Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ PHƢƠNG LAN

KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
DO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG BAN HÀNH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ PHƢƠNG LAN

KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
DO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG BAN HÀNH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Hƣơng

Hµ néi - 2007


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
Những vấn đề cơ bản về kiểm tra, xử lý văn bản quy

7

phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành

1.1.

Khái quát về văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền
địa phương ban hành

7

1.1.1.


Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật

7

1.1.2.

Thẩm quyền ban hành, hình thức và nội dung của văn bản
quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành

11

1.2.

Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do
chính quyền địa phương ban hành

14

1.2.1.

Hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

14

1.2.1.1. Khái niệm và vai trò của kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật

14


1.2.1.2. Mục đích và nguyên tắc của kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật

20

1.2.1.3. Phương thức kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

21

1.2.1.4. Chủ thể và phạm vi đối tượng của kiểm tra

23

1.2.1.5. Nội dung kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

25

1.2.2.

Hoạt động xử lý văn bản quy phạm pháp luật

1.2.2.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động xử lý văn bản quy phạm
pháp luật

27
27


1.2.2.2. Các nguyên tắc xử lý văn bản trái pháp luật


28

1.2.2.3. Thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính

29

quyền địa phương ban hành
1.2.2.4. Các hình thức xử lý

32

1.2.3.

Thủ tục kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật

34

Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm

39

pháp luật do chính quyền địa phương ban hành

2.1.

Thực tiễn soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản quy

39

phạm pháp luật của chính quyền địa phương

2.2.

Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động kiểm tra và
xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa
phương ban hành

44

2.2.1.

Quy định pháp luật về tổ chức bộ máy của các cơ quan
kiểm tra văn bản

48

2.2.2.

Quy định pháp luật về nghiệp vụ kiểm tra và xử lý văn bản

50

2.2.3.

Quy định của pháp luật về các điều kiện bảo đảm cho hoạt

51

động kiểm tra
2.3.


Thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm

51

pháp luật do chính quyền địa phương ban hành
2.3.1.

Về tổ chức bộ máy

52

2.3.2.

Về mặt thể chế

53

2.3.3.

Về đội ngũ cán bộ công chức làm công tác kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật

56

2.3.4.

Về chế độ chính sách

56


2.3.5.

Các điều kiện khác bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản

56

2.3.6.

Tình hình kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật

57

Chương 3:

74

Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt


động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do
chính quyền địa phương ban hành

3.1.

Phương hướng và quan điểm nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính
quyền địa phương ban hành

74


3.2.

Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền
địa phương ban hành

77

Kết luận

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

4. Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính phủ (2005), Thông tư liên tịch số

55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5 hướng dẫn thể thức và kỹ thuật
trình bày văn bản, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2004), Thông tư liên tịch số
109/2004/TTLT-BTC-BTP ngày 17/11 hướng dẫn việc quản lý và sử
dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2004), Thông tư số 01/2004/TT-BTP ngày 16/6 về việc
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 135/2003/NĐ-CP về
kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ (2005), Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLTBTP-BNV ngày 24/01 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh
nghiệp nhà nước, Hà Nội.
8. Chính phủ (1997), Nghị định số 94/CP ngày 06/9 về tổ chức pháp chế ở
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hà Nội.


9. Chính phủ (1997), Nghị định số 101/NĐ-CP ngày 23/9 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Hà Nội.
10. Chính phủ (2003), Quyết định số 909/2003/QĐ-TTg ngày 14/8 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình đổi mới công tác
xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật, Hà Nội.
11. Chính phủ (2003), Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11 về kiểm tra
và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
12. Chính phủ (2004), Nghị định số 104/2004/NĐ-CP ngày 23/3 về Công báo
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

13. Chính phủ (2004), Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4 về công tác
văn thư, Hà Nội.
14. Chính phủ (2004), Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.
15. Chính phủ (2005), Chỉ thị số 32/2005/CT-TTg ngày 10/10 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật, Hà Nội.
16. Chính phủ (2005), Nghị định số 161/2005/NĐ-CP ngày 27/12 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
17. Chính phủ (2006), Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
18. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.


