ngày
càng có xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công
nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Do vậy, nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì
dứt khốt khơng thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn
mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là hoàn toàn phù
hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc ta, sự lựa chọn đó khơng hề gây

nên mâu thuẫn cho tiến trình tiến lên của đất nước. Đi theo định hướng XHCN nghĩa là nền
kinh tế nước ta đang thực hiện bước quá độ tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Ở đây, kinh tế thị
trường được sử dụng như một công cụ, phương tiện hay con đường để đi tới mục tiêu xã hội
chủ nghĩa. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới mẻ hiện nay mà các dân tộc, quốc gia đang

20


trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, V.I. Lê-nin
với NEP (Chính sách kinh tế mới) được thực hiện trong thời kỳ (1921-1924) ở nước Nga - Xô
viết đã để lại những bài học vô cùng quý giá trong việc sử dụng kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần được nghiên cứu và vận dụng sáng tạo.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường thuộc về quan hệ
sản xuất, song không phải là yếu tố quyết định chế độ kinh tế - xã hội. Vì vậy mà nó ln phải
có tính từ kèm theo để định danh cho nền kinh tế đó như kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Điều này
phù hợp với nhận định của C.Mác: “Lưu thơng hàng hóa và sản xuất hàng hóa là những hiện
tượng thuộc nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy nhiên với mức độ và phạm vi
không giống nhau” (3).
Thực tiễn lịch sử cho thấy cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó
là sự phân cơng lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa
quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều khẳng định này bác bỏ luận điểm cho rằng kinh tế thị trường
là “hiện tượng thuộc về quá khứ đối với chủ nghĩa xã hội” hay “kinh tế thị trường không cộng
sinh với chủ nghĩa xã hội”(4).
Do vậy trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội đều tồn tại kinh tế thị trường,
nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư
hữu tư bản chủ nghĩa nên là nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích thu lợi nhuận của giai cấp tư
sản. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ cơng hữu do Đảng Cộng sản lãnh đạo,

mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc
lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải
là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận
dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu
có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trị tích cực của kinh tế thị trường
trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - cơng nghệ, nâng cao
đời sống nhân dân… Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường như chạy
theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khơng hồn hảo, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá
đáng…
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời ký quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường là cái chung còn định hướng xã hội chủ nghĩa là cái đặc
thù của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Trong đó lấy cái
đặc thù làm chủ đạo. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế
nước ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không
phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội, vừa
có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa mang tính

21


chất chung của nền kinh tế thị trường và vừa có tính chất đặc thù, dựa trên ngun tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời
đại - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận định: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và
khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử lồi người nhất định tiến

lên chủ nghĩa xã hội” (5). Định hướng xã hội chủ nghĩa khơng chỉ là một tất yếu về chính trị và
nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội. Định
hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm tất yếu của quá trình tác động của quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức
của những người lao động đối với sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội lồi người.
Nói định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội
theo đúng nghĩa của nó, mà đó là một q trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong q
trình đó, phải từng bước xác lập chủ nghĩa xã hội; phải tạo ra những điều kiện, những tiền đề để
phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội tránh nguy cơ chệch hướng. Trong quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, tính định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội phải là: quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội
do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Đảng ta dần dần làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4 tiêu chí cơ bản sau:
Một là, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực
hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và khơng
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng
bước khá giả hơn.
Hai là, về phương hướng phát triển kinh tế: phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Ba là, về định hướng xã hội và phân phối: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi
xã hội.

Bốn là, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân
dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

22


--------------------------------------------------(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73-75(3) C.Mác, Ph. Ăngghen, tồn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.23, tr.175(4) Thời báo Kinh tế Việt Nam, số ra ngày134-1994, tr.2(5) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.14
PGS, TS. Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ủy viên Hội đồng Lý luận
Trung ương

23


NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM ĐANG TỪNG BƯỚC TẠO DỰNG
LÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI

