Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.32 KB, 102 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ KIM THUÝ



CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN
THIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 5.05.14



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS Phạm Văn Lợi









Hà Nội, năm 2004




2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN THỨ HAI
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm về thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện
1.2. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp
huyện

Chương II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân cấp huyện
2.2. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện theo quy định của
pháp luật hiện hành


Chương III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án nhân
dân cấp huyện
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện thẩm
quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện
3.3. Phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền xét xử
của Toà án nhân dân cấp huyện
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



3


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

TAND Toà án nhân dân
TANDTC Toà án nhân dân Tối cao
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS Tố tụng hình sự
TTDS Tố tụng dân sự
TTLĐ Tố tụng lao động
TTKT Tố tụng kinh tế
TTHC Tố tụng hành chính
BLHS Bộ luật hình sự

TAQS Toà án quân sự
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐXX Hội đồng xét xử
CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự
HĐTP Hội đồng thẩm phán
TCTA Tổ chức Toà án
TCTAND Tổ chức Toà án nhân dân
ANQG An ninh quốc gia






4


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và hoàn
thiện công tác tư pháp. Tại các Nghị quyết Trung ương III, V, VI (lần 2), VIII
(khoá 8); Văn kiện Đại hội Đảng IX; Chỉ thị số 53 CT/TW ngày 21/3/2000
của Bộ Chính trị về: “Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần
được thực hiện trong năm 2000” và gần đây nhất là Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/11/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới” bên cạnh đề cập đến việc kiện toàn hoạt động của

các cơ quan tư pháp nói chung, đã nhấn mạnh đến việc phân định lại thẩm
quyền xét xử của các cấp Toà án, đặc biệt là Toà án cấp huyện. Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ
quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND. Từng bước mở
rộng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện….Xây dựng đội ngũ Thẩm
phán, Thư ký Tòa án, Chấp hành viên, Công chứng viên, Giám định viên,
Luật sư…có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có nghiệp vụ
vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch vững mạnh”. Nghị quyết Trung
ương III (khoá 8) cũng đã xác định rõ: “Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ
nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào
tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho
phù hợp để kịp thời bổ sung đủ Thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án
cấp tỉnh…”. “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh, có
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển

5
chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn
cụ thể: tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động
của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm
những cán bộ tham nhũng, tiêu cực”
(1)
.
Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục xác định: “Cải cách tổ chức, nâng cao
chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ,
truy tố, xét xử, thi hành án không để xảy ra những trường hợp oan sai…tăng
cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất
lượng”
(2)

.
Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
các cơ quan tư pháp trong thời gian qua đã có nhiều nỗ lực trong công tác nói
chung và hoạt động xét xử nói riêng. Do đó công tác xét xử đã có chuyển biến
tích cực trên nhiều mặt: hàng nghìn vụ án hình sự, trong đó có những vụ án
buôn lậu, tham nhũng lớn, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng, nhiều vụ tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
tuý với số lượng lớn, với nhiều người tham gia, có tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn
phạm tội tinh vi, táo bạo…đã được đưa ra xét xử nghiêm minh, đúng pháp
luật.
Tổ chức bộ máy các cơ quan xét xử ngày càng hoàn thiện, chức năng
nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp được điều chỉnh hợp lý hơn, hạn chế được
sự trùng lắp, chồng chéo trong tổ chức bộ máy, phát huy được sức mạnh tổng
hợp của các cơ quan tư pháp. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã trưởng thành hơn cả
về số lượng và chất lượng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường…những
chuyển biến này đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định an ninh chính trị,
trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền lợi

(1)
Các Nghị quyết của Trung ương Đảng của 1996 – 1999 – NXB Chính trị quốc gia
2000, tr 116, 117.

6
(2)
Văn kiện Đại hội Đảng IX, mục IX “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế.
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần thực hiện công bằng xã hội,
phục vụ tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chung của đất
nước
(1)

.
Tuy nhiên, công tác xét xử nói chung và thẩm quyền xét xử của TAND
cấp huyện nói riêng cũng còn nhiều hạn chế nhất định, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến: còn tồn đọng án đã thụ lý nhưng đưa ra xét xử chậm,
chất lượng xét xử nhiều vụ án còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng xét xử oan,
sai tuy xảy ra không nhiều nhưng rất nghiêm trọng
(2)
, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của không ít Thẩm phán còn non yếu, các biểu hiện suy thoái đạo
đức, tiêu cực, tham nhũng của một bộ phận thẩm phán vẫn tiếp tục xảy ra
(3)
.