19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
20. Quốc hội (1996), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
21. Quốc hội (2001), Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.
22. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
23. Quốc hội (2002), Luật số 02/2002/QH11 ngày 16/12 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
24. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Hà
Nội.

25. Quốc hội (2004), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Nghị quyết số 55/2005/QH11 ngày 29/11 về kết quả
giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
27. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Nghị quyết số 753/2005/NQ- UBTVQH11
ngày 02/4 ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

28. Bộ Tư pháp (2006), Báo cáo số 372/BC-BTP ngày 20/02 về tình hình soạn
thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
29. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp (2005), Báo cáo
số 152/BC-KTrVB ngày 30/11 về kết quả công tác năm 2005 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2006 của Cục Kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật, Hà Nội.
30. Bùi Thị Đào (2002), "Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp
luật", Nghiên cứu lập pháp, (9), tr. 47-51.


31. Trương Thị Hồng Hà (2005), "Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của chính quyền địa phương", Nhà nước và pháp
luật, (1), tr. 10-15.
32. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1993), Nxb Thuận Hóa, Huế.
33. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (2001), Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
34. Hoàng Thị Ngân (2003), "Nội dung giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật", Nghiên cứu lập pháp, (9), tr. 55-58.
35. Quốc triều hình luật (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
36. Sở Tư pháp - Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo số

145/BC-STP ngày 29/12 về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật năm 2006 của Ủy ban nhân
dân các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
37. Sở Tư pháp - Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2006), Báo cáo số
481/BC-STP ngày 20/12 về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật 10 tháng đầu năm 2006,
Thanh Hóa.
38. Nguyễn Kim Thảm, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển
tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Văn Thâm (2001), Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý nhà nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Lưu Kiếm Thanh (2002), Kỹ thuật soạn thảo văn bản, Nxb Thống kê, Hà Nội.
41. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (2002), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về Chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
42. Vũ Thư (2003), "Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các
biện pháp xử lý các khiếm khuyết của nó", Nhà nước và pháp luật,
(1), tr. 8-15.


43. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44. Đào Trí Úc (1997) Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong thời đại
mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân
chủ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ
chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2006), Báo cáo số 78/BC-UBND ngày
29/12 về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản

quy phạm pháp luật năm 2006, Bắc Giang.
48. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2006), Báo cáo số 78/BC-UBND ngày
23/12 về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật, Bình Định.
49. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2007), Báo cáo về tình hình soạn
thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của
thành phố Hà Nội năm 2005, năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007,
Hà Nội.
50. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2007), Báo cáo số 02/BC-UB
ngày 06/01 về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật năm
2006 tại thành phố Hải Phòng, Hải Phòng.
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2007), Báo cáo số 08/UBND ngày
13/01 về tình hình ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật năm 2006, Khánh Hòa.
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2006), Báo cáo số 171/BC-UBND ngày
29/12 về công tác ban hành, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
năm 2006, Sơn La.


53. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát
năm 1999, Hà Nội.
54. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát
năm 2000, Hà Nội.
55. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát
năm 2001, Hà Nội.
56. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát
năm 2002, Hà Nội.
57. Võ Khánh Vinh (2004), Giáo trình Xây dựng pháp luật, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.



