ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC CHÍNH
THÈM QUYÒN XÐT Xö CñA TßA HµNH CHÝNH
THEO LUËT Tè TôNG HµNH CHÝNH VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lí luận lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
do chính bản thân tôi thực hiện, được xuất phát từ nhu cầu học tập
và nghiên cứu của bản thân và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn
của PGS . TS. Nguyễn Hoàng Anh . Tôi cũng xin cam đoan rằng
mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn là trung thực và đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Đức Chính
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH .......................................................... 7
1.1.
Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính .......................... 7
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án ............................................ 7
1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính .................................................................... 9
1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ............................................. 11
1.2.
Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ... 12
1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính ............................................................................. 12
1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát triển
tư pháp, quản lý hành chính ................................................................ 13
1.3.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành
luật tố tụng hành chính ..................................................................... 14
1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998 .................................................................... 15
1.3.2. Giai đoạn 1998 đến 2006 .................................................................... 20
1.3.3. Giai đoạn 2006 đến khi ban hành Luật tố tụng hành chính ................ 22
1.4.
Vài nét về luật tố tụng hành chính Việt Nam ................................. 24
1.4.1. Sự cần thiết ban hành Luật tố tụng hành chính ................................... 25
1.4.2. Bố cục Luật tố tụng hành chính .......................................................... 27
1.4.3. Vai trò của Luật tố tụng hành chính .................................................... 28
Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG ........................................................................................... 30
2.1.
Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ............. 30
2.1.1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính ....................................... 31
2.1.2. Danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân ........................................................... 44
2.1.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống ............................................... 47
2.1.4. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh ........................................................................................... 50
2.2.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo địa giới hành chính ... 56
2.3.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo cấp xét xử ............. 60
2.3.1. Xét xử theo thủ tục sơ thẩm ................................................................ 60
2.3.2. Xét xử theo thủ tục phúc thẩm ............................................................ 63
2.3.3. Xét lại Bản án, Quyết định theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm ......... 64
2.3.4. Thủ tục đặc biệt xem xét lại Quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ...................................................................... 65
2.4.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong một số trường
hợp cụ thể ........................................................................................... 66
2.4.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong trường hợp người
khởi kiện vừa có khiếu nại đến người có thẩm quyền, vừa có
khiếu kiện tại Tòa án ........................................................................... 66
2.4.2. Sự mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố
tụng hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai .................................. 69
2.5.
So sánh với thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính một số
nước trên thế giới .............................................................................. 73
2.5.1. Về đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử ............................................... 74
2.5.2. Về phân định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ........................ 75
2.6.
Thực tiễn áp dụng quy định của luật tố tụng hành chính về
thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính .......................................... 76
2.6.1. Tình hình xét xử khiếu kiện hành chính nói chung ............................ 76
2.6.2. Bước phát triển trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính từ sau khi ban hành Luật tố tụng hình sự .................................. 78
2.6.3. Một vài hạn chế trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính theo Luật tố tụng hình sự .......................................................... 80
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ THẨM QUYỀN
XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH .............................................. 85
3.1.
Khắc phục những nội dung còn hạn chế trong luật tố tụng
hành chính.......................................................................................... 86
3.2.
Đảm bảo sự phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan .... 92
3.3.
Đảm bảo khả năng xét xử độc lập của Tòa hành chính ................ 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH:
Bảo hiểm xã hội
HVHC:
Hành vi hành chính
QĐHC:
Quyết định hành chính
TTHC:
Tố tụng hành chính
UBND:
Ủy ban nhân dân
WTO:
Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/5/1996, có hiệu lực thi hành ngày
01/7/1996; được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25/12/1998 và sửa đổi,
bổ sung lần thứ hai ngày 5/4/2006. Việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính và các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo điều
kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua thực tiễn 14 năm áp dụng Pháp lệnh
đã bộc lộ những hạn chế và bất cập; có những quy định trong Pháp lệnh
mâu thuẫn với các văn bản khác (như Luật đất đai, Luật khiếu nại tố
cáo...); có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, chưa
đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Những hạn chế,
bất cập của Pháp lệnh nêu trên đã làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án
hành chính của Tòa án, gây trở ngại cho người dân khởi kiện vụ án hành
chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế, cùng với việc Việt Nam đã
là thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) thì việc pháp điển hóa quy định của pháp luật tố tụng
để giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể hóa các cam kết của Việt
Nam là rất cần thiết.