(1)
Chế định thẩm phán - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn – Viện Khoa học pháp lý
– TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, tr 12
(2)
Điển hình là một số vụ án được báo chí và dư luận phán ánh nhiều như vụ Bùi
Minh Hải ở Đồng Nai (năm 1999), vụ Dương Thị Nga ở Hà Nội (năm 2000); vụ Chu
Quang Hưng ở thành phố Hồ Chí Minh (năm 2000)…
Theo báo cáo của VKSNDTC tại Quốc hội khoá X, trong năm 2001 có 31 trường hợp
Toà án cấp sơ thẩm tuyên có tội, nhưng cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm lại tuyên không
có tội; 10 trường hợp cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng cấp phúc thẩm lại tuyên có tội
(nguồn: bài “VKSND tập trung thực hiện chức năng công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp” – Hạnh Nguyên – Báo Pháp luật số ra ngày 16/12/2001).
(3)
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 các cơ quan chức

năng đã xử lý kỷ luật 129 cán bộ Toà án trong đó có nhiều người là chánh án, phó chánh
án, thẩm phán các TAND địa phương xa sút về phẩm chất đạo đức, làm sai lệnh hồ sơ, ra

7
bản án quyết định trái pháp luật, thiếu khách quan, nhận hối lộ, sống buông thả, gây mất
đoàn kết nội bộ…
Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành năm 1988 đã kế thừa, tiếp thu
những mặt tiến bộ của hệ thống pháp luật trước đó cũng như pháp luật TTHS
trên thế giới. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng trong quá trình áp dụng vẫn còn
bộc lộ một số nhược điểm, hạn chế nhất định. Nhiều quy định trong BLTTHS
tỏ ra bất cập không còn phù hợp với thực tế, không theo kịp xu hướng chung
của sự phát triển, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND
các cấp dẫn đến tình trạng quá tải các loại án ở TAND cấp tỉnh và Toà phúc
thẩm TANDTC trong khi chúng ta hoàn toàn có thể san sẻ bớt gánh nặng đó
cho TAND cấp huyện… Do đó việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy
định của BLTTHS nói chung và chế định về thẩm quyền xét xử của TAND
các cấp nói riêng là yêu cầu cấp bách. Vì lẽ đó nên BLTTHS sửa đổi, bổ sung
thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 đã quy định lại
thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân các cấp, đặc biệt là thẩm quyền xét
xử của TAND cấp huyện và lộ trình thực hiện là 5 năm từ tháng 7/2004 đến
tháng 7/2009 phải hoàn thành.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần hoàn thiện thẩm
quyền xét xử và trên cơ sở đó hoàn thiện tổ chức của TAND cấp huyện đáp
ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu
Thẩm quyền xét xử là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng
cho nên nhiều nhà khoa học, luật gia nghiên cứu. Hiện nay ở nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Hệ thống Toà án Việt Nam:

Phương hướng của việc hoàn thiện” (Luận án Tiến sĩ Luật học của TS Phạm
Văn Lợi – Lômônôxôp – Matxcơva – 1997); Cải cách hệ thống Toà án trong

8
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam (TSKH Lê Cảm - tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2001); Nguyên nhân và giải pháp khắc phục án
quá tải ở Toà án phúc thẩm TANDTC hiện nay (Nguyễn Duy tạp chí pháp lý
số 11 năm 2000); Một số vấn đề về hoàn thiện thẩm quyền xét xử của TAND
các cấp (TS Trần Văn Độ- tạp chí Toà án nhân dân số 6 năm 2001); Vấn đề
mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp quận,
huyện và yêu cầu hoàn thiện PLTTHS (TS Nguyễn Văn Hiện – chánh án Toà
án nhân dân tối cao); Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam (đề tài cấp nhà
nước, mã số 92 – 98 – 353, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Yểu và TS
Nguyễn Đình Lộc); Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp , đề tài cấp bộ, chủ
nhiệm đề tài: PGS. TS Hoàng Thế Liên, năm 2001); Những vấn đề đổi mới hệ
thống tư pháp ở nước ta (PGS. TS Phạm Hồng Hải, tạp chí TAND số 04 năm
1999)
Ngoài ra, vấn đề thẩm quyền xét xử còn được đề cập, phân tích trong
một số giáo trình và sách chuyên khảo như: Giáo trình luật TTHS (Nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội 2001 – tập thể tác giả do TS Nguyễn Ngọc Chí
chủ biên); Giáo trình luật TTHS Việt Nam (Trường đại học Luật Hà Nội); Hệ
thống hoá luật lệ về TTHS (Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1992);
Bình luận khoa học BLTTHS… Trong một số khoá luận tốt nghiệp cử nhân
luật học và một số đề tài luận văn thạc sĩ cũng đã nghiên cứu về chế định
thẩm quyền xét xử như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền xét
xử của TAND các cấp (Vũ Quang Dương – năm 2003); Thẩm quyền của
TAND các cấp ( Ngô Hồng Phúc – năm 1996)…. Tuy nhiên, các nghiên cứu
trên đây của các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thẩm quyền xét xử
nói chung mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền

xét xử của TAND cấp huyện một cách tương đối có hệ thống, đồng bộ và ở
cấp độ cao hơn.

