Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.71 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Đào Thị Phương Thùy

Trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại nghị

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Đào Thị Phương Thùy

Trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại nghị

Luận văn Thạc sĩ
Mã Số: 60 38 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung

Hà nội - 2006


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình thức chính thể là một hình thức rất quan trọng trong các dạng hình
thức nhà nước. Hình thức chính thể là sự biểu hiện bề ngoài thành mô hình,


hình dáng của nhà nước thông qua cách thức, cơ cấu bên trong của việc tổ
chức, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan nhà nước
cấu tạo nên nhà nước tư sản và bản chất nguồn gốc của quyền lực nhà
nước[6]. Việc xác định hình thức chính thể có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi
trong lịch sử tồn tại lâu đời của nhà nước vấn đề trọng tâm của bất kỳ quốc
gia nào đều là việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Ở các quốc gia
trên thế giới nhà nước được tổ chức thành ba ngành quyền lực là lập pháp –
Quốc hội, hành pháp – Chính phủ và tư pháp – Toà án. Nhưng, Chính phủ
chính là trung tâm của bộ máy nhà nước. Tất cả các cơ quan trên đều phải
chịu trách nhiệm về phần việc của mình nhưng Chính phủ phải chịu trách
nhiệm là vấn đề quan trọng nhất của mỗi nhà nước. Chính phủ – hành pháp
phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội – lập pháp và một số thiết chế có liên
quan nhưng chủ yếu là chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Nghị viện – cơ quan
lập pháp.
Chế định trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội hay Nghị viện bắt
nguồn từ nguyên lý uỷ quyền. Chính phủ và hệ thống hành pháp thực hiện
quyền hành pháp chính là thực hiện sự uỷ quyền của lập pháp. Hoạt động này
không được vượt ra ngoài phạm vi uỷ quyền và phải được sự tán thành của cơ
quan lập pháp, và khi không đáp ứng được các đòi hỏi đó, Chính phủ – hành
pháp phải chịu trách nhiệm, phải chịu sự phán xét của cơ quan lập pháp.
Ngoài ra, Chính phủ cũng phải chịu trách nhiệm trước một số thiết chế khác.
Chính vì vậy, Hiến pháp các nước trên thế giới đều quy định một cơ chế chịu

1


trách nhiệm của Chính phủ bao gồm cơ sở, hình thức và trình tự chịu sự phán
xét và gánh chịu chế tài của Chính phủ, các thành viên Chính phủ trước các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà trước hết là cơ quan quyền lực về lập
pháp. Về bản chất, trách nhiệm của Chính phủ – hành pháp trước cơ quan lập

pháp là một loại trách nhiệm chính trị.
Trách nhiệm của Chính phủ – hành pháp trong các chính thể khác nhau
lại có các đặc điểm khác nhau. Các nước trên thế giới ngày nay theo hai loại
chính thể cơ bản là quân chủ và cộng hoà, do vậy cũng có hai mô hình chịu
trách nhiệm điển hình. Trong chính thể đại nghị, Chính phủ phải chịu sự kiểm
tra của Nghị viện, chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính phủ chỉ được hoạt
động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Nghị viện, mất tín nhiệm trước Nghị viện
sẽ dẫn tới hậu quả - Thủ tướng, Bộ trưởng phải từ chức hoặc toàn bộ Chính
phủ bị lật đổ và thay bằng một Chính phủ mới. Chính phủ – hành pháp nắm
trọng trách đối với vận mệnh của cả một quốc gia do vậy Chính phủ – hành
pháp phải chịu trách nhiệm, nhưng chịu trách nhiệm trước những ai, cách thức
chịu trách nhiệm thế nào, theo cơ chế nào lại là vấn đề cần tìm hiểu. Chính vì
vậy tôi lựa chọn đề tài “Trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại
nghị” làm đề tài nghiên cứu của mình nhằm chỉ ra cơ chế, cách thức chịu
trách nhiệm của Chính phủ – hành pháp trong chế độ đại nghị, và chỉ ra các
minh hoạ trong các nước tư sản cụ thể.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây ở nước ta việc nghiên cứu về trách nhiệm
của hành pháp đã được một số tác giả đề cập đến trong các ấn phẩm như
“Hình thức nhà nước đương đại” và “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung. Bên cạnh đó còn có các ấn phẩm khác như “Tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một

2


số nước” của TS Nguyễn Thị Hồi hay tác phẩm “Một số lý thuyết và kinh
nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới” của TS Thang Văn Phúc và PGS. TS
Nguyễn Đăng Thành. Ngoài ra, còn có các bài viết trên các sách báo chính trị
pháp lý đề cập đến trách nhiệm của hành pháp như bài viết “Hình thức chính

thể của các nước trên thế giới” của TS Vũ Hồng Anh hay bài viết “Hoàn thiện
cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ” của PGS.TS
Bùi Xuân Đức.
Những nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, các nghiên cứu trên chưa đi sâu vào nghiên cứu trách nhiệm của hành
pháp trong chế độ đại nghị.
3. Mục tiêu của đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu của đề tài nhằm chỉ ra trách nhiệm của hành pháp trong chế
độ đại nghị, cơ chế chịu trách nhiệm cũng như cách thức chịu trách nhiệm,
đồng thời phân tích việc áp dụng chế độ trách nhiệm này ở một số nước điển
hình trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu của đề tài đã đặt ra, đề tài có nhiệm vụ
nghiên cứu trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại nghị, những điểm
khác biệt trong việc áp dụng chế độ này ở các nước khác nhau trên thế giới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập chung nghiên cứu về trách nhiệm của hành pháp trong
chế độ đại nghị và việc áp dụng trách nhiệm của hành pháp ở một số quốc gia
như Anh, Nhật Bản, Đức, Pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