Ngày 02/6/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010; trong đó một trong các nhiệm
vụ được xác định là: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các
khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham
1
gia tố tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân với các cơ quan công quyền
trước Tòa án” [6].
Để phù hợp với Nghị quyết của Bộ chính trị, Quốc hội đã ban hành Luật
tố tụng hành chính (sau đây viết là Luật TTHC), có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2011. Khác với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trong
việc xác định những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nay
Luật TTHC không quy định theo hướng liệt kê 21 loại vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án mà quy định theo hướng loại trừ những vụ việc
không thuộc thẩm quyền của Tòa án, số còn lại sẽ do Tòa án giải quyết. Theo
đó, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã được mở rộng rất nhiều, về
nguyên tắc tất cả các Quyết định hành chính (sau đây viết là QĐHC), hành vi
hành chính (sau đây viết là HVHC) đều có thể trở thành đối tượng xét xử của
Tòa hành chính, trừ một vài ngoại lệ - những loại việc không thuộc thẩm quyền
của Tòa án bao gồm: các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy
định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Quy định như trên của Luật TTHC là bước ngoặt trong việc ghi nhận
và hiện thực hóa quyền được khởi kiện của công dân đối với QĐHC, HVHC
mà theo họ các QĐHC, HVHC đó xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, để việc hiểu và áp dụng đúng quy định trên trên thực tế
không phải lúc nào cũng được dễ dàng và thuận lợi cho mỗi công dân, tổ chức
khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Mặt khác, quy định trên cũng chưa
được hướng dẫn, xác định rõ ràng, cụ thể các QĐHC, HVHC nào thuộc phạm
vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và các
QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức? Tại sao chỉ được khiếu
kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân mà không được khiếu kiện danh sách ứng cử?...
2
Để trả lời các câu hỏi đó, rất cần những nghiên cứu cập nhật về thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính ở Việt Nam. Nói cách khác, việc nghiên cứu
vấn đề này sẽ góp phần nhất định cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn
và hoàn thiện pháp luật trong tương lai. Do đó tác giả chọn “Thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính theo Luật Tố tụng hành chính Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là
một đề tài không mới, thậm chí còn được các học giả đặt ra từ trước khi Tòa
hành chính được thành lập. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu: “Một số
vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam” - PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh
Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Những công trình nghiên cứu này chủ yếu phân tích và đưa ra những nhận
định về việc xây dựng một mô hình thích hợp để giải quyết khiếu kiện hành
chính ở Việt Nam.
Sau khi Tòa hành chính được thành lập vào năm 1995, các công trình
nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá tính hiệu quả, sự phù hợp của thiết chế
Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Tiêu biểu là một số
công trình nghiên cứu như: “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu
kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn
Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” Nguyễn Cảnh Hợp, chủ biên PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2010. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này nghiên cứu về
tổng thể quy chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính, bao gồm cả
trình tự, thủ tục và kỹ năng giải quyết vụ việc hành chính; và cả hệ thống tài
3
phán hành chính, mà Tòa án là cơ quan giải quyết các khiếu kiện, cùng với
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính.
Một số công trình chỉ tập trung nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tòa án, như: “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của
Tòa án” - Nguyễn Thanh Bình, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ
luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm quyền xét xử hành chính
của Tòa án nhân dân”.
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu kể trên, vấn đề thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của Tòa án cũng được đặt ra trong các bài đăng trên
báo, tạp chí. Tuy nhiên các công trình trên hoặc là nghiên cứu về quy chế xét
xử hành chính một cách chung, toàn diện; hoặc nghiên cứu về thẩm quyền xét
xử hành chính của Tòa án nhưng không đảm bảo tính mới vì đã được nghiên
cứu, công bố trước khi Luật TTHC được ban hành.