9
Mặt khác, nhiều vấn đề xung quanh chế định thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện cũng đòi hỏi cần có sự tiếp tục nghiên cứu một cách toàn
diện và sâu sắc hơn làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới đáp
ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm
quyền xét xử của TAND cấp huyện đồng thời rút ra những vướng mắc, bất
cập, các nguyên nhân của sự vướng mắc, bất cập. Trên cơ sở đó luận văn đưa
ra các phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân cấp huyện trong điều kiện hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện bao gồm thẩm quyền xét xử
của Toà án đối với các vụ án: hình sự, dân sự, kinh tế, lao động… Trong phạm
vi nội dung đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện đối với các vụ án hình sự cũng như vấn đề có liên quan như
quá trình hình thành và phát triển của chế định này, các quy định của pháp
luật, thực tiễn áp dụng và các giải pháp nhằm sửa đổi và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện đối với các vụ
án hình sự.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để có thể nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về đề tài này
chúng ta phải sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy
vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương


10
pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, thống kê số liệu thực tiễn …
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp phân tích
và tổng hợp, so sánh, hệ thống kết hợp với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ
nội dung nghiên cứu của đề tài.

6. Cơ cấu luận văn:

- Lời mở đầu:
- Nội dung: gồm 3 chương
Chương I: Một số vấn đề chung về thẩm quyền xét xử của Toà án nhân
dân cấp huyện
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
1.2. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp
huyện.
Chương II: Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về thẩm quyền xét xử
của Toà án nhân dân cấp huyện.
2.2. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Chương III: Thực tiễn áp dụng, phương hướng và các giải pháp hoàn
thiện về thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án
nhân dân cấp huyện.

11

3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện thẩm
quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
3.3. Phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền xét xử
của Toà án nhân dân cấp huyện.


Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền xét xử về hình sự của Toà án
Trong lịch sử xã hội loài người có nhiều hình thức Nhà nước khác nhau,
ứng với mỗi hình thức Nhà nước là cách thức thực hiện quyền lực Nhà nước
đó. Trong Nhà nước phong kiến quyền lực tuyệt đối thuộc về nhà vua: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Chính vì thế luôn có sự lạm quyền và tuỳ tiện trong
quản lý và điều hành xã hội. Các Mác đã nói: “sự tuỳ tiện là quyền lực của
nhà vua”.
Nhà nước tư sản ra đời gắn với học thuyết “tam quyền phân lập” của
Mông tetxkiơ. Theo học thuyết này, thì quyền lực nhà nước được chia thành
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhánh quyền lực này kiềm chế
và đối trọng lẫn nhau. Học thuyết này đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước tư sản, một đóng góp quan trọng cho nền
dân chủ tư sản. Theo đó quyền tư pháp là quyền duy nhất thuộc về Toà án để
Toà án đứng trên giai cấp giữ vai trò trọng tài điều hoà các mâu thuẫn trong
xã hội.

12
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khi xây dựng học thuyết của
mình về nhà nước kiểu mới đã đưa ra quan điểm quyền lực nhà nước là thống

nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền lực cho cơ
quan đại diện nhưng không có nghĩa là làm tất cả các chức năng của nhà
nước, mà bên cạnh cơ quan quyền lực nhà nước còn có các cơ quan khác mỗi
cơ quan có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định.
Toàn bộ hoạt động của các cơ quan đó đều để thực hiện chu trình quản lý
nhà nước, trong đó cơ quan quyền lực (Quốc hội) có thẩm quyền thực hiện
chức năng lập pháp và giám sát tối cao, còn các cơ quan khác (Chính phủ, Toà
án, Viện kiểm sát) thực hiện chức năng hành pháp và tư pháp.
Chức năng tư pháp là hình thức thực hiện quyền lực nhà nước được hiểu
là hoạt động xét xử của các Toà án và những hoạt động của cơ quan nhà nước
khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử như: điều tra, truy tố, thi
hành án và bổ trợ tư pháp.
Mỗi cơ quan nhà nước có những nhiệm vụ khác nhau, hoạt động trong
phạm vi quy định thể hiện sự phân công trong hoạt động quản lý để tạo điều
kiện cho các cơ quan kiểm tra, giám sát lẫn nhau bảo đảm sự hoạt động của
bộ máy nhà nước. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan
nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước đó.
Trong từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học
Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là: quyền xem xét
để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Như vậy, ta có thể hiểu
thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định, đó là khả năng mà pháp luật
cho phép được thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất
định.
Mỗi cơ quan khi được thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình đều
hoạt động trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định với những quyền năng

13
mà pháp luật cho phép. Việc này được gọi là thẩm quyền của cơ quan, tổ chức
đó. Sự phân định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt

động của bộ máy Nhà nước đồng bộ, nhịp nhàng không trùng lắp, chồng chéo
nhau để đạt được hiệu quả cao nhất.
Bộ máy Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực
Nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch giữa ba quyền: Lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Ở nước ta quyền tư pháp theo nghĩa rộng bao
gồm: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ tư pháp được giao cho các
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Thi hành án …thực hiện. Trung tâm
là Toà án – nơi tập trung nhất của quyền tư pháp – kết quả của hoạt động điều
tra, truy tố, bào chữa … được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua
thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra những phán quyết mang tính quyền lực
Nhà nước, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất nền công lý của xã hội ta. Toà
án là cơ quan có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và
công bằng xã hội. Vì thế, theo nghĩa hẹp quyền tư pháp có thể được hiểu là
quyền xét xử của Toà án. Thực hiện chức năng đặc thù của mình Toà án có
thẩm quyền xét xử các vụ án và chỉ có Toà án mới được xét xử. Theo quy
định của Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật TCTAND năm 1992
thì TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS và các Toà án khác do luật
định là những cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Khi xét xử Toà
án nhân danh Nhà nước để ra bản án giải quyết vụ án. Như vậy, hoạt động xét
xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất Nhà nước. Sai lầm trong việc giải
quyết vụ án của Toà án chính là sai lầm của Nhà nước. Vì lẽ đó xét xử phải
đòi hỏi tính chính xác, công minh, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân
dân
(1)
.
Việc xét xử của Toà án nói chung và của TAND cấp huyện nói riêng,
hoàn toàn khác với biện pháp xử lý của các cơ quan hành chính. Sự khác biệt
cơ bản thể hiện ở chỗ hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả
hình phạt. Tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định: “không ai có thể bị coi


14
là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật”. Việc xử lý của các cơ quan hành chính Nhà nước được
tiến hành theo các thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ hơn trong khi đó việc
xét xử của Toà án được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy định
trong pháp luật tố tụng như luật tố tụng hình sự. Vì vậy, hiệu lực các phán
quyết của Toà án cũng cao hơn các biện pháp xử lý hành chính.

(1)
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền xét xử của TAQS các cấp - Đề
tài cấp Bộ - TANDTC - 2002
Để bảo đảm cho Toà án thực hiện tốt việc xét xử, Nhà nước trao cho Toà
án nhiều quyền năng pháp lý. Đó là khả năng pháp luật cho phép Toà án được
thực hiện, theo đó giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính.
Trong lĩnh vực hình sự quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án ở mỗi
quốc gia cũng khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như hệ thống pháp luật nói
chung, luật hình sự nói riêng, bộ máy tổ chức các cơ quan tư pháp, đội ngũ
thẩm phán, các điều kiện kinh tế xã hội… Trong cuốn từ điển pháp luật của
Pháp thì Leneunier cho rằng thẩm quyền xét xử được hiểu là khả năng của
một Toà án xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép.
Ở một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và hệ thống
luật án lệ thì Toà án được tổ chức theo cấp xét xử: Toà án sơ thẩm, Toà án
phúc thẩm và Toà án tối cao tương ứng với các cấp xét xử. Luật quy định
thẩm quyền xét xử: Toà án sơ thẩm xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án; Toà án
phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm khi vụ án bị kháng cáo hoặc bị
kháng nghị; Toà án tối cao xét xử giám đốc thẩm. Ở nước ta các Toà án được
tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ: Các TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là TAND cấp huyện), TAQS cấp khu vực chỉ
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm; còn các TAND cấp tỉnh, TAQS cấp Quân khu


15
và TAND tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vừa có thẩm quyền xét
xử phúc thẩm, giám đốc và tái thẩm. Từ đó thấy rằng sự quy định thẩm quyền
xét xử sơ thẩm khác nhau nhưng đều dựa vào một số dấu hiệu của vụ án để
phân định thẩm quyền xét xử. Có thể tổng hợp dấu hiệu đó thành những nhóm
sau:
- Nhóm thứ nhất là những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp
của tội phạm. Những dấu hiệu này được đánh giá cả từ góc độ luật hình sự và
luật TTHS. Theo đó thì tội phạm càng nghiêm trọng, phức tạp càng đòi hỏi
cấp Toà án và người xét xử có năng lực hơn.
Phân định thẩm quyền theo nhóm dấu hiệu này gọi là thẩm quyền xét xử
theo việc để phân biệt thẩm quyền của TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh,
giữa TAQS khu vực với TAQS Quân khu.
- Nhóm thứ hai là dấu hiệu về không gian liên quan đến việc thực hiện
tội phạm: Địa điểm thực hiện tội phạm, địa điểm kết thúc điều tra…
Theo sự phân định này gọi là thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ để phân
biệt thẩm quyền xét xử của các Toà án cùng cấp. Ở trường hợp có bị cáo
phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử tại Việt Nam

thì theo nhóm dấu hiệu này
cũng là căn cứ để phân biệt thẩm quyền xét xử của TAND các cấp.
- Nhóm thứ ba là những dấu hiệu liên quan đến người phạm tội. Sự phân
định thẩm quyền theo nhóm dấu hiệu này gọi là thẩm quyền xét xử theo đối
tượng.
Để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của một Toà án nói chung bắt
buộc phải xác định đồng thời cả ba nhóm dấu hiệu trên. Khi xem xét kỹ từng
nhóm dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác. Chỉ bỏ
sót một nhóm dấu hiệu không được xem xét thì có thể dẫn đến xét xử sai thẩm
quyền, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự. Ngoài ra, để xác định