3


Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã vận dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, tiếp cận hệ
thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn đã cố gắng hệ thống hoá về chế độ trách nhiệm của hành
pháp trong chế độ đại nghị, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá, phân
tích khoa học có tính độc lập.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận về Nhà nước và Pháp luật nói chung
và Luật Hiến pháp nói riêng.
- Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu có thể có những đóng
góp nhất định vào việc nghiên cứu về chế độ trách nhiệm của hành pháp trong
chế độ đại nghị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm ba chương.
Chương 1: Khái quát về trách nhiệm hành pháp trong chế độ đại nghị.
Chương 2: Nội dung của việc hành pháp phải chịu trách nhiệm trong
chế độ đại nghị.
Chương 3: Việc áp dụng trách nhiệm của hành pháp trong chế độ đại
nghị ở một số nước trên thế giới.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA HÀNH PHÁP TRONG
CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ
1.1. Sự xuất hiện chính thể đại nghị và chế định trách nhiệm của
hành pháp trước lập pháp ở nước Anh
Anh quốc là một Nhà nước quân chủ đại nghị điển hình, cai trị bởi các
vị đại diện được bầu bởi nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong
chế độ đại nghị, qua bầu cử người dân uỷ quyền cho Quốc hội được bầu ra
một chính phủ để điều hành đất nước và chính phủ này phải chịu trách nhiệm

trước Quốc hội. Nước Anh được coi là xuất phát điểm của mọi mô hình tổ
chức nhà nước hiện nay và được coi là quê hương của các thiết chế dân chủ
cổ điển. Đa số các nhà nước được tổ chức theo mô hình chính thể đại nghị
đều có chế định chịu trách nhiệm của Chính phủ trước nghị viện. Chế định
này có nguồn gốc từ Anh quốc và những nước theo chính thể đại nghị. Đặc
điểm của loại hình tổ chức này là nguyên thủ quốc gia do thế tập truyền ngôi.
Ở chính thể này nguyên thủ quốc gia là các vị Hoàng đế được truyền ngôi cho
con và Chính phủ - bộ máy hành pháp được thành lập và hoạt động chỉ khi
vẫn được Hạ viện tín nhiệm. Các Bộ trưởng và người đứng đầu hành pháp
phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trên thực tế việc thành lập và hoạt
động của Chính phủ đều nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện,
Nhà vua hầu như không tham gia giải quyết các công việc của Nhà nước.
Theo chế độ Hiến pháp bất thành văn của Anh quốc sự không chịu trách

5


nhiệm của Nhà vua là một nguyên tắc căn bản. Người Anh có những câu ngạn
ngữ như: “Nhà vua trị vì nhưng không cai trị”, “Nữ hoàng không chịu trách
nhiệm gì cả” hay “Nữ hoàng luôn luôn đúng”, “Nữ hoàng muốn như thế”. Nữ
hoàng Anh thậm chí không chỉ không chịu trách nhiệm chính trị mà còn cả
trách nhiệm hình sự. Nhà vua trở thành nhân vật tượng trưng cho sự độc lập
vĩnh hằng của dân tộc, và bị tước bỏ dần dần các quyền năng của mình lúc
đầu là quyền lập pháp cho Quốc hội và sau đó là nhường quyền điều hành đất
nước cho Chính phủ mà đứng đầu là Thủ tướng. Trước năm 1215 Vua có toàn
quyền, không bị ai kiểm soát hoạt động. Năm 1215 với sự ra đời của Hiến
chương Mangna Charta, quyền lực của Vua đã bị hạn chế trong một số lĩnh
vực nhất định. Quyền hành và thế lực của Vua đã bị giảm sút và chuyển dần
sang tay Nghị viện. Vào thế kỷ XVII, khi có sự xuất hiện của quy chế luật
phải được sự nhất trí tán thành của ba cơ quan: Thượng viện, Hạ viện, và nhà

Vua thì nhà Vua buộc phải cai trị theo sự phê chuẩn của Nghị viện. Nhà vua
không thể ban hành luật nếu không có sự thoả thuận của Nghị viện, Nhà vua
phải tôn trọng pháp luật và pháp luật chỉ có thể bị sửa đổi bởi Nghị viện. Sau
cách mạng 1688 với thắng lợi của mình, Nghị viện đã thông qua “tuyên ngôn
các quyền” trong đó quy định Nhà vua chỉ còn giữ quyền hành pháp, quyền
lập pháp hoàn toàn thuộc về Nghị viện. Và ngược lại với sự giảm dần quyền
lực của Nhà vua là sự tăng dần quyền lực của Nghị viện. Quyền hành của Nhà
vua không chỉ bị giảm dần rồi bị hạn chế đến mức tối đa trong lĩnh vực lập
pháp mà còn cả trong lĩnh vực hành pháp [12, tr 126]. Về hình thức, quyền
hành pháp cao nhất ở Anh thuộc về Nhà vua, Nhà vua là người đứng đầu Nhà
nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ, quân đội và nhà thờ. Việc quản
lý Nhà nước được Chính phủ thực hiện nhân danh Nữ hoàng nhưng trên thực
tế Nhà vua chỉ mang tính hình thức còn thực quyền thì nằm trong tay Chính
phủ. Nhà vua hay Nữ hoàng chỉ còn lại một phần của quyền hành pháp và

6


hoàn toàn chỉ mang tính tượng trưng. Nữ hoàng Anh không chỉ là nguyên thủ
quốc gia của nước Anh mà còn là nguyên thủ quốc gia của Canada và của
Australia. Tính hình thức của Nữ hoàng Anh quốc đã dẫn đến một sự kiện đó
là khoảng năm cuối thế kỷ XX, một nghị sỹ thuộc Công đảng ông W. Benn
trình lên Nghị viện bản dự luật đề nghị xoá bỏ chế độ quân chủ khỏi đời sống
chính trị – xã hội của nước Anh. Nhưng xét thấy Nữ hoàng vẫn còn có những
vai trò quyết định trong xã hội, Nghị viện Anh đã gạt bỏ dự luật này. Với đầu
óc “hoài cổ thực dụng” nhân dân Anh vẫn mến mộ Nữ hoàng và Hoàng gia.
Đây là biểu tượng của nước Anh thống nhất. Trong lúc Nội các tượng trưng
cho uy quyền thì Nữ hoàng tượng trưng cho sự chính đáng. Hiện nay, Vua là
một chức danh rất quan trọng nhưng hoạt động lại chỉ mang tính hình thức.
Nhà vua có chức năng tượng trưng cho sự thống nhất và vững bền của dân

tộc, tượng trưng cho quốc gia. Vua là nguyên thủ quốc gia, là người thay mặt
cho các đảng phái, là trung tâm của lòng ái quốc.
Với chức năng biểu tượng cho sự bền vững của dân tộc. Nguyên thủ
quốc gia của các chính thể quân chủ có một vị trí rất quan trọng trong những
thời điểm mà nền an ninh, chủ quyền độc lập của các quốc gia bị xâm phạm.
Trong những trường hợp này Nhà vua với tư cách biểu tượng cho sự bền
vững của dân tộc sẽ đứng ra kêu gọi tinh thần yêu nước, sự hy sinh của thần
dân để bảo vệ đất nước. Đây cũng chính là lý do quan trọng cho việc tồn tại
của chế định nguyên thủ quốc gia của chính thể quân chủ đại nghị. Nguyên
thủ quốc gia được coi là hành pháp tượng trưng – một phần của hành pháp.
Thủ tướng là người đứng đầu hành pháp, có quyền điều hành nên được gọi là
hành pháp thực quyền.
Nhà vua (Nữ hoàng) về mặt hình thức có rất nhiều quyền hạn như: phê
chuẩn các đạo luật, bổ nhiệm công chức dân sự, quân sự, ban tước hiệu cho