Do vậy, tác giả tin tưởng rằng công trình nghiên cứu về “Thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam” này là
một đóng góp mới vào hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực này tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHC, thực tiễn xét
xử của Tòa án, mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn, bản chất, nội dung của chế định thẩm quyền của Tòa hành chính, chỉ ra
những điểm không hợp lý, những vướng mắc khi áp dụng chúng, qua đó đề
xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật TTHC về thẩm quyền
của Tòa hành chính trong hoạt động xét xử vụ án hành chính.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm
khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong
TTHC; lý giải những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính;
4
- Phân tích các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính trước khi ban hành Luật TTHC và đặc biệt kể từ năm 2010 – sau khi
Luật TTHC ra đời;
- Đánh giá thực tiễn áp du ̣ng các quy đinh
̣ pháp lý này trong ho ạt động
giải quyết vụ án hành chính ở Việt Nam, đưa ra những đề xuất nhằ m ứng du ̣ng
tố t hơn các quy đinh
̣ pháp lý này;
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy
định của Luật TTHC về thẩm quyền của Tòa hành chính.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
về hành chính nói riêng, đề tài tập trung phân tích và làm rõ về thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC Việt Nam.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính, không nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, quản lý, hoạt động của
Tòa hành chính, cũng không nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết, xét xử
của Tòa hành chính hay thẩm quyền của Hội đồng xét xử trong giải quyết vụ án
hành chính. Đồng thời, đề tài chủ yếu tập trung làm rõ thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính được quy định trong Luật TTHC, theo đó, phân tích làm rõ các
quy định trong Luật TTHC và các văn bản hướng dẫn Luật TTHC, không đi
sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật khác. Việc phân tích, đánh giá các quy
phạm pháp luật khác có liên quan chỉ nhằm làm rõ về thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính theo quy định của Luật TTHC.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn là triết học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền về cải cách tư
pháp và cải cách nền hành chính quốc gia.
5
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án trong xét xử hành chính, các số liệu thống kê về xét xử,
v.v... để đánh giá, chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật để
kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Một cách khái quát, đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở đó, đối tượng nghiên cứu
của đề tài được nghiên cứu một cách khách quan, theo đúng bản chất vốn có
của nó, trong mối liên hệ của nó với các nội dung khác có liên quan. Để làm rõ
các nội dung cần nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp và phương
pháp phân tích, để từ các quy định pháp luật về hành chính nói chung và Luật
TTHC nói riêng, có được cái nhìn tổng quát cũng như chi tiết về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính.
Phương pháp phán đoán và phương pháp suy luận cũng được sử dụng để
làm rõ những vấn đề có tính logic, hoặc chứng minh một giả thuyết được đặt ra
để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ những
điểm mới trong Luật TTHC quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, so với các văn bản ban hành trước đây.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời nói đầu, phần thống kê các thuật ngữ thường gặp trong
đề tài, danh mục các tài liệu tham khảo và phần kết luận cuối cùng, nội dung
chính của đề tài gồm ba phần được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng
hành chính Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện Luật tố tụng hành chính về thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án
1.1.1.1. Thẩm quyền
Theo Từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [82, tr.922]
Theo Từ điển Luật học thì Thẩm quyền được hiểu là: “Quyền chính thức
được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” [79, tr.701].
Theo các khái niệm này, thẩm quyển gắn liền với quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của họ. Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền được phân định
theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Thực hiện chức
năng này, Tòa án có thẩm quyền xét xử.
1.1.1.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
Trước hết, xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp
lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết
phù hợp với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ
việc.... Theo pháp luật hiện hành, Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân các địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam [79, tr.869-870].
Nghĩa là, thẩm quyền xét xử là thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án mà
7
không thuộc bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào khác. Đó là quyền của Tòa án
được xem xét, đánh giá, đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của một
vụ việc, nhưng quan trọng nhất chính là được nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết để giải quyết vụ việc về mặt pháp lý.
Theo Từ điển Luật học “Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem
xét và định đoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp
luật” [79, tr.701].
Để làm rõ khái niệm này, Từ điển Luật học đưa ra hai cách hiểu cụ thể:
Thứ nhất, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” được hiểu là một quyền
chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác. Thẩm quyền xét xử là quyền chung của các Tòa án không phân biệt
phân cấp, phân vùng lãnh thổ.
Theo cách hiểu này, thẩm quyền xét xử được khẳng định là thẩm quyền
chuyên biệt của Tòa án, mà không một cơ quan Nhà nước nào khác có thẩm
quyền này.
Thứ hai, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” còn được hiểu là thẩm
quyền riêng của từng Tòa án cụ thể được phân định theo cấp, theo lãnh thổ
và theo vụ việc.
Theo đó, phân định theo cấp xét xử có: thẩm quyền xét xử sơ thẩm và
thẩm quyền xét xử phúc thẩm; phân định theo vụ việc có thẩm quyền của Tòa
án xét xử vụ án, vụ việc dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình...;
phân định theo lãnh thổ có vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của từng
Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, của từng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo địa giới hành chính [79, tr.701-702].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, tác giả làm rõ thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thứ hai. Nghĩa là ở đây,
8
khái niệm “thẩm quyền xét xử” được phân tích dựa trên các quy định của
pháp luật nhằm làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo vụ việc,
theo cấp (có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm), theo
lãnh thổ (phân biệt thẩm quyền của các Tòa hành chính trong phạm vi địa
giới hành chính).