Trên tinh thần đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế và trên cơ sở tổng kết những thành
công, yếu kém, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm trong những bước chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
tổng qt trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy q trình cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển
đổi


hình
tăng
trưởng,
ổn
định
kinh
tế

mơ.
Nền kinh tế này trước hết phải tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của những quy luật khách quan
của kinh tế thị trường. Đó là hệ thống đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường và các chủ thể thị
trường, tự do cạnh tranh; giá cả được định đoạt trên thị trường tùy thuộc vào quan hệ cung - cầu
và độ khan hiếm hàng hóa; các nguồn lực phát triển được phân bổ chủ yếu theo những tín hiệu
của thị trường; nhà nước tôn trọng những quy luật của thị trường, tạo điều kiện, môi trường để
kinh tế thị trường vận hành bình thường, sử dụng các cơng cụ thị trường là chủ yếu để quản lý
và sẵn sàng can thiệp, điều tiết một khi có thất bại của thị trường,…
Nền kinh tế thị trường hiện đại là nấc thang cao trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường, vì thế
ngồi những đặc trưng mang tính phổ quát của nền kinh tế thị trường tự do, nền kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay còn mang một số đặc trưng mới. Đó là:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của các
chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần phải chiếm
ưu thế phổ biến. Bởi vì, sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả xã hội hóa sản xuất và
xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học, cơng
nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang ngày càng phát triển, từng bước vượt qua
biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia,
xuyên quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa học, công
nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết định trực tiếp đến sự giàu
mạnh, văn minh của mọi quốc gia.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu, trong đó những lĩnh vực sau phải

hiện đại, đó là: cơng nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ cao cấp
(đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng). Ngồi ra, nông nghiệp và nông thôn về cơ bản phải
được phát triển trên nền tảng công nghiệp và thị trường hiện đại; kinh tế tiền tệ và kinh doanh
tiền tệ là phổ biến, được vận hành bởi thể chế tiền tệ hiện đại với sự độc lập của Ngân hàng
Trung ương; doanh nghiệp cổ phần có chế độ quản trị hiện đại.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, làm chủ
được khoa học và cơng nghệ với trình độ quản lý hiện đại. Trong nền kinh tế này, “công nhân

24


cổ trắng” có trình độ đại học là phổ biến và các trường đại học, viện nghiên cứu triển khai được
phát triển thành doanh nghiệp của ngành công nghiệp không khói. Số nhân viên làm việc cho
phịng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và các vườn ươm công nghệ mới của chính phủ
hoặc của cơng ty từng bước sẽ nhiều hơn số công nhân đứng máy trực tiếp tại các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại được vận hành bởi thể chế thị trường, thể chế quản
lý nhà nước và chế độ quản trị công ty hiện đại. Nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp nhằm thỏa mãn những yêu cầu
phát triển trong bối cảnh hiện đại dưới tác động trực tiếp của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học
- cơng nghệ, kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Nền kinh tế này cũng đòi hỏi phải giải quyết tốt
mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự trong điều kiện cụ
thể và đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, con người nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát
triển của mỗi quốc gia.
Thứ sáu, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện đại và
một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội này được xây dựng bằng sự đóng góp của chủ doanh nghiệp, người lao động, nhà nước và
các tổ chức xã hội dân sự nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là người nghèo trước những
biến động và rủi ro của thị trường do tác động ngày càng lớn của tồn cầu hóa và biến đổi khí
hậu. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng

định, kinh tế thị trường là phương tiện tốt nhất để tạo lập cơ sở và sức mạnh kinh tế cho sự phát
triển của mỗi quốc gia. Kinh tế thị trường càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì sức
mạnh kinh tế do nó tạo ra càng lớn. Kết luận này đúng cho mọi quốc gia và Việt Nam không là
một trường hợp ngoại lệ. Những thành tựu trong gần 30 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh nền kinh tế thị trường ở nước ta từng bước được
xây dựng, phát triển và về cơ bản đang được vận hành có hiệu quả, đóng góp ngày càng nhiều
vào quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ”. Trong quá
trình này, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường, phát triển và quản lý kinh tế
thị trường đã được làm rõ, cung cấp cơ sở khoa học cho những quyết định về chủ trương, đường
lối, cơ chế và chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, đến nay vẫn cịn khơng ít
vấn đề vướng mắc chậm được luận giải, đang được coi là kìm hãm sự phát triển của sức sản
xuất, thí dụ như vấn đề quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp,... Ngồi ra, trong bối
cảnh mới như tình hình sau khủng hoảng tài chính và suy thóai kinh tế tồn cầu năm 2008,
khủng hoảng nợ công ở châu Âu,… đã nảy sinh nhiều vấn đề mới. Vì vậy, cần tiếp tục có
những đột phá mới về tư duy lý luận để giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai thành tố này có quan hệ tương tác
với nhau, phản ảnh tính phổ biến, tính đặc thù và địi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa phổ biến và đặc thù trong quá trình phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

25


×