7


thần dân, triệu tập Quốc hội và khai mạc các kỳ họp của Quốc hội, ban hành
luật, giải tán Quốc hội, giải tán Nội các... Song trên thực tế, hoạt động của Nữ
hoàng hiện nay chỉ nhằm mục đích chính thức hoá về mặt Nhà nước các hoạt
động đã rồi của cả Nghị viện và Chính phủ. Nữ hoàng có thể bổ nhiệm Thủ
tướng nhưng cũng không thể bổ nhiệm ai khác ngoài lãnh tụ của đảng chiếm
đa số ghế trong Nghị viện. Như vậy, qua cuộc bầu cử Hạ viện dân chúng Anh
quốc đã lựa chọn cho mình một người đứng đầu bộ máy hành pháp. Đây cũng
chính là lý do giải thích tại sao Thủ tướng Anh lại có nhiều quyền năng trên
thực tế. Về lý thuyết, Nữ hoàng có quyền phê chuẩn hoặc từ chối phê chuẩn
các đạo luật mà Quốc hội đã thông qua cũng như có thể không chấp nhận đề
nghị giải tán Quốc hội, giải tán Nội các nhưng Nhà vua chưa bao giờ làm như
vậy trong gần hai thế kỷ qua cho dù đó là quyền pháp lý của mình. Mọi hoạt

động của Nhà vua đều có sự bảo đảm từ phía cơ quan hành pháp vì mọi quyền
hành của Vua đều trao cho Chính phủ [12, tr 132].
Đa số các nhà nước được tổ chức theo mô hình chính thể đại nghị đều
có chế định chịu trách nhiệm của Chính phủ trước nghị viện. Chế định này có
nguồn gốc từ Anh quốc và những nước theo chính thể đại nghị. Vào khoảng
thế kỷ thứ 15-16 để giúp các nhà Vua trị nước, an dân có nhiều quan lại gọi là
bậc quân thần thượng thư phụ tá. Nhà vua thường triệu hồi các bậc quần thần
này để lấy ý kiến của họ về những vấn đề quan trọng. Đến thế kỷ 17, dựa trên
cơ sở các bậc quần thần này, một cơ quan được thiết lập với tên gọi Viện cơ
mật. Đó là cơ quan tối cao giúp Nhà vua thảo luận quyết định những vấn đề
trọng đại và bí mật. Trong suốt thế kỷ 18, nguyên tắc “Chính phủ trách
nhiệm” đã được phát triển. Nội các Anh tách ra từ Hội đồng cơ mật do Nhà
vua lựa chọn thành phần. Dần dần các thành viên hội đồng được trao trách
nhiệm quản lý các Bộ hay các ngành nào đó. Tổng thể các Bộ trưởng như vậy
tạo nên Nội các, một bộ phận không được pháp luật hay lý thuyết nào công

8


nhận. Song cuộc sống bao giờ cũng cao hơn mọi lý thuyết. Về mặt pháp luật,
Nội các chưa bao giờ tồn tại, song trên thực tế nó không chỉ hoạt động mà còn
ngày càng được củng cố. Nội các tồn tại nhưng khó nhận ra. Các cuộc họp
của nó rất bí mật. Trong một thời gian dài Nội các chưa có địa điểm chính
thức nào dành cho các cuộc họp của mình và chỉ vào những năm cuối thế kỷ
19, Nội các được phân một toà nhà làm địa điểm họp chính thức ở phố
Downing. Người ta nhận xét rằng, đó không phải là những cuộc họp mà là
“những cuộc gặp tình cờ của một vài thành viên Hội đồng cơ mật” [17, tr
212]. Nhờ vào Nghị viện, Nội các nhanh chóng hạn chế quyền lực của Nhà
vua song liền đó cũng nảy sinh những bất đồng giữa Nghị viện và Nội các. Có
thể thấy ngay được là, không một Chính phủ nào giữ nguyên được quyền lực

bao gồm quyền phê chuẩn luật, quyền quyết định ngân sách, ký kết hoà bình
nếu như Chính phủ đó không được sự ủng hộ của đa số thành viên Hạ viện.
Nghị viện không chỉ bó buộc trong việc lập pháp mà dành quyền của mình
cho việc giám sát quyền hành pháp, đồng thời lấn sâu vào các quyền của Nhà
vua. Chính vì thế đã nảy sinh ra nguyên tắc “Chính phủ trách nhiệm - tức là
Chính phủ có trách nhiệm trước Nghị viện”.
Đến đầu thế kỷ 18, năm 1714 khi Geogle lên ngôi, vị vua Anh này
mang dòng máu Đức, không biết tiếng Anh, không thích thú với công việc
làm Vua nước Anh nên rất chểnh mảng việc dự các phiên họp của Viện cơ
mật và dần dần uỷ thác công việc cai trị cho Viện cơ mật. Không có Nhà vua
chủ trì, Viện cơ mật buộc phải bầu ra trong số các quần thần một vị thượng
thư thứ nhất chủ trì các phiên họp. Sau này, các thượng thư được chuyển đổi
tên gọi là các Bộ trưởng, Hội nghị trên được đổi thành Nội các. Vị thượng thư
thứ nhất điều khiển các phiên họp của viện cơ mật được gọi là Thủ tướng như
ngày nay. Các Bộ trưởng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công việc
cai trị quốc gia, thường họp thành Nội các nhưng không có mặt Vua. Nội các

9


dần dần trở thành một tập thể thống nhất hành động dưới quyền chủ toạ của
Thủ tướng, liên đới chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Vua vắng mặt, các vị
thượng thư càng dễ dàng chống đối các ý kiến của Nhà vua, đồng thời họ
củng cố lẫn nhau bằng cách chịu trách nhiệm chung về các quyết định. Vua
George III vốn sinh trưởng ở Anh, mặc dù thành thạo tiếng Anh đã tìm cách
hồi phục quyền lực nhưng đã bị thất bại năm 1776 nên đành phải chấp nhận
tập quán để mặc Thủ tướng và các Bộ trưởng lo việc nước. Vào những năm trị
vì cuối cùng, Vua bị điên nên uy thế của Nội các đối với việc cai trị đất nước
lại càng tăng. Từ đó trở đi, Chính phủ là vũ khí cơ bản để thực hiện chính
sách đối nội và đối ngoại của nhà nước [12, tr 129].

