Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

VẬN DỤNG cặp PHẠM TRÙ BẢN CHẤT HIỆN TƯỢNG CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật VÀO PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG nợ xấu TRONG LĨNH vực HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
š&›

Tiểu luận triết học

VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT - HIỆN TƯỢNG
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO PHÂN TÍCH
THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhóm 23 Lớp 1 Khóa 24 thực hiện
Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Vân
Thành viên 1: Trương Bích Trâm
Thành viên 2: Nguyễn Minh Bản
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

TP. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2015
1


MỤC LỤC
I. Cặp phạm trù bản chất – hiện tượng
1. Khái niệm

4
4

2. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
3. Ý nghĩa phương pháp luận


4

II. Tổng quan về nợ xấu ngân hàng
1. Khái niệm
2. Thực trạng nợ xấu ngân hàng hiện nay

5
5
6
III. Vận dụng cặp phạm trù bản chất – hiện tượng của phép biện chứng duy vật vào
phân tích thực trạng nợ xấu trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
1. Nội dung
7
2. Đề xuất giải pháp
8
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................11
BẢNG BÁO CÁO KẾT QUẢ CÔNG VIỆC....................................................................12
PHỤ LỤC............................................................................................................................ 13

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Thời gian qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn và thách thức. Vấn đề trọng tâm hiện nay là xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng, bởi
nó làm tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, xử lý nợ xấu là bước
đi quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Nhiều hội thảo đã tập trung
bàn luận những vấn đề như: thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam; nguyên nhân
gây ra nợ xấu; những biện pháp tháo gỡ, cơ chế xử lý nợ và kinh nghiệm của một số quốc

gia trên thế giới. Ngoài ra, những vấn đề như nguồn tài chính xử lý nợ, cách thức giải cứu
của Chính phủ, có nên tìm một định chế mới để tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu cũng
được đề cập tới. Thực tế, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề chuyển nợ, vấn đề đạo
đức nghề nghiệp làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng khiến nợ xấu có mức cao như hiện
nay. Dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại, đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, đến lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế, tính
an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng.
Theo cặp phạm trù bản chất - hiện tượng của phép biện chứng duy vật, để giải quyết
được vấn đề chúng ta cần nắm được bản chất của nó, cụ thể ở đây là bản chất của nợ xấu
thông qua những hiện tượng được thể hiện. Để rõ hơn vấn đề nhóm quyết định thực hiện bài
tiểu luận “Vận dụng cặp phạm trù bản chất – hiện tượng của phép biện chứng duy vật
vào phân tích thực trạng nợ xấu trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện
nay”
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy của thầy Bùi Văn Mưa. Những
kiến thức quý báu cùng sự nhiệt tình giảng dạy của Thầy đã giúp chúng em rất nhiều trong
cuộc sống và công việc.

3


I. Cặp phạm trù bản chất – hiện tượng
1. Khái niệm

Thực tế chúng ta thấy, khi xem xét những sự vật và quá trình diễn ra trong tự nhiên và
xã hội sẽ có những mặt bên ngoài mà giác quan có thể nhận thức được nhưng cũng có
những mặt, những mối liên hệ ở bên trong bị che khuất, chỉ dùng tư duy trừu tượng mới có
thể hiểu được. Mặt bên ngoài đó gọi là hiện tượng, còn mặt bên trong gọi là bản chất. Trong
cuốc sống, sự vật và quá trình nào cũng có cả hai mặt ấy, chúng luôn vận động và phát triển
cùng nhau. Vì vậy, khi xem xét sự vật và quá trình trong tự nhiên và xã hội, ta cần phân biệt
rõ đâu là bản chất và đâu là hiện tượng.

Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định trong
sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật.
Hiện tượng là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất và hiện tượng có tính khách quan và gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau:
Bản chất và hiện tượng luôn luôn tồn tại song song với nhau. Bản chất bao giờ cũng
bộc lộ ra qua hiện tượng và ngược lại hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản
chất nào đó.
Thực vậy, không có bản chất nào thuần túy nằm ở một nơi nào đó bên ngoài các sự
vật, bản chất cũng không phải là cái gì thuần túy bên trong sự vật. Bản chất nhất thiết phải
bộc lộ qua hiện tượng. Hiện tượng có tính bản chất, nghĩa là bất cứ hiện tượng nào cũng là
biểu hiện của bản chất. Bản chất như thế nào thì hiện tượng cũng như thế ấy. Khi bản chất
bị tiêu diệt thì sớm hay muộn hiện tượng do nó sinh ra cũng biến mất theo. Bản chất mới ra
đời thì các hiện tượng mới phù hợp với nó cũng dần xuất hiện.
Chính vì có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng mà con người mới có thể thông
qua những hiện tượng để nhận thức bản chất, phát hiện ra những quy luật phát triển của sự
vật.
Bản chất và hiện tượng là quan hệ có tính mâu thuẫn:

4


Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng là mẫu thuẫn giữa cái bên trong và cái bên
ngoài.
Bản chất phản ánh cái chung sâu xa, cái bên trong của sự vật. Hiện tượng phải ánh cái
riêng, cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Tất cả các hiện tượng biểu hiện bản chất theo
nhiều cách khác nhau: có hiện tượng biểu hiện một phần bản chất, có hiện tượng biểu hiện
bản chất đầy đủ, đúng đắn, nhưng đôi khi hiện tượng biểu hiện bản chất không hoàn toàn
đúng đắn, thậm chí còn sai lệch bản chất bởi vì nếu hiện tượng nào cũng bộc lộ ngay tức

khắc và hoàn toàn đầy đủ bản chất thì con người chỉ cần dung giác quan mà nhận thức sự
vật, chứ không cần dùng đến các ngành khoa học kỹ thuật hiện đại.
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn biểu hiện là mâu thuẫn giữa các tương đối
ổn định và cái thường xuyên biến đổi.
Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình phát triển của nó, chỉ khi nào sự vật
mất đi thì bản chất của nó mới thây đổi hẳn. Chính vì thế bản chất có tính tương đối ổn
định. Nhưng trong quá trình phát triển của sự va65tthi2 bản chất của nó được biểu hiện
bằng những hiện tượng khác nhau và luôn thay đổi tùy vào những điều kiện khách quan bên
ngoài. Điều đó chứng tỏ hiện tượng thường xuyên biến đổi.
Hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện tượng.
Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện tượng đều
có ra nó còn chứa đựng những nhân tố các biệt mà chỉ riêng nó có vì trong hiện tượng có cái
thống nhất giữa cái bản chất và những cái không bản chất vì bản chất là cái tương đối ổn
định ở trong còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bên ngoài. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn
hiện tượng vì nó là những mối liên hệ tất nhiên bên trong, là những quy luật quyết định sự
tồn tại và phát triển của sự vật, nó được lặp đi lặp lại trong những hiện tượng khác nhau,
biểu hiện quy luật phát triển chung của hiện tượng đó.
3. Ý nghĩa phương pháp luận