danh môc tõ viÕt t¾t

H§ND

Héi ®ång nh©n d©n

PL TTGQCVAHC

Ph¸p lÖnh Thñ tôc gi¶i quyÕt c¸c vô ¸n hµnh chÝnh

QPPL

Quy ph¹m ph¸p luËt

UBND

ñy ban nh©n d©n

UBTVQH

ñy ban Th-êng vô Quèc héi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chủ trƣơng lớn
của Đảng và Nhà nƣớc ta, điều đó đã đƣợc thể chế tại Hiến pháp nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): "Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" (Điều 2). Một trong
những tiêu chí rất quan trọng của nhà nƣớc pháp quyền là phải có một hệ
thống pháp luật hoàn thiện để quản lý thống nhất nhà nƣớc và xã hội, đặc biệt
trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng và phát huy dân chủ thì vấn đề xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật càng trở nên cần thiết. Những năm trở lại
đây, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) có
những chuyển biến tích cực, chất lƣợng văn bản QPPL ngày càng đƣợc nâng
cao. Tuy vậy, trong thực tế, vẫn tồn tại tình trạng văn bản mâu thuẫn, chồng
chéo, không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, không phù hợp với các quy
định của văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002),
Luật Ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban
nhân dân (UBND) năm 2004 là những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt
động soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nƣớc và chính
quyền địa phƣơng nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cƣơng trong công tác xây dựng
văn bản QPPL nói chung và công tác kiểm tra nói riêng. Thực tế công tác
kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong thời gian qua cho thấy, mặc dù đã phát
hiện khá nhiều văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành trái luật,
gây hậu quả nghiêm trọng về vật chất, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân… Tuy nhiên, công tác giám sát, kiểm tra văn bản QPPL và xử
lý văn bản trái pháp luật vẫn chƣa thực sự đƣợc chú trọng một cách đúng

1


mức, công tác kiểm tra văn bản chƣa đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, thiếu quy
định trong việc thực hiện, triển khai công việc; việc bố trí đội ngũ cán bộ,
công chức và tổ chức bộ máy phục vụ cho kiểm tra văn bản chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến tình trạng "thả lỏng" việc kiểm tra văn

bản trong một thời gian dài, khi Viện Kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm
sát chung. Ngày 25/12/2001, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Nghị
quyết số 51/2001/QH10, theo đó, Viện kiểm sát không còn thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản QPPL của cấp Bộ và
chính quyền địa phƣơng ban hành. Nhiệm vụ này đã đƣợc chuyển giao hoàn
toàn cho các cơ quan hành chính nhà nƣớc. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị
định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL. Đến nay, Nghị định này là căn cứ pháp lý chủ yếu để kiểm tra và xử lý
văn bản QPPL do bộ, ngành và địa phƣơng ban hành. Đây là một bƣớc
chuyển trong công tác kiểm tra văn bản bởi nếu không kịp thời đƣa ra các quy
định để nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do
chính quyền địa phƣơng ban hành sẽ khó có thể hạn chế những khiếm khuyết,
thiệt hại do văn bản trái luật gây ra và mục đích đảm bảo tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam cũng sẽ khó thực hiện hơn. Thực tế cho thấy, hệ thống văn bản
pháp luật của chúng ta chƣa thực sự hoàn chỉnh, còn chồng chéo, mâu thuẫn.
Công tác lập quy nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện luật chƣa nhanh chóng,
hiệu quả. Nghị định của Chính phủ chƣa cụ thể để chấp hành, vẫn tồn tại hiện
tƣợng chờ văn bản hƣớng dẫn. Trƣớc nhu cầu quản lý, số lƣợng văn bản QPPL
của chính quyền địa phƣơng, nhất là cấp tỉnh ban hành ngày càng nhiều, do đó
khả năng tồn tại mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với văn bản của cơ quan
nhà nƣớc cấp trên, thậm chí vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi.
Từ những điểm đã phân tích trên đây, tác giả cho rằng việc nghiên cứu
đề tài: "Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa
phương ban hành ở nước ta hiện nay" trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn nhằm đƣa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL

2



là hoàn toàn cần thiết, đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nƣớc
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, nghiên cứu về công tác văn bản nói chung thì
có rất nhiều đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp sở, các cuộc hội thảo khoa học và
nhiều bài viết trên các báo, tạp chí nhƣ: Đề tài "Đổi mới và nâng cao công tác
văn bản ở Hà Nội" - Đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Tƣ pháp Hà Nội; bài
của Thạc sĩ Trƣơng Thị Hồng Hà - Khoa Nhà nƣớc - pháp luật, Học Viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: "Nâng cao chất lượng ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của vhính quyền địa phương" đăng trên Tạp chí Nhà
nƣớc và pháp luật, số 1/2005; bài viết của PGS.TS Vũ Thƣ: "Tính hợp pháp
và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện pháp xử lý các khiếm khuyết của
nó"; hay nhƣ bài của ThS. Bùi Thị Đào: "Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản
quy phạm pháp luật" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9, tháng
9/2002; Bài "Văn bản quy phạm pháp luật: Hiểu như thế nào cho đúng" của TS.
Nguyễn Anh Sơn - Phó Vụ trƣởng Vụ pháp chế Bộ Công nghiệp và TS. Lê
Thị Thu Thủy - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 5 (75), tháng 5/2006,… Tuy nhiên, việc nghiên cứu
chuyên sâu về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong thực tiễn hiện nay theo các
quy định hiện hành thì chƣa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ
thống, toàn diện về vấn đề này. Vì vậy, tác giả xin chọn đề tài "Kiểm tra, xử
lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành ở
nước ta hiện nay" làm đề tài Luận văn cao học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản và thực tiễn kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng
ban hành; trên cơ sở đó đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao chất
lƣợng của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do chính quyền địa
phƣơng ban hành.


