Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

VẬN DỤNG QUY LUẬT THỐNG NHẤT và đấu TRANH của NHỮNG cái đối lập của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật vào PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KINH tế VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
-----o0o-----

TIỂU LUẬN
MÔNTRIẾT HỌC
Đề tài:VẬN DỤNG QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU
TRANH CỦA NHỮNG CÁI ĐỐI LẬP CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀO PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KINH
TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY.
GVHD

: TS.Bùi Văn Mưa

Lớp_Khóa

: Đêm 1_K24

Nhóm

: 18

Nhóm trưởng
Thành viên 1
Thành viên 2

: Phan Tấn Lực
Nguyễn Văn Hải
Nguyễn Thị Hồng Loan

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2015




LỜI MỞ ĐẦU
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con
người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế, chẳn hạn như cung cầu, tích luỹ, tiêu dùng, tính kế
hoạch hóa của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất
hàng hóa… Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự
vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong
cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình
thành….Điều này cũng đúng với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được
nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ
cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn chuyển tiếp này xuất hiện những mẫu thuẫn mà
những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển
nền kinh tế đất nước. Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đây
là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bằng những kiến thức tích
lũy được trong thời gian vừa qua nhóm em chọn đề tài: "Vận dụng quy luật thống
nhất và đấu tranh của những cái đối lập của phép biện chứng duy vật vào phân
tích thực trạng kinh tế Việt Nam hiện nay" với bố cục gồm hai phần chính:
-

Phần I. Những lý luận chung của quy luật thống nhất và đấu tranh của những cái đối

-

lập của phép biện chứng duy vật.
Phần II. Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập của phép

biện chứng duy vật vào thực trạng kinh tế Việt Nam hiện nay.

2


MỤC LỤC

3


1. Những lý luận chung của quy luật thống nhất và đấu tranh của những
mặt đối lập của phép biện chứng duy vật
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập được coi là hạt nhân của
phép biện chứng duy vật, bởi vì nó nghiên cứu về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ
biến của mọi quá trình vận động và phát triển, theo đó nguồn gốc của mọi quá trình
vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng.
1.1. Các mặt đối lập
Sự vật là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi
trường.Sự tương tác này làm cho các yếu tố tạo nên bản thân sự vật có một sự biến
đổi nhất định, trong đó có vài yếu tố (biến đổi) trái ngược nhau.Những yếu tố trái
ngược nhau (bên cạnh những yếu tố khác hay giống nhau) tạo nên cơ sở của các mặt
đối lập trong sự vật.Mặt đối lập tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng. [1, 121]
1.2. Sự thống nhất của các mặt đối lập
Các mặt đối lập khẳng định nhau, nương tựa vào nhau, thâm nhập lẫn nhau,
tồn tại không tách rời nhau (mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm điều kiện, tiền
đề cho sự tồn tại của mình); là các mặt đối lập đồng nhất nhau, tức trong chúng
chứa những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong sự vật; là các mặt
đối lập tác động ngang nhau, tức sự thay đổi trong mặt đối lập này tất yếu sẽ kéo
theo sự thay đổi trong mặt đối lập kia và ngược lại. [1, 121]
1.3. Đấu tranh của các mặt đối lập

Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau,
tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ hay loại bỏ lẫn
nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các mặt đối lập rất đa dạng, trong đó thủ
tiêu lẫn nhau là một hình thức đấu tranh đặc biệt của các mặt đối lập. [1, 122]
1.4. Chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn biện chứng)
Sự thống nhất của các mặt đối lập mang tính tương đối gắn liền với sự ổn định
của sự vật; sự đấu tranh của các mặt đối lập mang tính tuyệt đối gắn liền với sự vận
động, thay đổi của bản thân sự vật. Mâu thuẫn biện chứng phát triển tương ứng với
quá trình thống nhất các mặt đối lập chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt. Điều
4


này làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của các mặt đối lập.Khi điều kiện khách
quan hội đủ, một trong các khả năng đó sẽ biến thành hiện thực, các mặt đối lập tự
thực hiện quá trình chuyển hóa.Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết khi các mặt
đối lập phủ định chính mình để biến thành cái khác. Có hai phương thức chuyển
hóa: một là, mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia ở một trình độ mới;
hai là, cả hai mặt đối lập cùng chuyển hóa thành những cái thứ ba nào đó mà quy
luật khách quan và điều kiện, tình hình cho phép. [1, 122]
1.5. Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng, tức sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tồn
tại khách quan, phổ biến và đa dạng.Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua giai
đoạn sinh thành (sự xuất hiện của các mặt đối lập) – hiện hữu (sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập) – giải quyết (sự chuyển hóa của các mặt đối lập). Mâu
thuẫn biện chứng được chia thành: mâu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài;
mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ
yếu; mâu thuẫn trong tự nhiên – mâu thuẫn trong xã hội (đối kháng và không đối
kháng) – mâu thuẫn trong tư duy (phân biệt mâu thuẫn biện chứng trong tư duy với
mâu thuẫn lôgích);… Các mâu thuẫn khác nhau có vai trò không giống nhau đối với
sự vận động, phát triển của bản thân sự vật, đồng thời có phương thức giải quyết

cũng khác nhau.Sự tác động của mâu thuẫn biện chứng lên bản thân sự vật là nguồn
gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới. [1, 122]
1.6.Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật – Nguyên tắc phân tích mâu thuẫn
(phân đôi cái thống nhất)
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đúng sự vật phải thấy được nguồn gốc vận
động, phát triển (tức mâu thuẫn) của nó:
- Phân đôi sự vật thành các cặp mặt đối lập, khảo sát sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập để phát hiện ra các mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự
vật đó.
- Phân loại và xác định đúng vai trò, giai đoạn tồn tại của từng mâu thuẫn biện
chứng (đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn bên trong,…)
đang chi phối sự vận động, phát triển của bản thân sự vật.
5


- Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng quy mô và
phương thức giải quyết của từng mâu thuẫn biện chứng, dự đoán cái mới ra đời sẽ
vận động dưới sự tác động của những mâu thuẫn biện chứng nào.
Trong thực tiễn, để đạt được hiệu quả phải:
- Hiểu rõ nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của bản thân
sự vật là những mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự vật để từ đó xây dựng các
đối sách thích hợp.
- Tìm hiểu và sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất để can
thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động, phát triển của bản
thân sự vật để lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta: (1) Muốn
sự thay đổi nhanh phải đẩy mạnh sự tác động (đấu tranh) của các mặt đối lập và tạo
điều kiện thuận lợi để chúng nhanh chóng chuyển hóa lẫn nhau, để mâu thuẫn biện
chứng sớm được giải quyết; ngược lại, muốn duy trì sự ổn định của sự vật phải
dung hòa sự xung đột của các mặt đối lập trong phạm vi cho phép; (2) Khi điều kiện
đã hội đủ và mâu thuẫn biện chứng đã chín mùi phải cương quyết giải quyết nó, mà

không nên chần chừ, do dự hay thỏa hiệp; tức phải giải quyết mâu thuẫn đúng lúc,
đúng chỗ và đúng mức độ… [1, 123]
2. Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của những cái đối lập của
phép biện chứng duy vật vào thực trạng kinh tế Việt Nam hiện nay
2.1. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam bản thân nó là một mâu
thuẫn, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Kinh tế thị trường
vận hành theo cơ chế thị trường do các quy luật khách quan tự phát chi phối và kết
quả nó thường phân hóa dữ dội đưa đến sự giàu nghèo, bất bình đẳng, bất công
trong xã hội, xung đột tranh chấp giữa các tầng lớp người nhưng định hướng XHCN
là có sự dẫn dắt của nhà nước XHCN lèo lái hướng đến sự công bằng, hướng đến sự
bình đẳng, hướng đến lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy
nếu ta giải quyết không đúng mâu thuẫn này thì chúng ta sẽ dẫn đến tình trạng quá
đề cao định hướng XHCN, quá đề cao sự công bằng, bình đẳng mà làm mất đi động
6


lực phát triển kinh tế hay là quá chú ý đến lợi ích, đến sự phát triển kinh tế sẽ làm
cho sự công bằng, bình đẳng, định hướng XHCN trong nền kinh tế mờ nhạt đi. Vì
quá tập trung phát triển kinh tế mà quên đi sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, đó
là một việc bất hợp lý cần phải giải quyết mâu thuẫn đó.
Trong mâu thuẫn này nổi bật lên nhất chính là sự chênh lệch về thu nhập, dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa này diễn ra khá sâu sắc, đặc biệt phải kể
đến sự chênh lệch thunhập giữa nông thôn và thành phố, giữa thành phố và các
vùng miền và chênh lệch giữa các thành phần kinh tế.Nâng cao chất lượng tăng
trưởng là một trong những trọng tâm của chiến lược phát triển - kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người
dân, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thuhẹp khoảng cách chênh lệch giữa

thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
2.2. Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế”. [11, 311-312]. Chính trị không phải là mục đích mà
chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “bạo
lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích, để thoả thuận những
lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn
thuần”.
Ổn định kinh tế và đổi mới chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện
chứng với nhau.Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn
định.Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế và
trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó được xem xét, giải
quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Trong khi đề ra đổi mới chính trị,
Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng. Đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để
giữ vững ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai
trò tổ chức quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới kinh tế không phải là
7


đổi mới một cách tùy tiện mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó là sự
dịch chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, văn minh, tạo sự ổn định về chính trị. Nắm được mẫu thuẫn
này, Đảng và Nhà nước đã có những chiến lược cho phù hợp đảm bảo giữa phát
triển kinh tế và giữ vững an ninh chính trị:
-


Chuyển từ quá trình phát triển về lượng (chỉ lo tăng trưởng) lên quá trình
phát triển về chất (thể hiện ở trình độ công nghệ cao trong các doanh nghiệp,
chất lượng sản phẩm với thương hiệu Việt Nam, hình thành lực lượng lao

-

động và lực lượngquản lý chuyên nghiệp trình độ cao ...)
Sớm chuyển từ hướng phát triển phiến diện hiện nay (nhiều vấn đề xã hội và
môi trường nặng nề) lên định hướng phát triển đồng thuận giữa kinh tế với
xã hội và môi trường, gọi là phát triển bền vững vì sự phát triển con người và

-

cộng đồng.
Thúc đẩy hình thành tổ chức và thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân trong các cấp. Chỉ khi đi vào hướng kinh tế phát triển bền vững
và Nhà nước pháp quyền có hiệu quả thì mới có nội hàm "định hướng xã hội

-

chủ nghĩa" trên thực tế.
Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, các Hội trong thực hiện chiến
lược phát triển, nhằm thực hiện mục tiêu "nhân dân làm chủ" của Đảng đã đề
ra.
Tiền đề của việc thực hiện các giải pháp trên là một bước đổi mới tư duy

kinh tế chính trị dựa trên vận dụng phép biện chứng giữa kinh tế với chính trị. Đồng
thời đổi mới phương pháp lãnh đạo, quản lý theo phương pháp hệ thống khắc phục
tình trạng cục bộ, địa phương. Yêu cầu này phải bắt đầu từ quá trình đào tạo cán bộ
cao cấp và từ công tác tổ chức - cán bộ.

2.3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, lực lượng sản xuất là một yếu tố
luôn thay đổi, quyết định quan hệ sản xuất.Khi lực lượng sản xuất phát triển đến
một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ sẽ không còn phù hợp và chính quan
8


hệ sản xuất này kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.Quá trình mẫu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra gay gắt và quyết liệt, tác động
vào nền tảng vật chất của đời sống xã hội, đó là nền sản xuất vật chất.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội phát triển dựa trên một phương thức sản xuất
nhất định, là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tương ứng.Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
động lực thúc đẩy sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Phương thức sản xuất mới ra
đời tạo tiền đề vật chất tối cần thiết cho sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ
bằng hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ cao hơn.
Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát
triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng,
đã chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” sang công thức “có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp”. Sự “phù hợp” ở đây trước hết là phù hợp với trình độ phát triển
lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
Đảng và Nhà nước đã tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ
khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ
sản xuất mới. Đã đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển một số ngành công
nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng
những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin; phát
9


triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ.
2.4. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Nền kinh tế nước ta có năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào
nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở
hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã
hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nằm trong
hệ thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau cả "đầu vào" và "đầu
ra". Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở xu hướng vận động khác
nhau, mang bản chất kinh tế khác nhau, biểu hiện lợi ích kinh tế khác nhau. Ngoài
ra, ngay trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế cũng có mâu thuẫn do sự vi phạm hợp
đồng, vì lợi ích cục bộ, chiếm dụng vốn của nhau, vi phạm bản quyền sở hữu phát