Con đường nhận thức sự vật là đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một đến
bản chất cấp hai để nhận thức ngày càng sâu hơn, chính xác hơn.
Con người muốn làm chủ được sự vật phải nắm được bản chất của nó nhưng không
thể nắm bản chất trực tiếp được mà phải thông qua hiện tượng. Nhưng trong hiện tượng
cũng có những loại khác nhau, vì thế phải biết thu thập phân tích nhiều hiện tượng để rút ra
bản chất, và từ bản chất soi sang, kiểm tra lại hiện tượng và tiếp tục nắm sâu hơn bản chất.

5


II.


Tổng quan về nợ xấu ngân hàng
1. Khái niệm

Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc: “Về cơ bản một khoản

nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa
trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các
khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về
khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Ở Việt Nam, nợ xấu được xác định theo thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày
21/01/2013 của Ngân hàng nhà nước. Theo đó, “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại
vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), nhóm 5 (có khả năng mất vốn)”, cụ thể cơ
cấu nợ được chia làm 5 nhóm như sau:
+ Nhóm 1: Dư nợ đủ tiêu chuẩn (là các khoản nợ có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời hạn. Nhưng nếu quá hạn từ 1 đến dưới 10 ngày, vẫn nằm trong nhóm
đủ tiêu chuẩn nhưng sẽ bị phạt lãi quá hạn 150%)
+ Nhóm 2: Dư nợ cần chú ý (là các khoản nợ quá hạn từ 10 đến dưới 90 ngày)
+ Nhóm 3: Dư nợ dưới tiêu chuẩn (là các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày)
+ Nhóm 4: Dư nợ có nghi ngờ (là các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày)
+ Nhóm 5: Dư nợ có khả năng mất vốn (là các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày)
2. Thực trạng nợ xấu ngân hàng hiện nay

Số liệu được cung cấp tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10/2014, từ khi
triển khai Đề án xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng từ năm 2012 đến tháng 10/2014, cả
nước đã giảm tỷ lệ nợ xấu từ 17% xuống còn 5,43%; giảm từ khoảng 460 ngàn tỷ đồng
xuống còn 252 ngàn tỷ đồng (giảm 54,3%). Tuy nhiên, vấn đề là số liệu nợ xấu do TCTD
(Tổ chức tín dụng) báo cáo lên NHNN (Ngân hàng nhà nước) và số liệu NHNN đánh giá lại
quá "vênh" nhau. Cụ thể, tại buổi họp báo thường kỳ của Ngân hàng Nhà nước diễn ra ngày
28/9, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống do

các TCTD báo cáo lên NHNN đến cuối tháng 9 là 3,88%! Đại diện NHNN khẳng định:
“Mức nợ xấu này đã có chiều hướng giảm so với thời gian trước. Cụ thể, tháng 6 nợ xấu là
4,17%, tháng 7 là 4,11% và tháng 8 là 3,9%”. Như vậy, số nợ xấu mà NHNN đánh giá, nhìn
nhận cao hơn xấp xỉ 40% so với số liệu mà các TCTD báo cáo lên. Ngoài ra, số liệu mà các
tổ chức tư vấn uy tín trên thế giới ước tính. Hồi T2-2014, Moody’s cho rằng nợ xấu của các
NHTM Việt Nam phải chiếm ít nhất 15% tổng tài sản.

6


III.

Vận dụng cặp phạm trù bản chất – hiện tượng của phép biện chứng duy vật vào phân
tích thực trạng nợ xấu trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
1. Nội dung
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi
lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân
hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà
không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,....
Thời gian qua, dư luận xã hội có vẻ hơi quá khắt khe và có phần phiến diện khi đánh
giá về hoạt động ngân hàng. Vấn đề nợ xấu cũng vậy, xã hội chỉ biết đổ lỗi cho hệ thống
ngân hàng. Như vậy có thể là không khách quan và không chính xác. Mà khi chưa có cái
nhìn chính xác về bản chất, nguồn gốc nợ xấu, thì cũng khó có thể đưa ra được giải pháp
đúng để xử lý nợ xấu.
Về cơ bản, một mình ngân hàng không thể tạo ra nợ xấu, bởi trong quan hệ tín dụng,
ngân hàng chỉ là bên cho vay; còn việc sử dụng vốn vay thế nào, có hiệu quả hay không lại
tùy thuộc vào bên đi vay, đó là doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp cũng rất muốn sử
dụng đồng vốn an toàn, hiệu quả; làm sao để đồng vốn có khả năng sinh lời cao.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan là khó khăn, biến động bất thường của
kinh tế trong và ngoài nước, một số rủi ro về mặt chính sách vĩ mô khiến hoạt động của

doanh nghiệp không được như mong muốn. Doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả nên
không có tiền để trả nợ và lãi ngân hàng, từ đó phát sinh nợ xấu cao nhiều hơn so với thời
điểm khác. Thực tế, tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng vậy, khi nền kinh tế rơi vào khó
khăn, khủng hoảng, nợ xấu của hệ thống ngân hàng thường có xu hướng tăng cao và tăng
nhanh.
Vì vậy, nói nợ xấu của hệ thống ngân hàng là chưa chính xác, mà đây chính là nợ
xấu của doanh nghiệp, của nền kinh tế, còn hệ thống ngân hàng chỉ là nơi hứng chịu, giữ hộ
doanh khối nợ xấu đó.