thẩm quyền xét xử của một Toà án theo các cấp xét xử khác như xét xử phúc

16
thẩm, giám đốc thẩm… cần phải căn cứ vào tính chất pháp lý của thủ tục xét
xử đó.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử
về hình sự của Toà án như sau: Thẩm quyền xét xử về hình sự là quyền của
Toà án được xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
dựa trên các dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính
phức tạp của vụ án, không gian liên quan đến việc thực hiện tội phạm, hành
vi tố tụng và đặc điểm nhân thân của người phạm tội.

1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện
Cải cách tư pháp hiện nay phải lấy Toà án làm trọng tâm và việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra và kiểm sát đều có những yêu cầu
riêng nhưng có một cái chung là phục vụ cho việc phán xét đúng pháp luật
của Toà án
(1)
.
Sự nghiệp cải cách tư pháp hiện nay bao gồm nhiều nội dung, nhiều vấn
đề thuộc lĩnh vực liên quan đến nhiều ngành, song với ngành Toà án, nhiệm
vụ quan trọng nhất là đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống Toà án
nhằm nâng cao chất lượng xét xử, năng lực xét xử và tăng thẩm quyền xét xử
cho Toà án cấp huyện đã và đang được Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo
và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, phải dựa vào đâu để quy định thẩm quyền
xét xử của Toà án các cấp đối với các vụ án khác nhau cho hợp lý là vấn đề
cần được làm rõ trên cơ sở khoa học và thực tiễn Việt Nam.
Trước khi đi vào khái niệm thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện
chúng ta cần xem xét khái niệm về năng lực xét xử của TAND cấp huyện.
Năng lực là một thuật ngữ được dùng trong nhiều lĩnh vực hoạt động của

con người, theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998,
tr.639 thì năng lực là “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để
thực hiện một hoạt động nào đó…”. Như vậy, năng lực thể hiện ở bốn yếu tố:

17
- Hoặc là khả năng (cái mà chủ thể vẫn có) để thực hiện một hoạt động
nào đó;
- Hoặc là điều kiện khách quan để thực hiện một hoạt động nào đó;
- Hoặc là chủ quan để thực hiện một hoạt động nào đó;
- Hoặc là vừa khả năng, vừa điều kiện để thực hiện một hoạt động nào
đó.

(1)
Đề tài cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp huyện
ở Việt Nam - Bộ Tư pháp - 2001

Trên thực tế không thể có năng lực chung chung mà năng lực bao giờ
cũng cụ thể. Nói đến năng lực phải đi liền với một chủ thể nhất định và hoạt
động cụ thể xác định. Nếu thiếu yếu tố chủ thể hoặc hoạt động nào đó thì
không thể nói đến năng lực.
Khái niệm năng lực chung nêu trên có thể vận dụng để xác định khái
niệm năng lực xét xử của Toà án. Năng lực xét xử của Toà án là khái niệm
pháp lý mang tính xã hội cao và được sử dụng thường xuyên trong thực tiễn
công tác tổ chức của cơ quan xét xử và nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên,
trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như trong thực tiễn nghiên cứu
khoa học pháp lý chưa đưa ra khái niệm chuẩn về năng lực xét xử nói chung
cũng như năng lực xét xử của Toà án cấp huyện nói riêng.
Theo chúng tôi năng lực xét xử của Toà án nói chung chính là khả năng
thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ, chức năng xét xử của mình, trên cơ sở
tổng hợp các điều kiện, các yếu tố khách quan và chủ quan tạo thành sức

mạnh thực thi thẩm quyền xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng. Còn
năng lực xét xử của Toà án cấp huyện là khả năng của Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân và các điều kiện khách quan khác để hoàn thành chức năng xét xử
và bảo đảm chất lượng cao các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Năng lực

18
xét xử của TAND cấp huyện được cấu thành bởi các yếu tố và điều kiện khác
nhau, trong đó có các yếu tố và điều kiện cơ bản là:
- Cơ cấu tổ chức bộ máy xét xử của Toà án cấp huyện;
- Trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức Toà án
trong đó đóng vai trò nòng cốt là Thẩm phán Toà án cấp huyện;
- Kỹ năng, trình độ nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký
Toà án cấp huyện;
- Trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của cán bộ,
Thẩm phán Toà án cấp huyện;
- Sự phối hợp có hiệu quả giữa Toà án cấp huyện với cơ quan tiến hành
tố tụng và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác;
- Các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cần và đủ để bảo đảm cho
hoạt động của Toà án cấp huyện có hiệu quả;
- Cơ chế pháp lý ảnh hưởng đến năng lực phát triển của Toà án cấp
huyện.
Từ việc phân tích khái niệm về năng lực xét xử của TAND cấp huyện
nêu trên chúng ta đi vào phân tích khái niệm thẩm quyền xét xử của TAND
cấp huyện.
Theo quy định tại Điều 32 khoản 2 Luật tổ chức TAND năm 2002 thì:
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Ở đây, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gọi chung là
Toà án nhân dân cấp huyện. Vì vậy, xác định thẩm quyền của TAND cấp
huyện không nằm ngoài các cơ sở xác định thẩm quyền xét xử về hình sự của