Theo tiến trình của dân chủ, thế lực của vương triều ngày càng giảm
sút, nhưng phiên họp Quốc hội do Vua điều hành ngày càng trở lên hình thức,
trong khi đó công việc thực sự của Quốc hội là công lao của hai viện họp
riêng. Ưu thế của Quốc hội đã bắt Nhà vua cai trị qua các vị Bộ trưởng có
chân ở trong Quốc hội. Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Nhà vua
William đã vấp phải rất nhiều khó khăn trong việc điều hành đất nước thông
qua các vị Bộ trưởng chỉ có chân đơn thuần trong Quốc hội mà không có uy
tín trong Quốc hội. Từ năm 1693 – 1696, Nhà vua giải tán Đảng Tories và
giao phó các chức vụ Bộ trưởng cho các đảng viên của Đảng Whigs, chiếm
đa số tại Hạ nghị viện. Do vậy, thái độ cứng rắn trước kia của Quốc hội đã trở
lên mềm dẻo hơn. Làm như vậy có lợi cho Nhà vua vì hoàn cảnh chính trị đã
bó buộc các vị quân vương chỉ thu dụng làm Bộ trưởng là những vị nghị sĩ có
thế lực tại Hạ nghị viện. Nếu được Hạ nghị viện tín nhiệm, các vị đó có thể
kiểm soát được cơ quan này. Nhờ hoàn cảnh đó mà phát sinh ra thủ tục chọn
vị Thủ tướng Chính phủ - người đứng đầu hành pháp, phải là thủ lĩnh của
đảng cầm quyền. Tiếp theo thủ tục chọn Chính phủ trong đảng chiếm đa số ở
Hạ nghị viện là thủ tục Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

10


Cũng vì không biết tiếng Anh một cách rành rọt mà Nhà vua cũng không
tham dự các phiện họp của Hạ nghị viện. Do vậy, để Nhà vua nắm được tình
hình. Vị Bộ trưởng đứng đầu Nội các sau mỗi phiện họp phải tấu trình chi tiết
cuộc thảo luận hay quyết nghị của Nghị viện.
Thời Walpole làm Bộ trưởng đứng đầu Nội các, lại không biết tiếng
Đức, thành thử vua tôi chỉ trao đổi với nhau bằng tiếng La Tinh, như thế ông
Bộ trưởng đứng đầu Nội các mặc nhiên trở thành Thủ tướng Chính phủ. Năm
1742, khi không được Hạ nghị viện tín nhiệm, ông Wapole từ chức và năm
1782 tương tự như vậy, ông Lord Nord cũng không được Hạ nghị viện tín

nhiệm và phải từ chức, nhưng sự từ chức này đã kéo theo cả Nội các từ chức.
Thủ tục trách nhiệm tập thể của Nội các dần dần được hình thành. Kể từ thời
gian này Nội các tượng trưng cho hoạt động tập thể và liên đới chịu trách
nhiệm về cả chính trị và hành chính. Nếu Hạ nghị viện bất tín nhiệm một
nhân viên của Nội các hay chính thức điều khiển việc nước có nghĩa là Hạ
nghị viện bất tín nhiệm toàn bộ Nội các. Ý niệm trách nhiệm chung được coi
như là một bảo đảm chống lại sự lạm dụng quyền lực của Nhà vua. Nếu như
các vị Bộ trưởng xung đột với nhau, Nhà vua sẽ tìm các cố vấn khác. Trách
nhiệm chung là biện pháp để duy trì sự duy nhất và sức mạnh của đảng.
Những tiến triển kể trên đã dẫn đến thủ tục trách nhiệm của Nội các Chính
phủ hình thành. Nội các phải được Hạ nghị viện tín nhiệm, hay phải từ chức,
trừ trường hợp giải tán Hạ nghị viện và thiết lập các cuộc tuyển cử mới.
Mặc dù ở chính thể này Quốc hội thường có cơ cấu hai viện, nhưng về
cơ bản Hạ viện có quyền quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc
hội. Lúc đầu, quyền cai trị đất nước thuộc về Nhà vua thông qua Đại hội đồng
Hoàng gia, tiền thân của Thượng viện bây giờ. Nhưng ngày nay, hầu hết các
thành viên Thượng viện là các công hầu thế tập truyền ngôi. Với sự phát triển

11


của dân chủ, Thượng viện và Nhà vua, không ai có thể dám chống lại ý chí
của Hạ viện. Thượng viện còn tồn tại được cho đến hiện nay cũng là do
truyền thống của người Anh, người Anh bao giờ cũng muốn giữ những định
chế cổ truyền, nếu vẫn còn thì có thể được dùng vào một việc gì đó hữu ích
sau này. Sự hiện diện của Thượng viện cổ truyền minh chứng một nét độc
nhất vô nhị của nền dân chủ tư sản Anh quốc khác với của các nhà nước
phương Tây khác như: Pháp, Đức… Ngoài chức năng lập pháp cùng với Hạ
viện, Thượng viện Anh quốc còn có chức năng tư pháp. Thượng nghị sỹ có
chuyên môn là 9 vị Công hầu và Chủ tịch Thượng viện. Trước năm 1911, mỗi

viện Quốc hội đều có quyền phủ quyết đối với dự luật đã được Hạ viện thông
qua. Nhưng, bằng đạo luật về nghị viện được ban hành năm 1911 có hai thay
đổi lớn làm cho Thượng viện không còn quyền năng như Hạ viện đó là:
- Mọi dự luật về tài chính - ngân sách đã được Hạ viện thông qua được
gửi sang Thượng viện ít nhất 01 tháng trước ngày bế mạc khoá họp đều trở
thành luật, bất chấp Thượng viện có thông qua hay không. Vì vậy, vấn đề tài
chính - ngân sách dần thuộc thẩm quyền của Hạ nghị viện;
- Bất cứ một dự luật nào khác, trừ dự luật tư (private), nếu được Hạ
viện thông qua 3 khoá họp liên tiếp và chuyển tới Thượng viện ít nhất 01
tháng trước khi khoá họp thứ 3 kết thúc, đương nhiên sẽ trở thành luật, cho dù
Thượng viện ở khoá họp nào cũng bác bỏ.
Những điều trên có nghĩa là quyền phủ quyết của Thượng viện qua lần
cải cách Quốc hội năm 1911 chỉ còn là quyền trì hoãn.
Sau mỗi một cuộc tuyển cử, tân Quốc hội nhóm họp, các chính đảng tổ
chức các cơ cấu của Hạ viện. Nữ hoàng bổ nhiệm lãnh tụ đảng chiếm đa số
làm Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng bắt tay vào việc bổ nhiệm các cộng sự