7


Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các ngân hàng không có lỗi. Nếu các ngân
hàng tuân thủ nghiêm các quy định, quy trình cấp tín dụng, kiểm tra sát sao việc sử dụng
vốn của khách hàng..., thì sẽ hạn chế được nhiều nợ xấu.
Trong hoạt động tín dụng, phát sinh nợ xấu là điều tất yếu, nợ xấu trở nên nghiêm
trọng khi vượt mức an toàn, theo tiêu chí hiện nay là 3% trên tổng dư nợ. Các món nợ xấu
được đảm bảo bằng tài sản 130% số dư nợ xấu, số liệu này chưa tính đến yếu tố kỹ thuật,
đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thẩm định. Theo quy định nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5
phải trích dự phòng, mức trích cụ thể như sau: nhóm 1 - 0%, nhóm 2 – 5%, nhóm 3 – 20%,
nhóm 4 – 50%, nhóm 5 – 100%.
Xét một khía cạnh khác bản chất của nợ xấu, nơi mà nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn, nợ
xấu là nợ của các doanh nghiệp nhà nước, nợ của các doanh nghiệp bất động sản, nợ của lợi
ích nhóm, có những ngân hàng cung cấp tín dụng cho các công ty sân sau đến 60% vốn điều
lệ, một khi các doanh nghiệp này hoạt động không hiệu quả, nợ xấu xuất hiện thì xem như
ngân hàng mất đi phần vốn này
Nợ xấu được biểu hiện ra bên ngoài ở các hiện tượng suy giảm tăng trưởng tín dụng,
hình thành các tổ chức mua bán nợ, tái cấu trúc hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng lại với
nhau, các ngân hàng mua bán chéo nợ xấu của nhau, cho vay đảo nợ…
Khi nợ xấu tăng cao, các ngân hàng mất cân đối, không đủ nguồn vốn để rót vào nền

kinh tế, các doanh nghiệp muốn vay cũng không vay được. Ở một gốc độ khác, khi rơi vào
tình trạng nợ xấu, các ngân hàng có khuynh hướng co mình lại để xử lý, dè chừng với nhu
cầu của khách hàng và sợ rủi ro, sợ trách nhiệm về mặt pháp lý. Từ đó dẫn đến sự thiếu hụt
vốn trong nền kinh tế và đây là bài toán mà các nhà quản lý kinh tế cần lời giải đáp. Đáp án
cho vấn đề là hình thành nên các tổ chức mua bán nợ, tái cấp vốn cho các ngân hàng, tổ
chức tín dụng hoặc cũng có một giải pháp khác về mặt pháp lý buộc các ngân hàng tái cấu
trúc hoặc sáp nhập lại với nhau để hình nên một cấu trúc đủ khỏe để tiếp tục vận động,
những biểu hiện này được xem là tốt cho việc đẩy lùi nợ xấu
Đồng thời với những khuynh hướng tích cực nêu trên cũng xuất hiện những hiện
tượng mà nếu nhìn bề ngoài có thể che dấu được vấn đề nợ xấu nhưng nếu xét bản chất bên

8


trong thì lại chứa đầy rủi ro và thêm nguy cơ cho nền kinh tế. Để che dấu con số nợ xấu trên
bản cân đối, các ngân hàng thỏa thuận với các doanh nghiệp thực hiện việc cho vay đảo nợ,
thay vì sử dụng vốn vay để bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn vay
được sử dụng để tất toán nợ đã vay và treo nợ ở một món vay mới. Một kỹ thuật khác, các
ngân hàng thông qua các công ty con thực hiện việc mua bán nợ lòng vòng để che khuất đi
con số nợ xấu, công ty A bán nợ xấu cho công ty B, công ty B bán lại cho công ty C, rồi A
mua lại của C, món nợ xấu cũ xem như được tất toán
2. Đề xuất giải pháp

Một là, để xử lý nợ xấu một cách triệt để, chúng ta cần phải có giải pháp tổng thể và
lâu dài. Thực tế hiện nay cho thấy, môi trường kinh doanh chưa có nhiều dấu hiệu phục hồi,
tổng cầu của nền kinh tế yếu chủ yếu do niềm tin của người tiêu dùng vào sự sớm hồi phục
của thị trường thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, số lượng
các doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng, hàng tồn kho mặc dù gần đây có giảm
nhưng số lượng vẫn còn lớn, năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút dẫn đến khó
khăn trong việc trả nợ ngân hàng... Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp gỡ khó cho doanh

nghiệp, khơi thông nguồn vốn để thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa là rất quan trọng. Trong bối
cảnh thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, giá bất động sản giảm mạnh và các khó
khăn, phức tạp trong thủ tục pháp lý liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm gây khó khăn cho
tổ chức tín dụng trong việc xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ. Hơn lúc nào hết, Chính phủ cần
có các biện pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển; khuyến khích việc phát hành,
mua bán trái phiếu doanh nghiệp và mua bán nợ. Việc sắp xếp, đổi mới và cơ cấu lại các
doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước cũng cần phải gắn với
việc xử lý nợ xấu và lành mạnh hóa tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, về cơ chế hoạt động của Công ty Quản lý tài sản Việt Nam. Công ty nên hoạt
động theo cơ chế là mua các khoản nợ của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các ngân hàng
bán nợ sẽ không nhận được tiền, mà chỉ được nhận một loại giấy tờ có giá như trái phiếu,
tín phiếu, giấy chứng nhận mua nợ… Việc bán nợ này không chỉ giúp ngân hàng làm sạch
bảng cân đối tài sản, có thể tăng trưởng tín dụng trở lại, mà còn có thể đem giấy tờ này làm
tài sản cầm cố để vay tiền của NHNN với lãi suất thấp.

9


Ba là, với những món nợ xấu mà tổ chức tín dụng cho vay theo quan hệ “liên
doanh”, quan hệ “sân sau” hay quan hệ “cổ đông lớn”… thì nội bộ tổ chức tín dụng và các
nhóm lợi ích phải công khai, tự nêu giải pháp và quy kết trách nhiệm rõ ràng. Nếu món nợ
này liên quan đến lợi ích quốc gia, lợi ích người gửi tiền và không còn khả năng trả nợ thì
cho phép phá sản. Hơn lúc nào hết, lúc này cần chỉ ra những vi phạm về các quy định nhằm
hạn chế sự chi phối, thao túng của cổ đông lớn. Ðồng thời, phải quy trách nhiệm và kiên
quyết xử lý những cổ đông lớn liên quan đến việc vi phạm các quy định về giới hạn sở hữu
cổ phần hoặc giới hạn tín dụng nhằm mục đích “lái” dòng tín dụng và đầu tư của ngân hàng
thương mại cổ phần sang các nhóm lợi ích. Tiếp theo, nên giảm số lượng những tổ chức tín
dụng yếu, đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động sáp nhập, hợp
nhất. Nội hàm của hoạt động hợp nhất, sáp nhập không phải là thôn tính, mà là sự tổ chức,
sắp xếp và định hướng lại dòng vốn, thống nhất đầu mối để quản lý, điều hành hiệu quả