3


Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có các nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về văn bản QPPL nói chung và
văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành nói riêng để làm cơ sở
cho việc nghiên cứu đối tƣợng của hoạt động kiểm tra;
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động kiểm tra, xử lý
văn bản thông qua phƣơng thức tự kiểm tra văn bản do cơ quan mình ban
hành và kiểm tra văn bản QPPL của các cơ quan khác theo thẩm quyền để
đƣa ra đánh giá những mặt đạt và chƣa đạt trong công tác kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL;
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL trên cơ sở đề
xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động
kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành ở nƣớc ta
trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào hoạt động kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành trên tinh thần
Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử
lý văn bản QPPL và Thông tƣ số 01/2004/TT-BTP ngày 16/6/2004 của Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL, nghĩa là đi sâu tìm hiểu nghiệp vụ của các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng
(gồm HĐND và UBND) ban hành.
4. Nội dung nghiên cứu chính của luận văn
Trên cơ sở các nhiệm vụ đã đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu một
số nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về kiểm tra và cơ chế kiểm tra văn

bản QPPL nhƣ: khái niệm kiểm tra văn bản QPPL, phân biệt kiểm tra và một

4


số hoạt động tƣơng tự, chủ thể và đối tƣợng của hoạt động kiểm tra, nội dung
kiểm tra văn bản để tùy từng trƣờng hợp sẽ đƣa ra hƣớng xử lý văn bản cho
phù hợp;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm tra
và xử lý văn bản để đề xuất hƣớng hoàn thiện các văn bản nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác này trong thực tiễn;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành, cụ thể là đánh giá thực trạng
công tác kiểm tra văn bản QPPL của chính quyền địa phƣơng; đồng thời xem
xét về tổ chức bộ máy, nhân sự hoạt động trong lĩnh vực kiểm tra văn bản. Từ
đó, đề ra một số giải pháp nhằm xây dựng bộ máy, củng cố đội ngũ làm công
tác kiểm tra văn bản;
- Nghiên cứu phƣơng thức, trình tự, thủ tục kiểm tra, các điều kiện bảo
đảm phục vụ cho hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
kiểm tra văn bản QPPL.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở sử dụng phƣơng pháp luận
khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng), tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trƣơng của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc
trong lĩnh vực ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Bên cạnh đó, nội
dung của Luận văn đƣợc trình bày trên cơ sở tự nghiên cứu, kinh nghiệm thực
tiễn của giáo viên hƣớng dẫn, các đồng nghiệp và của bản thân trong quá trình
làm việc ở lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về công tác văn bản, với sự tham khảo
các văn bản pháp luật, tài liệu của một số tác giả trong và ngoài nƣớc.

6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của
công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong bối cảnh Việt Nam đang từng

5


bƣớc nỗ lực xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản
lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cƣờng pháp chế. Với những kết
quả mà luận văn đạt đƣợc, tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do
chính quyền địa phƣơng ban hành ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay, cũng
nhƣ góp phần làm phong phú lý luận về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL nói
chung, văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật do chính quyền địa phƣơng ban hành.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm
pháp luật do chính quyền địa phƣơng ban hành.
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt
động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phƣơng
ban hành.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH

1.1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH

1.1.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, chính quyền
địa phƣơng đã sử dụng pháp luật làm công cụ để quản lý, điều hành mọi hoạt
động của các cơ quan, tổ chức và công dân trong địa phƣơng. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, Luật, các văn bản dƣới luật và văn bản của cấp trên,
chính quyền địa phƣơng trong phạm vi thẩm quyền của mình ban hành các
văn bản QPPL để điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phƣơng theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Với tƣ cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, văn bản QPPL
nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng trong đảm bảo sự ổn định và phát triển
năng động của xã hội. Điều đó đƣợc quy định tại Điều 12 Hiến pháp 1992 của
nƣớc ta: "Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cƣờng
pháp chế xã hội chủ nghĩa... Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp
luật".
Theo Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND đƣợc Quốc
hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực từ ngày
01/4/2005, văn bản QPPL của HĐND, UBND (văn bản QPPL của chính
quyền địa phƣơng), đƣợc hiểu nhƣ sau:
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy

7



ban nhân dân là văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định,
trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa
phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa [20,
Điều 1].
Quan niệm về văn bản QPPL của chính quyền địa phƣơng nhƣ vậy
tƣơng đồng trên những nét cơ bản với quy định về văn bản QPPL của các cơ
quan Trung ƣơng đƣợc quy định trong Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996,
đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2002: "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định,
trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [23, Điều
1].
Căn cứ vào tính chất pháp lý, văn bản quản lý nhà nƣớc có thể đƣợc
chia thành ba loại: Văn bản QPPL, văn bản cá biệt (hay còn gọi là văn bản áp
dụng pháp luật) và văn bản hành chính thông thƣờng.
Ba loại văn bản trên có sự khác nhau cơ bản, đó là: Văn bản QPPL đề
ra các quy tắc xử sự chung, đƣợc áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống
và việc thực hiện văn bản đó không làm chấm dứt hiệu lực của nó; Văn bản cá
biệt đƣợc ban hành dựa trên cơ sở văn bản QPPL, áp dụng văn bản QPPL để
giải quyết những việc cụ thể, đối với đối tƣợng cụ thể, trong lĩnh vực cụ thể,
nhƣ: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Quyết định khen thƣởng, kỷ
luật, … Văn bản hành chính thông thƣờng là những văn bản mang tính thông
tin, điều hành nhằm thực thi các văn bản QPPL hoặc dùng để giải quyết các
công việc cụ thể, phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi, ghi chép công việc
trong các cơ quan, tổ chức, nhƣ: các loại công văn, kế hoạch, báo cáo,.... Các
loại văn bản trên có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Trong đó văn bản QPPL
đóng vai trò quan trọng, là cơ sở cho việc ban hành các văn bản cá biệt (áp


8


dụng pháp luật) hoặc các loại văn bản, giấy tờ hành chính khác.
Việc phân biệt ba loại văn bản trên có ý nghĩa trong công tác ban hành
cũng nhƣ kiểm tra, xử lý văn bản. Vì hiện nay, có một số cơ quan, đơn vị còn có
sự nhận thức chƣa đúng và đầy đủ về văn bản QPPL, không phân biệt đƣợc văn
bản QPPL với các loại văn bản khác, dẫn đến ban hành và quản lý văn bản sai.
Tuy hiện nay khái niệm về văn bản QPPL chƣa đƣợc quy định rõ ràng,
còn trừu tƣợng, nhƣng nhìn chung văn bản QPPL có những đặc trƣng về mặt
pháp lý sau đây:
Thứ nhất: Văn bản quy phạm pháp luật phải là văn bản do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành. Điều đó có nghĩa là chỉ các văn bản do
cơ quan nhà nƣớc ban hành mới là văn bản QPPL. Các văn bản không do cơ
quan nhà nƣớc ban hành thì không phải là văn bản QPPL, chẳng hạn nhƣ:
Hƣơng ƣớc làng xã; văn bản của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội.
Tuy nhiên, không phải tất cả văn bản do cơ quan nhà nƣớc ban hành
đều là văn bản QPPL (ví dụ: Thông báo kết luận cuộc họp của UBND; Công
văn; Kế hoạch,… chỉ là loại văn bản hành chính thông thƣờng) và không phải
bất kỳ cơ quan nhà nƣớc nào cũng đƣợc ban hành văn bản QPPL mà chỉ các
cơ quan nhà nƣớc đƣợc luật quy định mới có quyền ban hành văn bản QPPL.
Theo Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND đƣợc Quốc
hội khóa XI kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 thì: văn bản QPPL của
chính quyền địa phƣơng phải là văn bản do HĐND ban hành theo hình thức
Nghị quyết và UBND ban hành theo hình thức quyết định, chỉ thị.
Thứ hai: Văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy tắc xử
sự chung.
Văn bản QPPL phải là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung.
Nghĩa là những quy tắc không xác định cho các chủ thể cụ thể, mà xác định
chung cho bất cứ ai ở vào hoàn cảnh quy định sẽ phải tuân theo. Khác với các