12


của mình vào các chân trong Chính phủ. Thủ tướng sẽ bổ nhiệm 17 đến 24 Bộ
trưởng vào một nhóm thân cận, chuyên việc hoạch định ra các chính sách của
Chính phủ gọi là Nội các. Nội các là chính phủ của nước Anh là trung tâm
của toàn thể nước Anh, nên nhiều người đã định danh Nhà nước Anh là
“chính thể Nội Các” [9, tr 411]. Nội các là một thiết chế không được Hiến
pháp quy định nhưng lại trở thành một thiết chế trung tâm của bộ máy Nhà
nước Anh vì vậy nói Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện chính
là Nội các phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện.
Nội các Anh quốc có nhiệm vụ:
- Quyết định chính sách để trình lên Quốc hội;

- Chỉ huy tối cao mọi hành vi của Hành pháp theo chính sách đã được
Quốc hội chấp thuận;
- Phối hợp, điều hành hoạt động của các Bộ;
- Dự thảo các dự luật cho Quốc hội thảo luận qua…
Không giống như Nội các của Pháp, Nội các của Anh quốc không phải
là một nhóm họp bao gồm tất cả các Bộ trưởng. Nó là một khối thống nhất
một số các Bộ trưởng quan trọng trong Chính phủ Anh quốc. Mỗi một Bộ
trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp với Hạ nghị viện về công tác hành pháp
thường nhật thuộc phần trách nhiệm của mình, chính Bộ trưởng phải đứng lên
tại Hạ nghị viện để giải thích, biện hộ và trả lời các câu hỏi của Nghị sỹ. Tất
nhiên, trong thực tế hầu hết các công việc thi hành của Bộ đều do các công
chức đảm nhiệm, nhưng không phải công chức này mà chính Bộ trưởng phải
chịu trách nhiệm về các sơ xuất, lỗi phạm phải của công chức dưới quyền.
Nếu không thoả đáng các dân biểu sẽ có quyền đòi hỏi Bộ trưởng từ chức.
Thông thường một Bộ trưởng bị công kích tức là cả Nội các bị chỉ trích. Tuy
rằng, mỗi Bộ trưởng có trách nhiệm trực tiếp với Hạ nghị viện về sự điều
hành của Bộ nhưng về vấn đề chính sách tổng quát, toàn thể Nội các đều phải

13


chịu trách nhiệm như nhau, có thể vẫn đứng vững hoặc bị lật đổ. Mỗi nhân
viên Nội các bị mặc nhiên coi như đã chấp nhận chính sách của người đồng
sự, nhất là với Thủ tướng thì chỉ còn một cách là từ chức.
Hiến pháp Anh hầu như cũng không có những quy định riêng nói về vị
trí vai trò của Thủ tướng Chính phủ cũng như các Bộ trưởng khác. Trên thực
tế Thủ tướng tập trung ba chức vụ vào tay mình đó là:
- Thủ tướng là lãnh tụ của đảng chiếm đa số ghế ở Hạ viện.
- Thủ tướng là lãnh tụ tối cao của Hạ viện. Từ năm 1942, Thủ tướng đã
uỷ quyền công việc này cho một vị Bộ trưởng nhưng các việc quan trọng vẫn

do Thủ tướng quyết định.
- Thủ tướng là người Chủ tịch Nội các, là người phối hợp các chính
sách của các vị Bộ trưởng trong Nội các.
Thủ tướng được quyền bổ nhiệm các chức vụ Bộ trưởng trong Chính
phủ và tuỳ ý thuyên chuyển họ từ chức vụ này sang chức vụ khác. Thủ tướng
có thể cách chức Bộ trưởng nếu cho là cần thiết. Thủ tướng nắm quyền quyết
định khi nào có thể thỉnh cầu Nữ hoàng giải tán Quốc hội. Khi Thủ tướng chết
hay từ chức, thậm chí chỉ là ốm thì toàn thể Chính phủ phải từ chức theo. Thủ
tướng còn có quyền chấp nhận những quan chức cao cấp dưới cấp Bộ trưởng
– các Tổng thư ký của các Bộ. Các Bộ trưởng phải có trách nhiệm tham khảo
ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về các định hướng phát triển của Bộ mình. Thủ
tướng phải là người phân xử các tranh chấp giữa các Bộ và điều khiển hoạt
động của Nội các bằng nghị trình của Nội các. Thủ tướng là trung tâm để toàn
thể Hạ viện chú ý, là người quyết định tối hậu các công việc của Hạ viện. Thủ
tướng có trách nhiệm phải giải trình các chất vấn và tuyên bố các chính sách
tổng quát. Thủ tướng là hiện thân của Nội các và là thủ lĩnh đảng cầm quyền,
là mục tiêu công kích không ngừng của phe đối lập. Thủ tướng cuối cùng là
người thay mặt cho đảng cầm quyền chịu trách nhiệm trước Hạ viện.

14


Cùng với sự giảm dần quyền lực của Nhà vua, mối quan hệ giữa hai cơ
quan hành pháp và lập pháp cũng có sự thay đổi nhất định. Lúc đầu nghị sỹ
không được hưởng chế độ bất khả xâm phạm, có thể bị Chính phủ truy tố nên
khó độc lập. Nghị trình của Quốc hội có thể do Vua và Chính phủ định đoạt.
Mọi cuộc thảo luận của Quốc hội đều được giữ kín nên không gây ảnh hưởng
tới dư luận hoặc chịu sự tác động của dư luận. Sau đó Quốc hội có thể họp
ngoài ý muốn của Nhà vua và Chính phủ nhờ có chế độ khoá họp ít nhất mỗi
năm một kỳ. Việc tổ chức các cuộc thảo luận do Quốc hội quy định và Quốc