hơn. Một số ngân hàng nhỏ, quá yếu kém không tự sáp nhập được với nhau thì Chính phủ
gom lại thành ngân hàng của Chính phủ rồi sau đó quốc hữu hóa để thực thi các chính sách
tiền tệ ổn định trong giai đoạn tái cơ cấu.
Bốn là, với chủ trương Nhà nước không cấp ngân sách mà chỉ hỗ trợ bằng cơ chế,
chính sách cho vấn đề xử lý nợ xấu. Vấn đề đặt ra ở đây là nguồn lực tài chính lấy ở đâu ra
để xử lý, nếu chỉ đựa trên nguồn duy nhất là các ngân hàng thương mại trích lập dự phòng
rủi ro, coi đây là nguồn chính phục vụ cho quá trình xử lý nợ xấu, trong khi khối lượng nợ
xấu lớn như vậy (chiếm khoảng 8,82 % tổng dư nợ tín dụng, tương ứng với khoảng 252.000
tỷ VND) thì so với số vốn 100.000 tỷ VND (theo Ðề án thành lập Công ty Mua bán nợ quốc
gia - (AMC) mà NHNN đã trình Chính phủ, dự kiến được thông qua đầu năm 2013) vẫn là
còn ít. Vậy, có nên xã hội hóa nguồn lực huy động cho việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân
hàng thương mại?

KẾT LUẬN
Từ bản chất và những hiện tượng của nợ xấu, chúng ta có thể thấy rằng dù là nợ xấu
được xử lý theo cơ chế nào thì muốn thành công đều cần có sự tham gia và chia sẻ tích cực
của doanh nghiệp có nợ, ngân hàng chủ nợ và Chính phủ. Chính phủ tạo điều kiện cho thị
trường tài chính phát triển đúng mức, kịp thời; xây dựng môi trường kinh tế, chính trị ổn

10


định với những cơ hội đầu tư hấp dẫn. Trong khi đó, doanh nghiệp và ngân hàng là những
đối tượng trực tiếp tham gia và có ảnh hưởng lớn tới quá trình định giá các khoản nợ xấu,
thỏa thuận mua bán lại nợ, và đặc biệt là giai đoạn phục hồi/thu hồi lại giá trị của các tài sản
xấu đã mua lại. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại lên
hòn núi cao”. Nếu chỉ có nguồn dự phòng rủi ro của các ngân hàng, e rằng khối nợ xấu kia
không thể sớm được giải quyết căn bản và triệt để, phù hợp với mục tiêu của Ðề án “Cơ cấu
lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” phấn đấu đưa nợ xấu xuống dưới 3% theo
chuẩn Việt Nam. Vậy thì tại sao chúng ta không tính tới phương án xã hội hóa nguồn lực?

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang khó khăn như hiện nay, việc huy động được tổng lực
các thành phần, tầng lớp xã hội cùng chung tay xử lý, thì vấn đề nợ xấu sẽ có nhiều cơ hội được
loại bỏ sớm. Vấn đề đặt ra là, cần một định hướng tổng thể lâu dài, sự đồng tâm hiệp lực, sự đồng
thuận của cả hệ thống chính trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Lý luận Chính trị, Tiểu ban
Triết học, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc ngành
khoa học xã hội và nhân văn)
2 - Bài giảng bộ môn Triết học của TS. Bùi Văn Mưa
3 - Xử lý nợ xấu: Cần có những giải pháp đồng bộ, TS. Trần Du Lịch, 2014;
4 - Đánh giá sự phù hợp trong lộ trình, cách thức và hoàn thiện cơ cấu cho VAMC, TS.
Nguyễn Quốc Hùng, 2014;
5 - TS. Quách Mạnh Hào: "Xoá nợ xấu bằng những giải pháp mạnh và triệt để" - 2013.
6 - Website: tapchitaichinh.vn, thoibaonganhang.vn, sbv.gov.vn.

11


BẢNG BÁO CÁO KẾT QUẢ CÔNG VIỆC
Thời gian

Công việc

Nội dung cụ thể
Trương Thị Bích Trâm:
Viết phần 1 và phần Kết luận

Lần 1: Tuần 4 – 5


Xác định đề tài, nội dung sơ
bộ của tiểu luận, phân chia
công việc để tìm tài liệu viết
bài

Nguyễn Thị Vân:
Viết phần Mở đầu và phần 2
Nguyễn Minh Bản:
Viết phần 3
Trương Thị Bích Trâm:
Đọc lại phần 3 để sửa lỗi
chính tả

Lần 2: Tuần 6 – 7

Nguyễn Thị Vân:
Các thành viên gửi bài cho
- Đọc lại phần 1 để sửa lỗi
nhóm trưởng tổng hợp, cùng
chính tả
tìm hiểu, bổ sung, chỉnh sửa - Đọc lại phần 3 để đảm
lần thứ nhất
bảo nội dung vận dụng
tương ứng với cơ sở lý
luận
Nguyễn Minh Bản:
Đọc lại phần 2 để sửa lỗi
chính tả

12



Lần 3: Tuần 8 – 9

Toàn bộ thành viên đọc lại
toàn bộ nội dung chính để
sửa lỗi chính tả, đồng thời
làm sáng rõ những nội dung
chưa hiểu, đọc thêm các tài
liệu tham khảo để làm phong
phú bài tiểu luận

Lần 4: Tuần 10 – 11

Chỉnh sửa chính tả lần cuối
để hoàn thiện bài làm và gửi
cho giảng viên

Nguyễn Thị Vân,
Trương Thị Bích Trâm
Nguyễn Minh Bản:
Tìm hiểu các bài nghiên cứu
liên quan đến nợ xấu ngân
hàng

Nguyễn Thị Vân:
Gửi bài cho Lớp trưởng

PHỤ LỤC
NỢ XẤU NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH KHÁNH HÒA VÀ BIỆN PHÁP