minh, nhãn mác, giành thị trường, … Những mâu thuẫn của nền kinh tế nhiều thành
phần chỉ được giải quyết dần dần trong quá trình xã hội hóa sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 10 năm 2014, cả nước có gần
834.400 doanh nghiệp đăng ký thành lập theo Luật Doanh nghiệp, tuy nhiên, có tới
96% doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Loại hình kinh tế tập thể - hợp tác xã
có gần 14.000, và 4,6 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể phi nông lâm nghiệp,
thủy sản thu hút 35% lượng lao động trong các đơn vị kinh tế hành chính sự
nghiệp... Phải nói rằng, thời gian qua khi nền kinh tế khủng hoảng khu vực này tuy
đóng góp vào GDP khiêm tốn, nhưng lại có ý nghĩa xã hội lớn là tạo doanh thu bán
10


lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội, góp phần làm tăng thêm thu nhập cho các
hộ gia đình trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam chưa nhiều so với dân
số và quy mô nền kinh tế Việt Nam.Hơn nữa, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam
còn rất nhỏ, thiếu vắng những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tầm quốc gia cũng
như quốc tế.Nguyên nhân là do các thể chế hỗ trợ thị trường còn kém hiệu quả; hệ
thống các giải pháp, chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thiếu trọng tâm, quy mô chưa
đủ lớn; chất lượng nguồn nhân lực chưa cao; tiếp cận nguồn vốn tín dụng còn khó
khăn…
Những giải pháp được Chính phủ thực hiện trong thời gian qua (Nghị quyết
02/2013) và việc Quốc hội hạ thuế suất thuế TNDN cơ bản xuống còn 22% và 10%
với. Doanh nghiệp tham gia đầu tư, bán hoặc cho thuê nhà ở xã hội đã góp phần
tháo gỡ một số khó khăn cho các doanh nghiệp, nhưng những dấu hiệu phục hồi
chưa rõ rệt.Tổng số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh
vẫn cao. Chi phí lãi vay cao, môi trường kinh doanh không thuận lợi và hàng tồn
kho cao thường là các lý do chính dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc

giải thể, và số này chủ yếu là ở khu vực tư nhân.
Để đảm bảo bình đẳng các thành phần kinh tế Đảng và Nhà nước đã xác định
đổi mới thể chế nền kinh tế đã được xác định là một trong ba khâu đột phá.Mục tiêu
của đổi mới thể chế là làm cho thị trường vận hành tốt hơn, đầy đủ hơn. Hiện Đề án
nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế VN giai đoạn 2014 - 2020, tầm nhìn 2030, đã
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển.
2.5. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế, công bằng xã hội và văn hóa
Văn hóa chính là cái nôi nuôi dưỡng mọi sự phát triển.Văn hóa tạo ra môi
trường sống và không gian tinh thần để nâng đỡ các không gian chính trị và không
gian kinh tế.Chính bởi vậy, sự phát triển về kinh tế và chính trị phụ thuộc đáng kể
vào không gian tinh thần đó.Văn hóa và phát triển có mối quan hệ biện chứng sâu
sắc. Nếu có bề dày kinh nghiệm văn hoá, chúng ta sẽ có khả năng đồng cảm với

11


những cộng đồng khác trong quá trình tương tác. Sự hiểu biết lẫn nhau sẽ khiến mỗi
cộng đồng trở nên tinh tế hơn trong các hành vi tìm kiếm lợi ích của mình.
Nếu không gian tinh thần lạc hậu, con người sẽ nảy sinh tâm lý tự mãn về
những giá trị của mình, rất khó khăn trong việc nhận ra cái mới và tiếp cận cái mới,
và do đó, sẽ bỏ lỡ các cơ hội phát triển.Ngược lại, sự phát triển quá nhanh sẽ không
tạo điều kiện cho sự ngưng tụ của các kinh nghiệm văn hóa và tạo ra trạng thái hời
hợt về mặt văn hoá. Điều này sẽ khiến cho các hành vi tìm kiếm lợi ích của mỗi
cộng đồng trở nên khó chấp nhận trong mắt những cộng đồng khác.
Về văn hóa, Đảng luôn chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện
về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật"
[10]. Văn hóa là động lực, đóng góp trong mọi mặt của sức mạnh mềm, giúp kinh tế
phát triển, trong đó trực tiếp nhất là giáo dục.Ngược lại, nền kinh tế của Việt Nam
có đặc trưng lớn là phát triển nhằm mục đích nâng cao văn hóa cho nhân dân.Văn

hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế; là một trong 3 nhiệm
vụ lớn nhất của cách mạng Việt Nam, đồng thời với phát triển kinh tế và xây dựng
đảng.
Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức
mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự
phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.Nhìn tổng thể, việc
phát triển văn hóa ở nước ta cho đến nay về cơ bản chưa thích ứng với phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thúc đẩy cải cách thể chế văn
hóa để giải quyết mâu thuẫn và độ vênh giữa kinh tế và văn hóa. Vừa qua, Trung
ương đã có nghị quyết về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, trong
đó có quan điểm chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Tương tự như vậy, các hoạt động khác trên lĩnh vực văn hóa cũng cần vận dụng
quan điểm ấy, phân định rõ ràng việc gì phải bao cấp, việc gì phải xã hội hóa các
nguồn tài chính, xây dựng thị trường các ấn phẩm văn hóa, có cạnh tranh về chất
lượng với giá cả hợp lý, phát triển ngành công nghiệp văn hóa trên lĩnh vực và sản
12


phẩm phù hợp. Trong khi đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển công nghiệp văn hóa, cải
cách thể chế văn hóa phù hợp cơ chế thị trường, để không mất phương hướng, chủ
động định hướng cho các hoạt động và sản phẩm văn hóa, cần đặc biệt quan tâm
xác định và xây dựng giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, làm tâm điểm cho các
hoạt động văn hóa đa dạng.

13


KẾT LUẬN
Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển nên để

nắm được bản chất của sự vật ta cần phải hiểu rõ tính thống nhất và nhận thức các
mặt đối lập của chúng. Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, trong khi nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải có phương pháp luận phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu
thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ có thể tiến hành bằng con
đường đấu tranh giữa các mặt đối lập khi điều kiện đã chín muồi.
Quy luật vận động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay cũng không nằm ngoài những quy luật trên. Thực tiễn kinh
tế đất nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới đã và đang chứng minh tính
khách quan khoa học, tính hiệu quả cao của cơ chế mới đó. Vận dụng quy luật
thống nhất và đấu tranh của những cái đối lập của phép biện chứng duy vật một
cách hiệu quả vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam đã giúp đất nước vượt qua được những khó khăn tưởng chừng như không thể
khắc phục do nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để lại.Chúng ta đã có một nền
kinh tế thị trường phát triển năng động hội nhập vào quốc tế với những thành tựu to
lớn, tạo niềm tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, kiên định theo con đường
chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. Tuy nhiên bên cạnh những
mặc tích cực do nền kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng không thể tránh khỏi
những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy việc nhận thức rõ những mặt đối lập, những
quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết, giúp chúng ta linh hoạt đưa
ra những kế sách phát triến kinh tế - xã hội phù hợp giải quyết được những mâu
thuẫn vốn có trong nền kinh tế thị trường, từ đó đã đưa đất nước ngày phát triển
khẳng định được vị trí của mình trên khu vực và thế giới, ổn định kinh tế tiến lên xã
hội chủ nghĩa.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (Chủ biên), Triết học, Tp. Hồ Chí Minh, 2014
2. Đảng CSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991), Đại hội VII của đảng, 1991
3. Đảng CSVN, Cương lĩnh bổ sung, phát triển của đảng về quốc phòng an ninh và
đối ngoại, 2011
4. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đại hội VI, VII, VIII, IX
5. Kim Ngọc, Triển vọng kinh tế thế giới 2020, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005
6. Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức
7. Nghị quyết 02-NQ-CP Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thị trường,
giải quyết nợ xấu, 07/01/2013
8. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT
9. Phát triển kinh tế tư nhân tăng nội lực cho nền kinh tế, />10. Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 218/2013/NĐ-CP ngày
26/12/2013 của Chính Phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN)(Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa
VIII) tháng 7 năm 1998).
11. V.I.Lênin,Toàn tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, T.42, tr.311-312.