hội có quyền tự soạn thảo nội quy bầu cử văn phong, ấn định nghị trình. Các
kỳ họp của Quốc hội đều được truyền qua đài phát thanh và truyền hình. Mọi
sự bàn bạc, thảo luận của Quốc hội đều được đăng trên công báo. Nghị sỹ
được hưởng một chế độ đặc miễn khá đầy đủ như nghị sỹ không thể bị truy tố
về hình sự, về dân sự hay về phương diện chính trị có nghĩa là không thể bị
giải nhiệm vì những hành vi đã làm trong khi thừa hành nhiệm vụ. Chế độ này
đảm bảo cho nghị sỹ có thể phát biểu hoàn toàn tự do trong hội nghị. Ngoài ra
nghị sỹ còn được hưởng chế độ bất khả xâm phạm tức là không thể bị truy tố,
hay bị bỏ tù vì tất cả những hành vi không có quan hệ với nhiệm vụ của mình
nếu không có sự đồng ý của Quốc hội. Chế độ này nhằm bảo đảm cho các
nghị sỹ đối lập tránh được sự gây khó dễ hoặc khống chế của Chính phủ. Để
bảo đảm sự độc lập cũng như quyền hành của mình trước Chính phủ, Nghị
viện thành lập các uỷ ban tạm thời và uỷ ban thường xuyên, ấn định số lượng
và thời gian phát biểu của nghị sỹ trước Quốc hội…Ngoài ra Nhà nước còn
quy định chế độ lương bổng và phụ cấp cho các nghị sỹ để đảm bảo cho người nghèo cũng có thể đảm trách chức vụ dân biểu và để giúp các nghị sỹ giữ
được nhân phẩm trước sự cám dỗ của vật chất, mang lại uy thế và thanh danh
cho Quốc hội.

15


Trong cuộc đấu tranh với Hạ viện, Chính phủ đã không hoàn toàn bị
khống chế. Bằng những yêu cầu từ chức Chính phủ có thể phản bác lại lệnh
của Nhà vua về việc giải tán Nghị viện và tiến hành bầu cử mới. Nếu thắng
lợi trong các cuộc bầu cử Chính phủ sẽ ở lại giữ quyền lực còn ngược lại nó
sẽ nhường chỗ cho các đối thủ của mình. Hệ thống này không phải được
khẳng định ngay tức khắc. Khi trị vì vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 Vua
George III đã toan phản đối song không thành công. Vào năm 1782 lần đầu
tiên trong lịch sử không phải riêng một Bộ trưởng nào đó mà là cả một Chính
phủ đã tuyên bố từ chức. Nghị viện đã buộc tội cả Chính phủ trong việc thất

bại với Mỹ.
Việc giải tán Nghị viện đầu tiên được tiến hành theo quyền lợi của Nội
các xảy ra vào năm 1784 dưới thời Peter. Peter đã đánh giá đúng tình hình và
đã chiến thắng trong bầu cử. Sau lần đó vào các năm 1807 và 1831 Chính phủ
đã tiến hành giải tán Nghị viện và đều chiến thắng[17, tr 213].
Việc hình thành nên địa vị của Chính phủ như hiện nay là chế định
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội còn trải qua một thời gian
tương đối dài, đó chính là mối quan hệ giữa Chính phủ - hành pháp với Quốc
hội – lập pháp và việc chấp nhận các chính sách của Chính phủ quyết định.
Việc chấp nhận chính sách cũng đồng thời hình thành dần dần trên cùng một
cấp độ và cùng một lúc với việc thành lập ra Chính phủ. Năm 1946, ông
Herbert Morrison - cựu Phó thủ tướng Anh đã tuyên bố: “Các ông đã chấp
nhận chúng tôi thì cũng phải chấp nhận luôn cả chính sách của chúng tôi. Các
ông không thể chỉ lựa chọn chính sách của chúng tôi mà lại không có chúng
tôi, không chỉ lấy một cái này mà lại bỏ cả các kia kèm theo được. Một là
nhận thì nhận cả luôn, hai là bỏ thì bỏ cả luôn”. Vì chính ông cũng tự nhận
thấy trách nhiệm cai trị thường xuyên của Chính phủ đối với đất nước mà

16


không phải là Quốc hội. Herbert Morrison cho rằng “Chính phủ phải chịu
trách nhiệm…”, công việc của Quốc hội là kiểm soát Chính phủ, vì Quốc hội
không phải là cơ quan được tổ chức ra để coi việc cai trị thường xuyên. Chế
định chịu trách nhiệm này được hình thành như vậy trong lịch sử Anh quốc
mà không bằng một đạo luật nào của Anh quốc ghi nhận. Mãi về sau này chế
định chịu trách nhiệm của Chính phủ mới được Hiến pháp của nhiều nước ghi
nhận và chính nó trở thành một nguyên tắc quan trọng bậc nhất của mô hình
chính thể đại nghị kể cả của các nền cộng hoà và của quân chủ lập hiến.
Tóm lại, chính thể quân chủ đại nghị mà cụ thể của Anh quốc là một

khuôn mẫu cho nhiều hình thức tổ chức nhà nước tư bản hiện đại. Mặc dù còn
mang hình dáng của chế độ quân chủ nhưng Nhà vua hoặc Nữ hoàng chỉ
mang nặng tính hình thức, là hành pháp tượng trưng chứ không phải hình thức
thực quyền. Cho nên mọi biểu hiện của mô hình tổ chức này đều mang những
dấu ấn của chế độ chính trị dân chủ tư sản. Quốc hội lập pháp được cơ cấu
thành hai viện là Thượng viện và Hạ viện. Thượng viện là viện quý tộc có
trách nhiệm đại diện quyền lợi cho giai cấp phong kiến đã lỗi thời không có
thực quyền, về nguyên tắc chỉ có quyền trì hoãn các quyết định của Hạ viện –
viện dân biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra. Chính phủ được thành lập dựa trên
cơ sở của lập pháp và phải chịu trách nhiệm trước lập pháp (Hạ nghị viện).
Mô hình tổ chức của Nhà nước quân chủ đại nghị Anh quốc là mô hình cổ
điển dân chủ cho các nhà nước tư bản sau này tuân theo.
1.2. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện là một đặc
điểm của chính thể đại nghị
Việc thành lập Chính phủ dựa trên cơ sở Nghị viện và Chính phủ phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện là đặc điểm của chính thể đại nghị. Ở chính
thể này Chính phủ được thành lập trên cơ sở Nghị viện và chỉ hoạt động khi