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU
Thái Ninh, khoa Kế toán - tài chính
I. TÓM TẮT
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đặc biệt giai đoạn từ cuối 2007 đến đầu năm 2013,
hàng loạt ngân hàng trên thế giới công bố thua lỗ về kết quả hoạt động kinh doanh, mất
khả năng thanh toán, nợ xấu vượt mức cho phép dẫn đến tình trạng các hàng loạt các ngân
hàng bị mua lại và phá sản.
Chính phủ các quốc gia trên thế giới cũng như Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) đã đưa nhiều giải pháp nhằm giải cứu ngành ngân hàng khỏi phá sản.
Trong bối cảnh này các ngân hàng thương mại Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu cao nhất khu vực
Đông Nam Á, đặc biệt là Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa cũng lâm vào tình
trạng này. Tỷ lệ nợ xấu những năm qua tăng cao do tín dụng được bơm bừa bãi để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế. Bối cảnh u ám của kinh tế toàn cầu cũng như trong nước trong những
năm gần đây đã hạn chế đáng kể khả năng giải quyết nợ xấu của NHPT chi nhánh Khánh
Hòa. Vào 09/2012, hãng xếp hạng tín dụng Moody's hạ bậc tín nhiệm đối với Việt Nam

13


xuống mức thấp nhất từ trước đến giờ với lý do hệ thống ngân hàng cần "sự hỗ trợ đáng
kể".
Để giải quyết nợ xấu ngân hàng, có nhiều phương thức như thay đổi về chính sách
quản trị, thay đổi về kết cấu tài chính, bán nợ xấu…Tác giả chọn đề tài bán nợ xấu tại
NHPT chi nhánh Khánh Hòa nhằm mục đích phân tích, đưa ra cái nhìn tổng quan về biện
pháp giải quyết nợ xấu của NHPT chi nhánh Khánh Hòa trong bối cảnh hiện nay nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định.
II. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ
1. Cơ sở lý luận về nợ xấu ngân hàng và mua bán nợ xấu
1.1. Nợ xấu:
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, đã quá hạn và bị nghi ngờ về khả

năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã
làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ
quá hạn trả lãi và/hoặc gốc thường quá ba tháng, căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng
để hạch toán các khoản vay vào các nhóm nợ thích hợp.
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước
ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân
loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày,
đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng thương mại căn
cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
* Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố (định nghĩa của VAS):
- Đã quá hạn trên 90 ngày
- Khả năng trả nợ đáng lo ngại.
* Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “về cơ bản một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản

14


lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận;
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày
và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS đang được áp dụng
phổ biến hiện hành trên thế giới.
1.2. Mua, bán nợ
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản đặc biệt là
các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển
nhượng lại "quyền thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của bên Bán nợ (chủ nợ) đối với
Khách nợ sang cho bên Mua nợ để bên Mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên Khách nợ.
Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ
nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).

Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có "khoản nợ phải thu" 1.000trđ đối với Bên B (khách nợ) do phát
sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến hạn Bên A cần thu hồi phần tài sản này để
đầu tư vào một dự án khác nhưng Bên B chưa thanh toán được do khó khăn về tài chính.
Bên A bán khoản nợ phải thu này cho Bên mua nợ với giá X$, đồng thời chuyển giao toàn
bộ "quyền thu hồi nợ" cho Bên mua nợ để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của Bên B và
khi đó Bên B có trách nhiệm thanh toán 1000trđ cho Bên mua nợ mà không phải thanh toán
cho Bên A nữa.

1.3. Mục tiêu của bán nợ xấu:
Mục tiêu chính của bán nợ xấu là góp phần xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng về
mức an toàn; thêm khả năng tái tạo vốn cho ngân hàng để thúc đẩy nguồn cho vay đối với
nền kinh tế; góp phần giảm lãi suất cho vay.
1.4. Nguyên nhân của nợ xấu:
1.4.1. Do bản thân ngân hàng
- Ngân hàng không có đủ thông tin chính xác để phân tích và đánh giá khách hàng,
dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay hoặc xác định thời hạn cho vay
và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng.

15


- Đạo đức nghề nghiệp không tốt cùng năng lực chuyên môn của một số cán bộ ngân
hàng chưa theo kịp yêu cầu; tiêu cực trong khâu lập phương án, thẩm định, xét duyệt và
theo dõi khoản vay
- Sự lơi lỏng trong công tác thanh, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay làm cho
ngân hàng không phát hiện kịp thời vốn vay đã sử dụng sai mục đích
- Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng gay gắt dẫn đến chạy theo qui mô, bỏ qua các
tiêu chuẩn, điều kiện cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay
- Chạy theo thành tích số lượng, chỉ tiêu kế hoạch mà xem nhẹ chất lượng tín dụng,
quá tin vào phương án kinh doanh của khách hàng.

1.4.2. Do bản thân người đi vay
- Năng lực quản lý kinh doanh hạn chế; nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nhiều lĩnh
vực vượt quá khả năng quản lý; qui mô kinh doanh phình to so với tư duy quản lý là nguyên
nhân dẫn đến phá sản của các phương án kinh doanh khả thi lẽ ra nó phải thành công trong
thực tế.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp không minh bạch, yếu kém. Qui mô vốn chủ
sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối; công tác quản lý tài chính - kế toán tùy tiện,
mang tính đối phó dẫn đến thông tin ngân hàng có được khi lập các bảng phân tích tài
chính, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp không chính xác, chỉ hình thức, không
thực tế, sai lệch quá nhiều và rủi ro xãy ra là đương nhiên.
1.4.3. Nguyên nhân khách quan:
- Những bất cập trong cơ chế quản lý nhà nước, để tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu
kế hoạch hằng năm, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được ưu ái khi vay vốn, có những
dự án lớn chỉnh phủ đứng ra bảo lãnh để vay vốn đầu tư, khi hoạt động bị thua lỗ dẫn đến
mất khả năng chi trả nợ vay ngân hàng.
- Những nguyên nhân bất khả kháng khác như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch
bệnh.
1.5. Hậu quả của nợ xấu
Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng
phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này dẫn đến ngân hàng mất
khả năng thanh khoản. Kết quả làm thu hẹp qui mô kinh doanh, năng lực tài chính của ngân
hàng giảm sút, dẫn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thua lỗ.