Như vậy, một cách khái quát, thẩm quyền xét xử của Tòa án có thể hiểu
là quyền của Tòa án được xác định trên cơ sở phân định vụ việc, cấp xét xử,
trong phạm vi địa giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét,
đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ việc thông
qua hoạt động xét xử.
1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính
Ngày 28/10/1995, Tòa hành chính được thành lập trong hệ thống Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh bên cạnh các Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, trên cơ sở việc Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Trải qua quá trình hoạt động từ khi thành
lập cho đến nay, việc thành lập Tòa hành chính đã góp phần thúc đẩy quá
trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà nước phải tự
nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho các cơ quan quản
lý hành chính phải cân nhắc, thận trọng hơn khi ban hành một Quyết định
hành chính hay thực hiện hành vi hành chính.
Tòa hành chính là “Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ giải quyết
các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật” [79, tr.775].
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 không đưa ra định nghĩa thế
nào là Tòa hành chính, nhưng quy định về việc Tòa hành chính tại Điều 18 về
cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và Điều 27 về cơ cấu tổ chức của
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [35].
9
Bằng khái niệm được giải thích trong Từ điển Luật học như nêu trên
và quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 [35, Điều 18, 27],
Tòa hành chính có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Tòa hành chính là tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, mà không có ở Tòa án
quân sự, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Tòa hành chính có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính. Ở đây
cần làm rõ, thế nào là vụ án hành chính. Có quan điểm cho rằng, vụ án hành
chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Song, cách
hiểu này chưa thể hiện được đặc điểm của vụ án hành chính, đồng thời cho
rằng việc vụ án hành chính phát sinh tại “Tòa hành chính” là khá phiến diện,
chưa đầy đủ.
Theo khái niệm “vụ án” được định nghĩa trong Từ điển Luật học thì
vụ án là:
Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự
hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa ra tòa án hoặc cơ
quan trọng tài giải quyết. Vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án;
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan trọng tài. Theo
Luật tổ chức tòa án nhân dân, tòa xét xử những vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính và
giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [79, tr.860].
Theo đó, vụ án hành chính là loại vụ án phát sinh trong lĩnh vực quản
lý hành chính Nhà nước, do các cá nhân, tổ chức khởi kiện tại Tòa án nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, một cách khái quát, Tòa hành chính là các tòa chuyên trách của
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính.
10
Trong khoa học pháp lý, khái niệm Tòa hành chính thường được hiểu
một cách “tương đối”: nghĩa là, thông thường khi nói “Tòa hành chính” các
học giả thường nhằm đến các Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
Theo đó, bao gồm cả hệ thống các Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã –
cũng có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
Khi nghiên cứu Luận văn này, tác giả cũng nghiên cứu về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thông thường.
Do vậy, trong Luận văn này, khái niệm Tòa hành chính được hiểu là hệ
thống Tòa án được tổ chức ở các cấp (Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và
Tòa án nhân dân tối cao) có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
Theo khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án đã được phân tích trên
đây, cũng hiểu rằng, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng mang đặc
tính chuyên biệt so với các cơ quan Nhà nước khác không thuộc hệ thống Tòa
án nhân dân.
Với chức năng là một tòa chuyên trách trong hệ thống tổ chức Tòa án
nhân dân, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính có thể được tiếp cận ở nhiều
bình diện khác nhau như sau:
Thứ nhất, theo tiêu chí về vụ việc: Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử các vụ án hành chính. Điều này đã được làm rõ trong khái niệm về Tòa
hành chính. Trong các nội dung dưới đây của luận văn phân tích và làm rõ
nhiều nhóm đối tượng khác nhau thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc… Nhưng một cách khái quát thì các nhóm
đối tượng này đều được coi là những vụ án hành chính. Cho nên, thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo phân loại vụ việc, chính là quyền của Tòa
11
hành chính được xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề
pháp lý trong vụ án hành chính.
Thứ hai, theo tiêu chí về cấp xét xử: Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử theo thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính. Tòa hành
chính xét xử theo thủ tục sơ thẩm những loại vụ việc nào và xét xử theo thủ
tục phúc thẩm những loại vụ việc nào sẽ được làm rõ trong những phần sau
của luận văn, song cần khẳng định rằng, Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử theo cả thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính.