17


còn sự tín nhiệm của Nghị viện. Khi không còn tín nhiệm, không còn được đa
số nghị sỹ ủng hộ thì Chính phủ phải từ chức và thay bằng Chính phủ mới.
Trong các hoạt động của Chính phủ, ngoài những biện pháp chất vấn hay điều
tra, Quốc hội còn có thể áp dụng một biện pháp quyết liệt hơn đó là khuyến
cáo nguyên thủ quốc gia giải nhiệm một phần hay toàn thể Nội các. Trách
nhiệm của Chính phủ bao gồm trách nhiệm của từng thành viên của Chính
phủ là một loại trách nhiệm đặc biệt. Nó khác với trách nhiệm hình sự và dân
sự của công dân. Các thành viên của Chính phủ khi phạm lỗi dù không phải
chịu trách nhiệm hình sự hay dân sự nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm trước

Nghị viện và người ta gọi đây là trách nhiệm chính trị của Chính phủ cũng
như toàn bộ các thành viên của Chính phủ [6]. Một Bộ trưởng bị Nghị viện
mất tín nhiệm cũng đồng nghĩa với cả Nội các bị giải tán. Đây được gọi là
trách nhiệm liên đới và gốc tích của chế độ trách nhiệm này khai sinh ở Anh
quốc.
Khác với trách nhiệm hình sự, trách nhiệm chính trị của hành pháp
trước lập pháp không mang tính tội lỗi, trừng phạt mà chỉ là hậu quả của sự
bất hoà giữa lập pháp và hành pháp. Sự bất hoà này là căn bản của trách
nhiệm chính trị và hậu quả của nó là sự mất quyền. Trách nhiệm chính trị là
một lối tháo gỡ bế tắc chính trị khi có sự bất hoà về chính sách giữa lập pháp
và hành pháp.
Việc lật đổ Chính phủ có thể diễn ra theo hai cách đó là Chính phủ đặt
vấn đề tín nhiệm trước Nghị viện và Quốc hội ra quyết định khiển trách Chính
phủ. Trường hợp thứ nhất, Chính phủ cảm thấy không còn được sự tín nhiệm
của Quốc hội, vì vậy tự nêu vấn đề tín nhiệm để Quốc hội xem xét Chính phủ
còn hay hay không còn tín nhiệm nữa. Trường hợp thứ hai, Chính phủ không
tự biết mình, Quốc hội buộc phải nêu vấn đề bất tín nhiệm bằng nghị quyết
khiển trách Chính phủ. Khi nghị quyết khiển trách được đa số nghị sỹ tuyệt

18


đối thông qua, Chính phủ đương nhiên phải từ chức. Lý do của việc Chính
phủ bất tín nhiệm có rất nhiều, trước hết là kết quả hoạt động của Chính phủ
không còn được Quốc hội chấp thuận, sau đó là những dự án mà Chính phủ
trình Quốc hội nhưng không được Quốc hội thông qua, nhất là về các dự án
ngân sách. Có khi Quốc hội bác bỏ dự án ngân sách do Chính phủ đệ trình
được coi như là sự bất tín nhiệm bởi vì tất cả mọi chương trình hành động,
mọi kế hoạch, mọi chính sách quốc gia đều được phác hoạ trong dự án ngân
sách. Bác bỏ dự án ngân sách do Chính phủ đệ trình là bác bỏ chính sách và

đường lối của Chính phủ và như vậy có nghĩa là bất tín nhiệm Chính phủ. Bác
bỏ một dự án luật cũng là một nguyên nhân mất tín nhiệm của Chính phủ.
Ngoài việc kết quả hoạt động của Chính phủ không được Quốc hội
chấp thuận, và các dự án luật và chính sách bị bác bỏ thì việc Quốc hội không
chấp nhận chương trình hoạt động của Chính phủ cũng là lý do buộc Chính
phủ phải từ chức. Hiến pháp 1958 của Pháp quy định: Khi Quốc hội không
chấp thuận chương trình tổng quát về chính sách do Chính phủ đệ trình, Thủ
tướng phải đệ đơn xin Tổng thống cho Chính phủ từ chức. Hay ví dụ ở Nhật
Bản về vấn đề này báo AFP (Tokio 26/11/1993) đưa tin: “Ngày 26 tháng 11
Thượng nghị viện đã bắt đầu thảo luận các dự án luật cải cách nhằm làm trong
sạch nền chính trị của Nhật Bản khi tác giải của dự án này là Thủ tướng
Morihiro Hosskawa đã đạt tới đỉnh cao của sự được lòng dân. Các dự án này
đã được Hạ viện thông qua sau khi sự chống đối của đảng Dân chủ tự do
(LDP) giảm xuống. Nhưng vẫn còn một dấu hỏi về việc chúng có trở thành
luật vào cuối năm theo thời hạn ấn định của Thủ tướng Hosskawa hay không.
Hosskawa tuyên bố rằng Quốc hội không thông qua ông sẽ từ chức”.
Tại các nước theo chế độ lưỡng viện, thường chỉ có Hạ viện có quyền
lật đổ Chính phủ (Cộng hoà Liên bang Đức, Áo, Anh, Nhật…). Sở dĩ các
nước này dành quyền cho Hạ nghị viện, vì chỉ Hạ nghị viện các nước trên mới

19


được trực tiếp nhân dân các nước bầu ra. Tuy nhiên, vẫn có một số nước quy
định cho cả hai viện (Thuỵ Điển, Italia…).
Sự bất tín nhiệm để lật đổ Chính phủ là một hình thức chế tài rất gay
gắt, biểu hiện sự mẫu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp, gây nên khủng hoảng
Hiến pháp (khủng hoảng chính trị) của đất nước. Cho nên, Hiến pháp tư sản
quy định những điều kiện để hạn chế đến mức tối thiểu việc áp dụng chế định
này. Bằng cách quy định sáng kiến đặt vấn đề tín nhiệm phải thu được số