16


Khi một ngân hàng bị rủi ro tín dụng lớn, sẽ ảnh hưởng đến người gởi tiền làm cho
người gởi tiền hoang mang, lo sợ và kéo nhau đến rút tiền, không những ở ngân hàng bị sự
cố mà còn ở những ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn
trong thanh khoản, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến hệ thống ngân hàng bị phá sản, gây

hậu quả xấu cho nền kinh tế.
2. Thực trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại trong cuộc khủng hoảng tài chính,
đánh giá, nhận xét các giải pháp thực hiện
2.1. Tổng quan về tình hình nợ xấu trên thế giới
Nợ xấu là “cục máu đông” mà nhiều nền kinh tế trên thế giới bị “nhiễm” với các mức
độ khác nhau và mỗi quốc gia có đơn thuốc trị bệnh khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm của
mỗi nước.
Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc từng “gánh” khoản nợ xấu cao ngất
ngưởng. Hệ thống tài chính ngân hàng rơi vào tình trạng báo động cao nhất và rất nhiều
ngân hàng đã phải “trả giá”. Theo ngân hàng Phát triển châu Á – ADB, năm 2003, Trung
Quốc có bốn ngân hàng Thương mại (NHTM) quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng
15.200 tỷ Nhân dân tệ (NDT), chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính đã lâm
vào tình trạng nợ xấu vượt mức giới hạn cho phép. Điều này không mấy khác so với tình
trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai
đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008.
Trước thực trạng nợ xấu tăng đột biến có thể đánh đổ tất cả các ngân hàng, cả Hoa
Kỳ và Trung Quốc đã có những động thái “không hẹn mà gặp” để đến một mục tiêu chung
là giải cứu nền kinh tế nước nhà.
Cả hai đều tung chính sách chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của các NHTM. Đây
được xem là chính sách ưu tiên và trọng tâm trong chuỗi giải pháp của hai nước. Ngân hàng
trung ương Trung Quốc PBC đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản, có trách nhiệm xử lí nợ
xấu cho một số NHTM quốc doanh. Các công ty này chịu sự quản lý và chỉ đạo đồng thời
của Bộ Tài chính và liên hệ chặt chẽ với các NHTM. Các công ty này đã mạnh dạn cho

17


chứng khoán hóa các khoản nợ của NHTM và mua lại chúng nhằm thổi vốn vào tình trạng
cạn kiệt của các ngân hàng.
Trong khi đó, Bộ Tài chính, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) và Cục

Dự trữ liên bang (FED) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ (dưới dạng các gói tiền 200 tỷ
USD, 500 tỷ USD hay thậm chí là 700 tỷ USD) nhằm bảo lãnh cho việc chứng khoán hóa
các khoản nợ xấu.
Đây là hai động thái giống nhau về bản chất, chính là mua cổ phiếu ưu đãi – mua cổ
phiếu với mức lợi tức không phụ thuộc vào lợi nhuận và cũng không được tham gia điều
hành ngân hàng – do các NHTM phát hành nhằm tạo vốn cho các NHTM đang lâm nợ có
thể tái cấu trúc. Đồng thời, đây là cách tối ưu hóa việc chia nhỏ rủi ro tín dụng của NHTM
đến các nhà đầu tư thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, hai cường quốc này còn áp dụng biện pháp mua lại nợ xấu cho các
NHTM. Các khoản nợ xấu sẽ được phân loại và được các công ty nợ xấu hoặc các tổ chức
tương tự mua lại. Động thái này một mặt tạo vốn cho các NHTM để hoạt động trong thời
gian cấp bách, một phần khiến các nhà đầu tư lạc quan hơn, kích thích kênh đầu tư tạo cơ
hội cho nền kinh tế tái hoạt động. Để bổ trợ cho giải pháp này, các công ty nợ xấu còn giúp
những NHTM yếu kém giải quyết các vấn đề thanh khoản tạm thời nhằm tạo động lực cho
việc tái cấu trúc hệ thống.
Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ireland vào cuối năm
2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để đối phó với cuộc khủng
hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ireland đã đưa ra sáng kiến thành lập
công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành mạnh hệ thống ngân hàng.
Trong giai đoạn đầu, NAMA đã mua hoặc chuyển nhượng tài sản nợ trị giá 71 tỷ bảng Anh
từ 850 con nợ và hơn 11.000 khoản nợ được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động sản.
Để có được các khoản nợ này, NAMA đã phát hành chứng khoán do chính phủ bảo lãnh
cho 5 đơn vị thành viên của mình. NAMA có nhiệm vụ hoạt động làm sao đem lại kết quả
kinh doanh tốt nhất cho nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã
mua được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ 5 định chế nêu trên và

18


tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ sâu rộng với các con nợ để hiểu rõ thêm hoạt động

kinh doanh của họ và bắt đầu xây dựng một chiến lược trả nợ. Giai đoạn cuối cùng và lâu
dài nhất là đề ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ nhằm hoàn tất việc chi trả đầy đủ nghĩa
vụ của cả các con nợ và các khoản vay của NAMA vào năm 2019.
Nhiều nước ở châu Á như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập
công ty quản lý tài sản tập trung để xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của
ngân hàng. Một đặc điểm chung của các công ty này là tất cả đều được Chính phủ tài trợ
vốn, tổ chức tập trung hơn là sử dụng mô hình chỉ dựa vào ngân hàng. Hầu hết các công ty
quản lý tài sản ở các nước châu Á chỉ hoạt động trong một số năm nhất định. Các công ty
này cũng có quyền hạn đặc biệt để cắt giảm một số thủ tục pháp lý. Thái Lan thực hiện xử
lý nợ xấu bằng 3 giải pháp cơ bản. Các giải pháp này bao gồm:
- Bơm vốn trực tiếp.
- Thành lập công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management Company)
- Trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring Committee)
Trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả
từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.
Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, AMC thực hiện tịch
thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ.
Đối với các khoản vay mà AMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, AMC đã chủ động phối
hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại
hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Và chỉ sau vài
năm, hết quý 2/2003 số nợ xấu được AMC giải quyết đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ
lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Thái Lan giảm rõ rệt xuống từ gần 13% năm
2003 xuống 10% năm 2004 và đến quý 4/2011 ở mức không quá 4%.
Bên cạnh đó, một giải pháp được các các nước sử dụng là gắn giải quyết nợ xấu với
tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc kinh tế. Biện pháp này được đánh giá là mang tính cơ
bản, vì ngoài vấn đề xử lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu gia tăng.