Thứ ba, theo địa giới hành chính: Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp
tỉnh xét xử những vụ án hành chính phát sinh trên cùng địa giới hành chính
nơi Tòa án có trụ sở [44, Điều 29, 30]), Tòa án nhân dân tối cao xét xử những
vụ án hành chính trong phạm vi cả nước.
Như vậy, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng được hiểu là
quyền của Tòa hành chính được xác định theo cấp xét xử, trong phạm vi địa
giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét, đánh giá, đưa ra kết
luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ án hành chính thông qua hoạt
động xét xử.
1.2. Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính
Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính (sẽ được làm
rõ trong Chương 2 của Luận văn) là những QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ
luật buộc thôi việc cán bộ công chức, khiếu kiện giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Nghĩa là, về bản chất, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính là những hoạt động trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Hầu hết các đối tượng này cũng đồng thời là đối tượng trong giải quyết
12
khiếu nại hành chính. Trong đó, các cơ quan Nhà nước là chủ thể ban hành,
thực hiện các đối tượng này, đồng thời lại cũng là chủ thể giải quyết các vấn
đề, tranh chấp phát sinh từ các đối tượng đó, mà như người ta vẫn nói nôm na
là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Điều này tạo ra những bất cập, không đảm bảo
tính khách quan, minh bạch, cũng như đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể trong quan hệ hành chính.
Theo đó, đặt ra vấn đề là khi các chủ thể phát hiện ra những nội dung
của các đối tượng này xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì
các đối tượng này cần phải được xem xét, giải quyết bằng một cơ chế độc lập
hơn, khách quan hơn, theo một trình tự thủ tục riêng biệt. Và hình thức tài
phán đáp ứng được các yêu cầu cần thiết để xem xét, giải quyết các vụ việc
liên quan đến các đối tượng này, chính là giải quyết tại Tòa án.
Do vậy mà các đối tượng này (QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ luật buộc
thôi việc cán bộ công chức…) trở thành đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính, thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Tính đặc thù của các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa hành
chính. Bởi các đối tượng này chính là yếu tố chủ yếu để xác định một vụ việc
là một khiếu kiện hành chính, chứ không phải loại vụ án nào khác. Và theo
đó, là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, chứ không phải
Tòa dân sự, hình sự, kinh tế, lao động…
1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát
triển tư pháp, quản lý hành chính
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tại mục 2 “Kiện
toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước” thuộc phần VII về “Đẩy mạnh cải cách
hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”, Đảng đã
khẳng định cần “nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết
khiếu kiện hành chính” [3, mục 2].
13
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm
vụ được xác định đó là:
... mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu
kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham
gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công
quyền trước Toà án... [6].
Theo những quan điểm chỉ đạo này thì thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân có xu hướng được mở rộng, đồng thời tạo
thuận lợi cho công dân tham gia Tố tụng hành chính, bảo đảm sự bình đẳng
giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. Xuất phát từ những ưu
thế của cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính tại Tòa án so với các cơ chế
giải quyết khác, quan điểm chỉ đạo về việc mở rộng thẩm quyền xét xử các
tranh chấp hành chính của Tòa án nhân dân là quan điểm đúng đắn trong
thời kỳ hiện nay.
1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành
luật tố tụng hành chính
Trước đây, việc giải quyết khiếu nại do các cấp quản lý hành chính và
tổ chức Thanh tra giải quyết. Các cơ quan hành chính Nhà nước, công chức
Nhà nước vừa là người bị khiếu kiện, vừa là người giải quyết (xét xử) nên
không đảm bảo tính khách quan, dân chủ và có hiệu quả. Vì vậy, đơn thư
khiếu nại bị đùn đẩy, tồn đọng, người khiếu nại bị oan ức kéo dài. Nên đặt ra
vấn đề cần phải tổ chức Toà án hành chính để xét xử những khiếu kiện hành
chính, đảm bảo xét xử nhanh chóng, có hiệu quả để củng cố lòng tin của
nhân dân đối với chính quyền, đồng thời góp phần chống quan liêu, cửa
quyền, tham nhũng trong bộ máy hành chính nhà nước.
14
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII (23/01/1995) đã quyết định về việc thành lập Toà hành chính trong hệ
thống Toà án nhân dân. Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số Điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân
chức năng xét xử những vụ án hành chính. Như vậy, một thiết chế tài phán mới
- thiết chế bảo vệ hữu hiệu quyền hợp pháp của công dân trong mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân đã chính thức được thành lập [2].