quy tắc xử sự cá biệt trong các văn bản áp dụng pháp luật, chỉ khi có sự kiện

9


pháp lý xảy ra mới xác định chủ thể.
Những văn bản tuy có tên gọi và do cơ quan nhà nƣớc ban hành
nhƣng không chứa đựng các QPPL, quy tắc xử sự chung thì không phải là văn
bản QPPL, nhƣ: Nghị quyết về miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu HĐND và các
chức vụ khác; nghị quyết phê chuẩn kết quả bầu cử đại biểu HĐND; quyết
định phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đơn vị hành chính địa
phƣơng, quy hoạch ngành; quyết định xử lý vi phạm hành chính…
Thứ ba: Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần.
Nếu nhƣ một văn bản áp dụng pháp luật chỉ đƣợc áp dụng một lần trên
thực tế và sau khi áp dụng nó tự mất đi hiệu lực thì văn bản QPPL đƣợc áp
dụng nhiều lần, trong mọi trƣờng hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra. Sau mỗi
lần áp dụng văn bản QPPL không mất đi hiệu lực. Nó chỉ bị mất hiệu lực khi
có văn bản QPPL mới thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ.
Thứ tư: Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành văn bản quy phạm
pháp luật được quy định cụ thể trong luật.
Trong các loại văn bản quản lý nhà nƣớc hiện nay mới chỉ có văn bản
QPPL là đƣợc quy định rõ về hình thức (tên gọi) tƣơng ứng với nội dung văn
bản, cũng nhƣ trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành một cách cụ thể bằng một
văn bản luật, đó là Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996, đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung năm 2002 (gọi tắt là luật của Trung ƣơng) và Luật ban hành văn bản
QPPL của HĐND, UBND năm 2004 (gọi tắt là luật của chính quyền địa
phƣơng). Việc ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phƣơng đƣợc quy
định tƣơng đối rõ ràng các bƣớc ban hành, từ giai đoạn sáng kiến ban hành, tổ
chức soạn thảo dự thảo, lấy ý kiến đóng góp, ý kiến thẩm định đến việc thảo
luận, biểu quyết thông qua văn bản.

Thứ năm: Văn bản QPPL được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng
biện pháp cưỡng chế.

10


Đây là đặc trƣng cơ bản để phân biệt văn bản QPPL với các văn bản
thông thƣờng khác của các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội không có thẩm
quyền ban hành văn bản QPPL. Văn bản QPPL đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thi
hành bằng các biện pháp nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và các biện
pháp khác về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trƣờng hợp cần thiết thì Nhà
nƣớc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài
áp dụng đối với ngƣời có hành vi vi phạm.
Các văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành cũng mang
đầy đủ các yếu tố đặc trƣng của một văn bản QPPL: chứa đựng các quy tắc xử
sự chung, đƣợc áp dụng nhiều lần và mang tính bắt buộc đối với nhóm đối
tƣợng mà văn bản đó điều chỉnh. Điểm khác với các văn bản QPPL của các
cơ quan trung ƣơng đó là văn bản QPPL của chính quyền địa phƣơng chỉ có
hiệu lực trong phạm vi địa phƣơng đó.
1.1.2 Thẩm quyền ban hành, hình thức và nội dung của văn bản
QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành
Ở nƣớc ta, khái niệm "chính quyền địa phƣơng" đƣợc dùng thông
dụng kể từ sau khi thành lập chính quyền nhân dân. Khái niệm này chỉ hai
loại cơ quan: HĐND và UBND.
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
HĐND và UBND đƣợc tổ chức ở các đơn vị hành chính sau đây:
a) Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi chung là cấp tỉnh);
b) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);
c) Xã, phƣờng, thị trấn (gọi chung là cấp xã) [24, Điều 4]
Nhƣ vậy, HĐND và UBND đƣợc thành lập ở cả 3 cấp. Để thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình tại địa phƣơng, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo,
quản lý thống nhất trong bộ máy nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến cơ sở, HĐND,
UBND ở cả 3 cấp đƣợc Nhà nƣớc trao cho thẩm quyền ban hành văn bản