19



Đối với Nhật Bản, họ tập trung nhiều hơn vào việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Không giống với một số nước, toàn bộ số tiền thành lập Tập đoàn Tái thiết công nghiệp
Nhật Bản (IRCJ) là của các ngân hàng chứ không phải từ nhà nước. Cách làm của IRCJ là
lựa chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ tách đơn vị ấy thành nhiều
phòng, ban và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng phòng, ban. Nếu một ban không sinh
lời, tập đoàn có thể bán ban đó kèm chiết khấu dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối
cùng, nguồn lực sẽ được một cách có chọn lọc vào những phòng, ban làm ăn có lãi hoặc có
sức cạnh tranh.
2.2. Tổng quan về tình hình nợ xấu tại Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa
Bảng 1. Bảng thống kê nợ xấu tại NHPT chi nhánh Khánh Hòa
(Đvt: triệu đồng)
STT

Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
1 Tổng dư Nợ cho vay
1,050,835
1,112,239
1,014,818
2 Nợ xấu
350,326
530,926
3 Tỷ lệ nợ xấu
31.50%
52.32%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)

Nhận xét: Tỷ lệ nợ xấu 2 năm 2011 và 2012 rất cao, năm sau cao hơn năm trước và đều

vượt ngưỡng cho phép ≤ 5% (theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN); nguyên nhân nào
NHPT chi nhánh Khánh Hòa có tỷ lệ nợ xấu quá cao?
Bảng 2: Dư Nợ cho vay theo thời gian:
(Đvt: triệu đồng)
T

Chỉ tiêu

T
1 Ngắn hạn
2 Trung dài hạn
3 Tổng dư Nợ

Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
55,033
5.2%
66,246
6%
6,998
0.7%
995,802
94.8% 1,045,993

94% 1,007,820
99.3%
1,050,835
100.% 1,112,239
100% 1,014,818 100.0%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)

Do nhiệm vụ hoạt động của NHPT chi nhánh Khánh Hòa thực hiện việc huy động,
tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển
và tín dụng xuất khẩu theo chương trình, dự án phát triển kinh tế của địa phương và quốc
gia nên hoạt động tín dụng chủ yếu là cho vay trung, dài hạn và khi nền kinh tế suy thoái thì
rủi ro tín dụng rất cao dẫn đến nợ xấu tăng vọt.

20


Bảng 3: Dư Nợ cho vay theo loại hình tổ chức, cá nhân
(Đvt: triệu đồng)
S
T

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Loại hình

T


Số tiền

1 DNNN, TNHH

271,762

%

Số tiền

%
18.0

Số tiền
178,21

%
17.6

25.9%

200,299

%
17.7

2

%

12.1

2 CTCP có vốn NN

205,189

19.5%

197,245

%
56.4

123,015

%
64.2

3 CTCP, TNHH
4 DNTN, Cá thể

555,472
18,412

52.9%
1.8%

627,089
87,606
1,112,23


%
7.9%

651,412
62,179
1,014,81

%
6.1%

3 Tổng dư Nợ

1,050,835 100%
9 100%
8 100%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)

Qua bảng 3, các công ty cổ phần, công ty TNHH chiếm tỷ trọng vay cao nhất theo
chủ trương ưu đãi tín dụng đầu tư và xuất khẩu cho DN nhỏ và vừa của Chính phủ và của
tỉnh Khánh Hòa qua các năm, tiếp đến là các DNNN và DN có vốn nhà nước vay theo kế
hoạch đầu tư để tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch và khi nền kinh tế suy thoái thì các loại
hình DN này khó chống đỡ và dẫn đến mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn trả, điều
này dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh trong 2 năm 2011 và 2012
Bảng 4. Thống kê nợ xấu năm 2012 theo loại hình tổ chức, cá nhân
(Đvt: triệu đồng)
Năm 2012
số tiền
%
1 DNNN, TNHH vốn NN

268,125
50.5%
2 CTCP có vốn NN
0.0%
3 CTCP, TNHH
\248,041
46.7%
4 DNTN, KT Cá thể
14,760
2.8%
3 Tổng Nợ xấu
\ 530,926
100%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)
STT

Loại hình

21


Tỷ lệ nợ xấu của DNNN, TNHH vốn NN chiếm tỷ trọng 50.5% cao nhất trong các
loại hình tổ chức, cá nhân vay vốn của NHPT chi nhánh Khánh Hòa, thực trạng này phổ
biến ở hầu hết các ngân hàng thương mại, do chính sách hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng
xuất khẩu ưu ái cho các DNNN để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các DNNN và các
CTy có vốn nhà nước này có năng lực quản lý yếu kém, cán bộ bị tha hóa trong nền kinh tế
thị trường, dự án đầu tư kéo dài, hoạt động kinh doanh thua lỗ, mất khả năng trả nợ điều này
dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh qua 2 năm 2011 và 2012
Loại hình CTCP, TNHH có nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn thứ nhì 46.7% trong tổng nợ
xấu, đây là loại hình DN nhỏ và vừa được ưu đãi vay vốn đầu tư theo chính sách ưu đãi để

xuất khẩu nhằm tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm của nhà nước; khủng hoảng kinh
tế kéo dài qua các năm, sức mua giảm dẫn đến hàng tồn kho của các DN này lớn, tiêu thụ
chậm thậm chí không bán được làm các DN không xoay vòng vốn được, mất khả năng trả
nợ vay dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh qua 2 năm 2011 và 2012.
3. Các giải pháp xử lý nợ xấu
3.1. Trích lập dự phòng rủi ro:
NHNN cho biết năm 2012 đã thanh tra 32 tổ chức tín dụng và hầu hết các tổ chức tín
dụng đều giảm kết quả kinh doanh sau thanh tra do phải trích lập dự phòng rủi ro đúng qui
định. Nhiều NHTM báo cáo có lãi nhưng qua thanh tra lại buộc trích lập dự phòng đúng qui
định thì dẫn đến lỗ, giảm vốn điều lệ thậm chí có NH không còn vốn điều lệTuy nhiên, việc
giảm nợ xấu bằng cách trích lập dự phòng liệu có giải quyết được thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng, giảm lãi suất cho vay? Trích lập dự phòng rủi ro đối với NHPT Việt Nam và chi
nhánh Khánh Hòa nói riêng là hết sức khó khăn, nếu trích lập đủ thì chi phí đội lên quá cao,
không thể giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hiện nay.
3.2.Tăng dư nợ tín dụng mới lên:

Tỷ lệ nợ xấu

=

Nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5

22


Tổng Nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5
Với cách làm này, mẫu số sẽ tăng lên giúp giảm tỷ lệ nợ xấu, nhưng hiện nay tăng
trưởng tín dụng rất thấp do hoạt động SX_KD bị đình đốn, lãi suất cho vay còn khá cao,
không thể đẩy mạnh được vì vậy khó giảm nợ xấu bằng cách này
3.3. Giảm qui mô nợ xấu:

Trong tổng số nợ xấu hiện nay của NHPT chi nhánh KH là nợ xấu chủ yếu và rất lớn
từ hoạt động thua lỗ của các công ty nhà nước và của các DN nhỏ và vừa, muốn giảm thì
phải đẩy nhanh tiêu thụ, quay vòng vốn trả nợ ngân hàng, giảm tồn kho hàng hóa trong tình
hình này rất khó khăn, thị trường đang khá trầm lắng, sức mua giảm vì vậy việc giải quyết
nợ xấu theo hướng này cũng rất chậm chạp. Trong 3 tháng đầu năm tỷ lệ Dn phá sản tăng
cao hơn so với thành lập, trong khi đó hàng tồn kho vẫn ở mức cao, mà nợ xấu có quan hệ
đến hàng tồn kho. Vậy khó có thể giảm được qui mô nợ xấu trong tình hình hiện nay.
3.4. Bán nợ xấu
Chính phủ sẽ thành lập Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) sẽ có vốn điều
lệ 500 tỷ đồng. Mục tiêu chính của AMC là góp phần xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
về mức an toàn; thêm khả năng tái tạo vốn cho họ để thúc đẩy nguồn cho vay đối với nền
kinh tế, góp phần giảm lãi suất cho vay.
VAMC sẽ mua nợ của Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa, được sử dụng
quyền của chủ nợ trong việc thu hồi nợ: đòi nợ và xử lý nợ, có quyền điều chỉnh cơ cấu lại
khoản vay, điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành cổ phần của khách vay, bán tài sản đảm bảo…
Trong quá trình xử lý nợ xấu, VAMC không lấy tiền ngân sách để xử lý nợ xấu mà sẽ phát
hành trái phiếu có thời hạn trong 5 năm để mua nợ với mức lãi suất trái phiếu 0%. Trong
thời gian này, mỗi năm, ngân hàng Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa phải trích
lập dự phòng rủi ro 20% cho trái phiếu. Tác dụng:
a. Điều này dẫn đến cung thanh khoản của Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh
Hòa được cải thiện, tránh mất khả năng thanh khoản vì từ khoản nợ xấu khó thu hồi đã trở

23


thành trái phiếu (dự trữ thứ cấp) dễ chuyển đổi thành tiền trên thị trường mở, Ngân hàng
phát triển chi nhánh Khánh Hòa được bổ sung vốn khả dụng, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả
năng thanh toán của mình và điều tiết thị trường tiền tệ, góp phần giảm lãi suất cho vay,
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
b. Cải thiện hệ số kiểm soát tín dụng - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (hệ số Cooke) là

chỉ tiêu rất quan trọng để phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng. Chỉ tiêu này được sử
dụng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ có thời hạn, đánh gía mức độ an toàn
trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
CAR =

VTC
Tổng tài sản Có rủi ro

x 100% ≥

9%

Với công thức trên, tài sản Có rủi ro (các khoản nợ xấu) có hệ số rủi ro 100% đã trở
thành tài sản Có (trái phiếu) có hệ số rủi ro = 0, mẫu số giảm mạnh dẫn đến gia tăng tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu (CAR – Capital Adequacy Ratio) của Ngân hàng phát triển.
Sau 5 năm, nếu khoản nợ xấu không bán được, Ngân hàng phát triển cũng đã trích
lập đủ 100% trái phiếu để trả trái phiếu cho VAMC, đồng thời nhận khoản nợ xấu về. Tuy
nhiên, lúc này, khoản nợ xấu đó đã được xóa trong bảng kế toán của ngân hàng, có nghĩa là
đã được làm sạch (vì ngân hàng đã trích lập dự phòng rủi ro 100%). Nếu xử lý được nợ xấu,
thanh lý được tài sản đảm bảo thì tổ chức tín dụng chỉ được thu về 85% giá trị, còn VAMC
được hưởng 15%.
Đi cùng với giải pháp này, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ triển khai các giải pháp
khác có trong đề án xử lý nợ xấu như tiếp tục hoàn thiện các chính sách bổ trợ khác, như cơ
chế phân loại nợ mới bắt đầu thực hiện từ tháng 6/2013; sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn an
toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, dự kiến cũng sẽ được ban hành.
AMC cùng những giải pháp tổng thể đó có thể tạo một bước chuyển mới, căn bản
trong yêu cầu xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, nợ xấu là một vấn đề của kinh tế vĩ mô, nên cần có
thêm sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành chức năng khác nữa.
3.5. Tăng cường thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước chi nhánh Khánh Hòa tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác

thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa tuân

24


thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân
loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín dụng
IV. KẾT LUẬN
Các giải pháp xử lý nợ xấu mà tác giả nêu ra, nhìn chung, bất kì các giải pháp nào
nhằm giải quyết nợ xấu cho Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa trong thời kì bế tắc,
khủng hoảng đều có tính chiến lược tuỳ theo tình hình, hoàn cảnh, mục tiêu của chính phủ,
NHNN, ban quản trị NH nhằm mục đích cuối cùng là làm cho Ngân hàng phát triển chi
nhánh Khánh Hòa hoạt động tốt hơn, với mong muốn đem lại cho hệ thống NHTM hoạt
động lành mạnh, tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách tiền tệ đạt mục tiêu tăng
trưởng kinh tế ổn định.
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu của các NHTM nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào các
chính sách vĩ mô của chính phủ, hay còn tuỳ thuộc vào mục tiêu của ban quản trị NHTM,
có chấp nhận bán một phần nợ xấu của mình cho VAMC? hay các biện pháp mua bán, sáp
nhập NHTM…hay liệu các cổ đông, các nhà đầu tư chiến lược có chấp nhận tăng vốn cho
NHTM khi ngân hàng đang trên bờ phá sản do mất khả năng thanh toán vì nợ xấu. Nếu các
giải pháp trên hoạt động tốt sẽ đưa NHTM tiếp tục trở lại guồng máy, nhưng nếu các giải
pháp trên trở nên không hiệu quả, có khác nào đưa tiền vào cái bao không đáy. Đây vẫn là
câu hỏi cho các nhà quản trị khi NHTM mình lâm vào tình hình nợ xấu tăng nhanh.
Điều mà Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa cần lưu ý trong quá trình xử lý nợ
xấu tối ưu là phải căn cứ tình hình thực tế của thị trường và từng giai đoạn phát triển cụ thể
của ngân hàng để đưa ra giải pháp phù hợp. Vì việc kinh doanh thành công không có công
thức chung cho tất cả các ngân hàng và việc xử lý nợ xấu hiệu quả cũng vậy.

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM

Số: 02/2013/TT-NHNN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng 01 năm
2013

25


×