Toà án nói chung.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày 13/9/1945 Chủ
tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số
33C thiết lập các TAQS - đánh dấu sự ra đời của Toà án ở nước ta. Điều 2 của
Sắc lệnh 33C quy định rõ: “Toà án quân sự sẽ xét xử tất cả các người nào

19
phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo
quân luật”.
Đến ngày 24/1/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán.
Theo đó hệ thống Toà án được thành lập ở ba cấp: Toà án sơ cấp, Toà đệ nhị
cấp và Toà thượng thẩm. Trong đó Toà sơ cấp được thành lập ở các quận
(phủ, châu, huyện). Thẩm quyền của Toà sơ cấp chủ yếu là xử vi cảnh và việc
hộ.
Đến sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 thẩm quyền của Toà sơ cấp được quy
định rõ hơn. Tại Điều 5 của Sắc lệnh quy định: Toà án sơ cấp có quyền xử:

Về hình sự:
- Chung thẩm: Những án phạt bạc từ 0,50 đồng đến 9,00 đồng; những án
bồi thường từ 100 đồng trở xuống.
- Sơ thẩm: Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày; những án xử bồi thường
không quá 150 đồng hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy mà
nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiéu nại hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem
ra phiên Toà xử.
Tuy nhiên, chỉ đến khi Hiến pháp năm 1959 và luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 1960 ra đời thì Toà án nhân dân mới được củng cố một cách có hệ
thống chặt chẽ và thẩm quyền Toà án các cấp mới được quy định rõ ràng.
Luật TCTA năm 1960 đã quy định thẩm quyền của TAND cấp huyện là

xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống.
Tại Luật TCTAND năm 1981 mở rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự được xử những tội có mức hình phạt từ 5
năm tù trở xuống.

20
Theo Luật TCTA năm 1992 thì TAND cấp huyện được xét xử sơ thẩm
các vụ án về hình sự với mức hình phạt được quy định từ 7 năm tù trở xuống,
trừ những tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số tội liên quan đến chính
trị, uy tín… quốc gia do luật định. BLTTHS sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy
định thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được xét xử các vụ án hình sự
với mức hình phạt từ 15 năm tù trở xuống. Lộ trình thực hiện là 5 năm, từ
tháng 07/2004 đến tháng 07/2009 phải hoàn thành.
Như vậy, nghiên cứu khái quát quá trình phát triển của hệ thống Toà án
Việt Nam chúng ta thấy thẩm quyền cho Toà án cấp huyện ngày một được mở
rộng hơn, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội.
Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên - đặc biệt quan trọng, vì theo Điều
72 Hiến pháp năm 1992 quy định: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy,
để xác định một người có tội và chịu hình phạt đòi hỏi họ phải được đưa ra
xét xử trước phiên toà. Toà án là cơ quan duy nhất của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam có quyền quyết định một người có tội hay không có tội. Chính vì
vậy, để hoạt động xét xử của Toà án luôn được thực hiện một cách tốt nhất, có
hiệu quả nhất, bảo đảm được việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì ngoài việc quy
định các quyền của Toà án, pháp luật cũng giới hạn phạm vi quyền đó, đó là
quy định thẩm quyền của Toà án, mà trong đó TAND cấp huyện là một bộ
phận cực kỳ quan trọng không thể tách rời.
Có thể nói: thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện chính là
khả năng mà pháp luật cho phép Toà án cấp huyện xem xét và giải quyết các

vấn đề cụ thể về vụ án.
1.2. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân
các cấp