11


QPPL.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phƣơng
bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp
trên [24, Điều 1]. Quyền lực của HĐND đƣợc giới hạn trong phạm vi đơn vị
hành chính - lãnh thổ. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, HĐND
ban hành Nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật ở địa phƣơng.
UBND với tƣ cách là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nƣớc tại
địa phƣơng. UBND là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung, thực hiện chức
năng quản lý toàn diện theo lãnh thổ đối với mọi ngành, lĩnh vực thuộc địa
phƣơng, đảm bảo thi hành pháp luật, các quy định của cấp trên và HĐND
cùng cấp; giám sát thi hành pháp luật đối với các cơ quan đóng tại địa bàn
trong phạm vi thẩm quyền về những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý theo
lãnh thổ. UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định
đƣợc ban hành các quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn
bản này.
Cần phân biệt và hiểu rõ về thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của
HĐND, UBND. Trƣớc đây, ở một số địa phƣơng đã có tình trạng các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tự mình hoặc đƣợc UBND ủy quyền ban hành văn
bản QPPL. Điều đó không đúng, vì theo quy định của pháp luật thì: "Các cơ
quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân chỉ là cơ quan tham mưu, giúp ủy
ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương

và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của ủy ban nhân
dân cùng cấp và theo quy định của pháp luật; …" [24, Điều 128] và Luật ban
hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 không quy định cho các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND đƣợc ban hành văn bản QPPL.
Về hình thức văn bản QPPL

12


Với tầm quan trọng của văn bản QPPL nên việc ban hành loại văn bản
này phải tuân theo một quy trình hết sức chặt chẽ. Mỗi cơ quan quản lý nhà
nƣớc theo thẩm quyền luật định đƣợc ban hành một số hình thức văn bản nhất
định. Các văn bản đó có tên gọi và đƣợc trình bày theo một cơ cấu do pháp
luật quy định. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì HĐND đƣợc ban
hành văn bản QPPL dƣới một hình thức duy nhất là: Nghị quyết; còn UBND
đƣợc ban hành: Quyết định, Chỉ thị [25, Điều 1]. Điều đó có nghĩa là ngoài
những hình thức nêu trên, HĐND, UBND không đƣợc ban hành văn bản có
chứa đựng QPPL dƣới bất kỳ một hình thức nào khác.
Về nội dung của văn bản QPPL
Nội dung của văn bản QPPL do chính quyền địa phƣơng ban hành
đƣợc quy định cụ thể trong Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND,
UBND năm 2004. Có thể khái quát nhƣ sau:
Nghị quyết của HĐND đƣợc ban hành để quyết định những chủ
trƣơng, chính sách, biện pháp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm
bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên;
Quyết định của UBND đƣợc ban hành để thực hiện chủ trƣơng, chính
sách, biện pháp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm bảo đảm thi hành
Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên;
Chỉ thị của UBND đƣợc ban hành để quy định biện pháp chỉ đạo,
phối hợp hoạt động, đôn đốc và kiểm tra hoạt động của cơ quan, đơn vị trực

thuộc và của HĐND, UBND cấp dƣới trong việc thực hiện văn bản của cơ
quan nhà nƣớc cấp trên, của HĐND cùng cấp và quyết định của mình.
Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chƣa quy định
một cách cụ thể về thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa
phƣơng. Sau những quy định mang tính chất chung của Hiến pháp, Luật tổ
chức HĐND, UBND; thì Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND
năm 2004 đã nói rõ hơn về thẩm quyền ban hành Nghị quyết của HĐND và

13


×