15


PHỤ LỤC

Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam
TẠP CHÍ CỘNG SẢN
Lê Hữu Nghĩa GS, TS. Phó
Chủ tịch Hội đồng lý luận
Trung ương
TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã yêu cầu phải đặc biệt chú

trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ
“giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa”(1). Việc nhận thức, vận dụng mối quan hệ này phù
hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bản chất quy luật và sự thể hiện trong điều kiện thực tiễn cụ thể
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện
thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là quy luật do C. Mác phát hiện ra và được trình bày trong nhiều tác phẩm của
ông. Đây là quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến
cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy
định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản
xuất.Theo quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.Phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình
16


thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Cần quan niệm sự phù hợp một cách biện chứng, lịch sử cụ thể, trong quá trình, trong trạng thái động. Do bản tính của mình, lực lượng sản
xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối
ổn định, biến đổi chậm hơn. Vì vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
mặt đối lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò
quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất đồng thời cũng chỉ ra
tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác
động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố

hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể coi quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội.Sự biến đổi,
phát triển xã hội xét đến cùng là bắt nguồn từ quy luật này.
Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người,
tồn tại và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn,
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Vì vậy việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói
chung, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc
gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình quốc
tế.
Ở nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, một nước tuy đã trải qua giai
đoạn phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản, trong thời kỳ nội chiến, chống thù
trong giặc ngoài, V.I. Lê-nin và những người bôn-sê-vích cũng đã tưởng rằng có thể
bằng “chính sách cộng sản thời chiến” tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mùa xuân năm 1921 đã cho thấy sai lầm đó. V.I.
Lê-nin viết: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là - có thể trực tiếp dùng
pháp lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa, trong một
nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã
vạch rõ sai lầm của chúng ta”(2). V.I. Lê-nin đã phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ
17


vì không sát thực tiễn trong việc vận dụng quy luật. Người đã quyết định chuyển
sang chính sách kinh tế mới (NEP) thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng chế
độ thuế lương thực, khuyến khích phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị
trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, tư bản tư nhân, chính sách tô
nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản...
Còn ở Trung Quốc trong thời kỳ 1957 - 1960 - thời kỳ tiến hành “3 ngọn cờ hồng”,
“công xã nhân dân”, “đại nhảy vọt” - đó là thời kỳ bệnh chủ quan, duy ý chí ghê

gớm đã phá hoại lực lượng sản xuất của một nước còn nghèo nàn lạc hậu. Rõ ràng
việc nhận thức, vận dụng không đúng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, không phù hợp với quy luật và điều kiện thực tiễn đã phải
trả giá đắt như thế nào.
Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986)
của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ
trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều
kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu
nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển.Nhưng hậu quả thì ngược lại.
Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực
lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà
cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn
tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn
xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế
tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội,
vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng.
Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy
18


luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật
của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.Cuộc sống dạy
cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Từ sự trình bày trên đây, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và

vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, tức mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
không phù hợp thực tiễn.
- Không hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất
mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản
xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản
xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền.
- Nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất
là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư
nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi
nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của
người lao động.
- Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
- Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất
khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng
sâu, vùng xa...) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng
quan hệ sản xuất.
Tóm lại, những sai lầm có tính phổ biến trên đây chính là do nhận thức không đúng
bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều
kiện tác động của nó, không tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục
không tránh khỏi rơi vào thất bại.

19


Công cuộc đổi mới là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng đúng đắn

hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam và quốc tế
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ
quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại
hội đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là
quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách quan, trong
gần 30 năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu về nhận thức và
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất ở nước ta.
- Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển.
Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã
chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh năm 1991)
sang công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011).
Sự “phù hợp” ở đây trước hết là phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Không ngừng hoàn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động
20



theopháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện chủ trương trên, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ
sản xuất để khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi
tiềm năng của sản xuất, tạo thêm động lực cho người lao động. Đó là những chính
sách, pháp luật liên quan đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà
nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể,
đến phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu
quả của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện
các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ
chức - quản lý và phân phối. Đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2013), quy
định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua định hướng, điều
tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển và các lực
lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản
xuất mới. Đã đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển một số ngành công
nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng
những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin; phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới

mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
21


hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại
lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn minh
của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và
củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp
tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương, như ASEAN,
APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA...), xúc
tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu
quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình
độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
170 nước, quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định
thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.
Tuy nhiên trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng bộc
lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực
lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất.
Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập
trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại khó có
thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn
kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động, hiệu quả, chất

lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) rất thấp. Lực lượng sản
xuất yếu kém như vậy sẽ quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất mà
chúng ta gọi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không thể hoàn thiện được.
Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt của
22


quan hệ sản xuất.Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải tiến,
đổi mới quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm. Chưa thể gọi quan hệ sản xuất hiện
nay ở nước ta là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (theo đúng nghĩa của từ đó) bởi
vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang thực hiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực lượng sản xuất công nghiệp hiện
đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Vì vậy không nên nóng vội trong xây dựng
quan hệ sản xuất, song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng quan hệ sản xuất
từng bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước chưa
thực sự giữ vai trò chủ đạo, bởi vì nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp,
chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà
nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Doanh
nghiệp nhà nước hiện chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà
nước, 60% tín dụng các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA,... nhưng khu vực
này chỉ đóng góp 37% - 38% GDP.
Các doanh nghiệp nhà nước có hệ số ICOR cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân
(trong giai đoạn 2006 - 2010 nếu tính toán từ vốn đầu tư, hệ số ICOR của khu vực
nhà nước là 9,68 còn khu vực ngoài nhà nước là 4,01, tăng hơn giai đoạn 2000 2005 theo vị trí tương ứng là 6,94 (nhà nước) và 2,93 (ngoài nhà nước). Suất sinh
lời trên vốn của doanh nghiệp nhà nước thấp hơn doanh nghiệp tư nhân.

Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm quyền
và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản lý vốn, do
đó thời gian qua nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan, ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích
nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng lên (tính đến cuối năm 2012, nợ
xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm 11,82% tổng nợ xấu của các tổ chức hệ
thống tín dụng và 5,05% dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước).
23


Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, yếu kém, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp
mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ
không chia trong hợp tác xã rất nhỏ bé, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và
trình độ quản lý rất thấp, không cạnh tranh được với các hộ sản xuất cá thể. Tỷ
trọng của kinh tế tập thể trong GDP nhỏ bé, giảm liên tục từ 10,1% năm 1995
xuống còn 5,22% năm 2011.
Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế,
đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp
nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ
chế, chính sách. Trong những năm gần đây do suy giảm kinh tế nên hàng vạn doanh
nghiệp tư nhân, cá thể bị giải thể hoặc ngừng hoạt động. Tiềm năng của kinh tế tư
nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều
hơn cho xã hội.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng trong
đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Tỷ trọng của khu vực FDI
đã tăng liên tục từ 4,2% năm 1991 lên 18,97% năm 2011. Tuy nhiên khu vực này
cũng có những hạn chế, như chưa đầu tư vào các lĩnh vực có công nghệ cao, công
nghệ nguồn, phần lớn còn là công nghệ trung bình, thậm chí lạc hậu, gia công, lắp
ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có lợi nhuận kém hấp
dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị trường, nhân lực rẻ tại

Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm chí có cả hiện tượng
“chuyển giá”, hạch toán lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản xuất
đã cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.Tình hình trên đây có cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối, đa
thành phần kinh tế là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, phải vừa làm vừa
rút kinh nghiệm.
24


Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước lạc hậu đi lên
chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập... còn rất nhiều
hạn chế, bất cập, nhiều vấn đề phải mò mẫm. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc
chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định trong nghị quyết của Đảng song vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau (chẳng hạn, vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác
nhau ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập
ngừng, không nhất quán, không kiên quyết.
Bên cạnh đó, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng
còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất; tổ chức
thực hiện còn thiếu kiên quyết, dễ làm khó bỏ; quản lý nhà nước còn nhiều yếu
kém; không thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các
chính sách, biện pháp. Đồng thời có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù
hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành.
Một số cán bộ, đảng viên rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực và phẩm chất không đáp ứng được

yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Một số vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất ở nước ta - vốn từ một nước lạc hậu, có điểm xuất phát rất thấp đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, về sở hữu và các thành phần kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng
mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng
25


×