Do vậy, với mục đích nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, tác giả chỉ tập trung phân tích những quy định, những đặc trưng của
các quy phạm pháp luật từ năm 1996 đến nay. Cùng với sự thành lập Tòa
hành chính, Ủy ban thường vụ quốc hội cũng ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính làm cơ sở cho hoạt động xét xử các vụ án hành
chính. Trên cơ sở các lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, tác giả chia thành 03 giai đoạn:
1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998
Khái niệm Tòa hành chính ở Việt Nam xuất hiện lần đầu trong Luật sửa
đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân do Quốc hội thông qua ngày
28.5.1995 [32]. Tại khoản 3 Điều 1 (bổ sung khoản 2 Điều 17) và khoản 6
Điều 1 (bổ sung khoản 1 Điều 27) của Luật này thể hiện Tòa hành chính là
một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [32, Điều 1].
Cũng theo quy định tại Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức
Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua năm 1995 thì thẩm quyền của Tòa
hành chính Tòa án nhân dân tối cao là:
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản
15
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định
của pháp luật tố tụng; thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân
dân cấp tỉnh là: Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố
tụng; Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật tố tụng [32, Điều 1];
còn thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện thì vẫn giữ nguyên như
trong Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành năm 1992 “Toà
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” [31, Điều 32]. Nghĩa là,
thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật này được phân định theo
cấp xét xử. Theo đó, Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm, chung thẩm, thẩm quyền xét lại Bản án, quyết định đã có hiệu
lực theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm; Tòa hành chính Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm; và Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong giai đoạn này còn được
quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành ngày 21/5/1996 [74] (sau đây gọi là Pháp lệnh
năm 1996). Chương II của Pháp lệnh này quy định về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết các vụ án hành chính. Cụ thể:
Tại Điều 11 Pháp lệnh năm 1996 quy định về những vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền của Tòa án, gồm:
1- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết
định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ công trình xây dựng trái phép
đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố; 2- Khiếu kiện quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục
16
tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; 3- Khiếu
kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi
việc trong Quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy
định của Bộ luật lao động; 4- Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép
trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý đất đai; 5- Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài
sản, quyết định tịch thu tài sản; 6- Khiếu kiện quyết định về thu
thuế, truy thu thuế; 7- Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí; 8Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác
theo quy định của pháp luật [74, Điều 11].
Tại Điều 12 Pháp lệnh năm 1996 quy định về thẩm quyền xét xử theo
địa giới hành chính:
1- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ
quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ
quan nhà nước đó.
2- Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện hành chính đối với: a) Quyết định hành chính của
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ
tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư
17
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng một lãnh thổ; b) Quyết định
hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức
của cơ quan nhà nước đó; c) Quyết định hành chính của các đơn vị
chức năng của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều
này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên
chức của các đơn vị chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc trụ sở trên cũng lãnh thổ; Trong trường hợp cần
thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết
định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện có liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong
trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
3- Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm
quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để
giải quyết đối với khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan
nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó liên quan
đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được
thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành
chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên
quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các
Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ
chối tiến hành tố tung hoặc bị thay đổi [74, Điều 12].
18
Theo đó, tác giả có một vài nhận định về các quy định về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính trong Pháp lệnh năm 1996 như sau:
- Một là, các nhóm vụ việc được coi là thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính được quy định bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, theo Điều
11 của Pháp lệnh năm 1996 được trích dẫn trên đây, có 08 nhóm vụ việc
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Ưu điểm của phương pháp liệt
kê nói chung và đối với quy định tại Điều 11 nêu trên nói riêng, đó là, từng
nhóm vụ việc hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án được quy định
một cách cụ thể, được gọi tên một cách chính xác, dẫn đến việc rất dễ dàng để
xác định một vụ việc có thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính hay không.
Tuy nhiên, hạn chế của việc liệt kê các nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính, đó là, làm giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính. Rất nhiều vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính nhưng không thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án. Việc qua hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm
1996 đều điều chỉnh tăng số nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính chính là minh chứng cho hạn chế này.
- Hai là, Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính khi vụ
việc đã được giải quyết khiếu nại bởi cơ quan Nhà nước, người có QĐHC
hoặc có HVHC được cho là trái pháp luật (theo Điều 2 của Pháp lệnh năm
1996 [74, Điều 2]).
- Ba là, không chỉ giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
trong một số nhóm vụ việc cụ thể, Pháp lệnh năm 1996 có những quy định
nhằm chuyển giao thẩm quyền thụ lý, xét xử của Tòa án đối với các vụ án
hành chính sang cơ quan hành chính Nhà nước:
Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải
19