21
Dưới góc độ áp dụng pháp luật, việc xác định và phân biệt thẩm quyền
xét xử giữa các Toà án với nhau được thực hiện dựa trên các nhóm dấu hiệu
đặc trưng của từng vụ án cụ thể theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy nếu thẩm
quyền xét xử của Toà án các cấp được quy định trong pháp luật không phù
hợp sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực như hạn chế chất lượng, hiệu quả hoạt
động tư pháp hình sự, số lượng án phân bổ không đồng bộ dẫn đến tồn đọng,
chi phí hoạt động tư pháp cao, có thể vi phạm các quyền tự do, dân chủ của
công dân… Vì vậy, việc nghiên cứu xác định đúng đắn cơ sở lý luận và thực
tiễn cho hoạt động lập pháp tố tụng hình sự trong việc nghiên cứu thẩm quyền
xét xử của Toà án các cấp có ý nghĩa rất quan trọng.
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn lập pháp trong những năm qua, tuy
một số căn cứ đã được đưa ra nhưng các ý kiến chủ yếu tập trung vào căn cứ
trình độ, năng lực của thẩm phán, số lượng án tồn động hàng năm ở Toà án
cấp này hay cấp khác để đề nghị phân định thẩm quyền… Nhìn chung, các
quan điểm này đều chứa đựng các yếu tố hợp lý, tuy nhiên mỗi quan điểm còn
đề cập đến vấn đề một cách phiến diện và đơn giản. Trong nhiều trường hợp
nếu dựa vào tiêu chí này để phân định thẩm quyền xét xử của Toà án thì sẽ
dẫn đến những kết quả không giống nhau, thậm chí trái ngược so với việc sử
dụng tiêu chí khác để phân định thẩm quyền xét xử. Bởi vậy, khi nghiên cứu
các căn cứ để hoàn thiện chế định xét xử của Toà án nhân dân, nhà làm luật
cần cân nhắc để tìm ra một phương pháp tối ưu kết hợp được tính hợp lý của
các căn cứ để quy định thẩm quyền. Khi phân định thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện thì ngoài việc dựa vào các căn cứ để phân định thẩm quyền
xét xử của Toà án nói chung, còn phải dựa vào tính chất đặc thù của TAND

cấp huyện nói riêng có như vậy việc phân định thẩm quyền xét xử cho TAND
cấp huyện mới chính xác. Có thể dựa vào các căn cứ sau đây để phân định
thẩm quyền xét xử.
1.2.1. Căn cứ vào tính chất, mức độ và sự phức tạp của vụ án

22
Đây là một trong những căn cứ cơ bản và quan trọng để phân định thẩm
quyền xét xử của Toà án. Theo căn cứ này, việc phân định thẩm quyền xét xử
dựa vào hai tiêu chí: tiêu chí nghiêm trọng và tiêu chí phức tạp của vụ án.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội được xem xét ở hai mặt: mặt thực tế (đã gây thiệt hại
hoặc có nguy cơ gây thiệt hại) cho một hay nhiều khách thể nhất định và mặt
xã hội (xem xét tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải được đặt trong
những điều kiện xã hội nhất định). Đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của
một loại tội phạm phải xem tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan
hệ xã hội do tội phạm xâm hại. Hành vi phạm tội càng xâm hại đến những
quan hệ xã hội khách thể quan trọng càng gây nguy hại lớn cho xã hội thì tội
phạm càng nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật
thể hiện thông qua chế tài quy định với tội phạm đó. Tội phạm càng nghiêm
trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được
nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai thì khi phân định thẩm quyền xét xử
cho Toà các cấp phải căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm. Theo đó tội
càng nghiêm trọng càng đòi hỏi cơ quan và người tiến hành tố tụng có năng
lực cao hơn. BLTTHS đã quy định thẩm quyền xét xử theo hướng này.
Bên cạnh việc căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm khi phân định
thẩm quyền xét xử còn phải căn cứ vào tính phức tạp của từng loại tội phạm.
Tính phức tạp của tội phạm được xem xét dưới hai góc độ: luật hình sự và
luật tố tụng hình sự.
Ở góc độ luật hình sự sự phức tạp của tội phạm được xem xét ở khách
thể tội phạm và đường lối xử lý tội phạm đó. Còn ở góc độ luật tố tụng hình

sự, tính phức tạp của tội phạm được xem xét ở khả năng điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm.
Việc quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và
phức tạp của tội phạm vì đây là hai khái niệm không thống nhất. Thông
thường thì tội phạm nghiêm trọng là phức tạp, tội phạm ít nghiêm trọng là

23
đơn giản. Nhưng cũng nhiều trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng lại phức
tạp. Tính phức tạp của tội phạm thường được thể hiện ở đường lối xử lý vụ án
hoặc ở khả năng chứng minh tội phạm và người phạm tôị. Ở các tội phạm
được thể hiện bởi các chủ thể đặc biệt như người trong các cơ quan tiến hành
tố tụng (thẩm phán, kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân…), người nước ngoài
đều rất phức tạp. Ngoài ra, khách thể mà tội phạm xâm hại cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến tính phức tạp của tội phạm, nhất là các tội xâm phạm đến an
ninh quốc gia.
Pháp luật TTHS của nước ta từ trước tới nay đã căn cứ vào tính nghiêm
trọng và phức tạp của tội phạm được thể hiện trong các điều luật của Bộ luật
hình sự để quy định thẩm quyền cho Toà án các cấp. Thế nhưng cũng không
loại trừ những trường hợp nhà làm luật chưa dự liệu tính phức tạp của một vụ
án cụ thể trong các quy định chung. Ví dụ, các vụ án liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều địa phương; vụ án mà người thực hiện tội phạm là cán bộ
chủ chốt cấp huyện, là người có chức sắc cao trong tôn giáo hoặc uy tín cao
trong dân tộc ít người, là người nước ngoài… là những vụ án phức tạp khi xét
xử. Vì vậy, đồng thời với việc quy định thẩm quyền xét xử căn cứ tính nghiêm
trọng, phức tạp của tội phạm đã được thể hiện trong luật hình sự, BLTTHS
cũng quy định cho Toà án cấp trên có quyền lấy vụ án thuộc thẩm quyền của
Toà án cấp dưới lên để xét xử.
Từ phân tích như trên, thì tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm là
một trong những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử. Nhưng xét ở một góc
độ khác thì tính nghiêm trọng của tội phạm còn là cơ sở để phân loại tội phạm

trong BLHS. Dựa vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm, nhà làm luật đã
chia tội phạm thành bốn loại: tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng, và tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất
giữa luật nội dung và luật hình thức thì quy định thẩm quyền xét xử cũng cần
dựa vào sự phân loại tội phạm trong BLHS. Hiện nay theo BLTTHS sửa đổi,
bổ sung thì phân định cho một số TAND cấp huyện (có đủ các điều kiện về cơ

24
sở vật chất; số lượng, chất lượng thẩm phán … và các cơ quan hữu quan cùng
hội tụ đầy đủ các yêu cầu) xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy
định hình phạt từ 15 năm tù trở xuống tức là được xét xử các tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Lộ trình
thực hiện thẩm quyền xét xử mới của Toà án cấp huyện là 5 năm, từ 2004 –
2009. Từ nay cho đến năm 2009, TAND cấp huyện nào có đủ các điều kiện sẽ
được xem xét giao thẩm quyền xét xử những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt từ 15 năm tù trở xuống. Còn hiện tại đang có sự đan xen thẩm
quyền xét xử của TAND cấp huyện vì phần lớn các TAND cấp huyện hiện
nay chưa hội tụ đủ những yêu cầu đã đặt ra nên chỉ xét xử sơ thẩm những tội
phạm mà BLHS quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, tức là được xét xử
các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.
1.2.2. Căn cứ vào các tổ chức hệ thống cơ quan Nhà nƣớc nói chung,
các cơ quan tƣ pháp nói riêng, vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của
cơ quan tiến hành tố tụng
Ở mỗi một quốc gia có một cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước khác
nhau. Có nước tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, ở đó quyền lực
Nhà nước được phân thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong
khi đó một số nước khác, trong đó có Việt Nam lại tổ chức theo nguyên tắc
tập quyền không có sự phân chia quyền lực.
Ở nước ta quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện
quyền lực của mình thông qua Quốc hội. Tuy nhiên, Quốc hội cũng không thể

tự mình thực hiện tất cả các công việc mà có sự phân công, phân nhiệm giữa
các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Theo đó Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan
hành pháp; tư pháp được thực hiện bởi các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án… Tất cả các cơ quan này hợp thành hệ thống cơ quan Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương. Tại Điều 118 Hiến pháp năm 1992 Nhà nước ta
được chia theo 3 cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố

25
trực thuộc Trung ương); cấp huyện (quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị
xã) và cấp xã (xã, phường, thị trấn). Theo sự phân chia đơn vị hành chính lãnh
thổ trên, cơ quan quyền lực và hành chính được tổ chức từ Trung ương đến
cấp xã. Riêng hệ thống tư pháp chỉ tổ chức đến cấp huyện. Theo cách tổ chức
này các Toà án bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh và
Toà án nhân dân cấp huyện.
Từ cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực, hành chính và tư pháp theo
đơn vị hành chính lãnh thổ ở trên, nhà làm luật quy định thẩm quyền xét xử
cho từng cấp Toà án. BLTTHS đã căn cứ vào cách tổ chức đó để quy định
thẩm quyền xét xử.
Ngoài ra, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, trong hệ thống
Toà án nói chung, các TAND cấp huyện cũng được thành lập tổ chức ngay từ
ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Vì vậy, pháp luật tố tụng
cũng đã chú trọng quy định thẩm quyền xét xử của các TAND cấp huyện. Các
TAND cấp huyện cơ bản được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, có
thẩm quyền xét xử các vụ việc trên địa bàn. Với việc phân định thẩm quyền
như trên không chỉ bảo đảm tính khoa học về mặt quản lý mà còn phát huy
được tối đa khả năng phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong
giải quyết vụ án.
1.2.3. Căn cứ vào năng lực của các cơ quan và ngƣời tiến hành tố
tụng

Mọi công việc đều do con người thực hiện, nên cho dù việc phân định
thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng có đúng đắn đến đâu nhưng nếu
không tính đến yếu tố con người thì cũng không đạt hiệu quả cao được. Chỉ
khi có sự phù hợp giữa công việc và khả năng của con người thì mới phát huy
được hết khả năng của họ, đồng thời giải quyết được tốt các công việc. Việc
quy định thẩm quyền xét xử trước hết phải dựa vào năng lực của người trực
tiếp tiến hành việc xét xử, đó là thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Để hoàn

×