lượng chữ ký ủng hộ của nghị sĩ tuỳ theo quy định của từng nước. Ví dụ ở
Pháp, Italia,… phải có ít nhất 1/10 tổng số Hạ nghị sĩ ký tên. Ở Nhật ít nhất là
50 Hại nghị sĩ. Từ khi đặt vấn đề bất tín nhiệm trước Quốc hội biểu quyết
thành quyết định chỉ diễn ra trong vòng thời gian hết sức ngắn, thường là 3
ngày kể từ khi có dự án đặt vấn đề bất tín nhiệm (Pháp, Cộng hoà Liên Bang
Đức, Italia…). Trong cùng một khoảng thời gian người đặt vấn đề bất tín
nhiệm không được đưa vấn đề ra lần thứ hai khi đã không được Quốc hội
chấp thuận. Ví dụ, Hiến pháp 1958 của Pháp quy định khi đã bị Quốc hội phủ
nhận thì tác giả của dự án bất tín nhiệm Chính phủ không được đưa vấn đề
này trở lại trong suốt thời gian tiến hành kỳ họp Quốc hội. Còn rất nhiều
những hạn chế lẫn nhau tuỳ theo quy định của mỗi nước. Ví dụ, ở Cộng hoà
Liên bang Đức, Hạ nghị viện chỉ có thể bất tín nhiệm Chính phủ sau khi tìm
được Thủ tướng mới.
Kỹ thuật giải nhiệm Chính phủ còn được kiềm chế bằng kỹ thuẫt giải
tán Quốc hội. Căn cứ vào lý thuyết thuần tuý của chế độ đại nghị, các luật gia
cho rằng nếu chỉ cho Quốc hội có quyền lật đổ Chính phủ mà không có biện
pháp nào hạn chế chế tài đó thì sẽ phát sinh ra một thứ độc tài đó là độc tài
Quốc hội. Quốc hội sẽ đàn áp hành pháp mà không bị đàn áp trở lại. Bởi thế,
trong lý thuyết cổ điển có quy định, mà ngày nay vẫn còn nhiều nước áp
dụng, đó là việc hiến pháp quy định việc giải tán Quốc hội. Đa phần các nước

20


quy định Quốc hội bị nguyên thủ quốc gia giải tán theo đề nghị của Chính phủ
(Thủ tướng). Nếu Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ bị thiểu số trong Nghị
viện, tức là bị bất tín nhiệm, thì Thủ tướng có quyền yêu cầu nguyên thủ quốc
gia gải tán Nghị viện. Tổng thống cũng có thể nghe theo lời thỉnh cầu của Thủ
tướng hoặc cũng có thể đưa ra một phưpng án khác là lựa chọn một Chính
phủ mới. Nếu trong vòng khoảng thời gian ngắn nhất định, Nghị viện không

lựa chọn được một Chính phủ mới thì buộc Tổng thống phải gián tán Nghị
viện. Ở Cộng hoà Italia, Tổng thống có quyền giải tán Thượng viện lẫn Hạ
viện theo yêu cầu của Thủ tướng, nhưng không được sử dụng quyền hành
trong vòng 6 tháng sau cùng của kỳ nhiệm Tổng thống. Thường khi Chính
phủ bị lật đổ kéo theo sự giải tán của Nghị viện.
1.3. Cơ sở của việc chịu trách nhiệm của hành pháp
Thông thường trong bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia được tổ chức
thành ba bộ phận tương ứng với ba chức năng cần có của một quốc gia: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Mục đích của việc phân chia quyền lực nhà nước
không chỉ nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực trở thành chuyên chế của bất kể
bộ phận nào nắm giữ quyền lực nhà nước, mà trước hết còn có tác dụng gia
tăng hiệu quả của chính quyền nhà nước. Một cơ quan hay bộ phận đảm
nhiệm một chức năng nói trên cần có những đòi hỏi riêng và những yêu cầu
riêng. Những đòi hỏi và những yêu cầu được xuất phát từ chính chức năng
nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực. Theo quy định của Hiến pháp nhiều nước
trên thế giới, hành pháp là quyền điều hành và quản lý quốc gia, không những
có trách nhiệm tổ chức và quản lý quốc gia theo các văn bản luật đã được lập
pháp ban hành mà còn là cơ sở cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quyền hành pháp được coi là quyền thiết yếu nhằm bảo vệ đất nước trước sự
tấn công của ngoại bang, quản lý theo pháp luật một cách công bằng, bảo vệ

21


tài sản và quyền tự do của công dân nên nhánh quyền lực này khác với các
nhánh quyền lực khác là phải có uy quyền. Nhưng cũng chính từ đặc điểm
này mà hành pháp phải quyết đoán, phải nhanh nhạy và phải dám chịu trách
nhiệm. Tính quyết đoán và dám chịu trách nhiệm là một bản tính cần có của
hành pháp [10, tr 134]. Tính chịu trách nhiệm thể hiện ở chỗ dám gánh vác
hậu quả trước mọi thất bại có thể xảy ra trong quá trình điều hành đất nước,

dám từ chức, dám bồi thường thiệt hại, dám xin lỗi trước công chúng khi công
việc đã quyết định bị thất bại [11,tr 368].
1.4. Những đảm bảo cho cơ sở chịu trách nhiệm của hành pháp
Bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia được tổ chức thành ba bộ phận
tương ứng với ba chức năng cần có của một quốc gia: Lập pháp – Quốc hội,
Hành pháp – chính phủ, Tư pháp – Toà án nhưng Chính phủ mới chính là
trung tâm của bộ máy nhà nước. Tất cả ba ngành quyền lực đều phải chịu
trách nhiệm về công việc của mình nhưng Chính phủ phải chịu trách nhiệm là
quan trọng nhất bởi sự chịu trách nhiệm của Chính phủ chính là điều kiện tiên
quyết của chế độ dân chủ. Tiêu điểm của việc Hiến pháp hạn chế quyền lực
nhà nước là Chính phủ. Vì vậy, nói chính quyền phải chịu giới hạn một cách
khách quan như là một quy luật thì tức là Chính phủ phải chịu trách nhiệm
chứ không phải là Chính phủ vô trách nhiệm. Chính phủ - hành pháp thường
được định nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Hành chính nhà
nước cao nhất không đơn giản là chấp hành một cách đơn thuần như là việc
thụ động chỉ tổ chức thực hiện hay trực tiếp thực hiện các văn bản luật của
Quốc hội – lập pháp mà còn can thiệp rất sâu vào lập pháp. Trung tâm hoạt
động của nhà nước của mỗi quốc gia là hoạt động của hành pháp. Đây chính
là bộ máy nhà nước nguyên nghĩa. Chủ quyền nhà nước, tức là quyền lực nhà
nước của mọi nhà nước dân chủ đều xuất phát từ nhân dân. Cách thức tổ chức

22


quyền lực nhà nước khác nhau phụ thuộc vào cách thức nhân dân trao quyền
lực nhà nước thuộc về mình cho những người đại diện thay mặt cho nhân dân
thực hiện quyền hành pháp. Ở chế độ đại nghị qua bầu cử, người dân uỷ
quyền cho một Quốc hội được bầu ra một Chính phủ để điều hành đất nước
và chính phủ này phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Những biện pháp bảo
đảm cho hành pháp phải chịu trách nhiệm đó là:

Thứ nhất: để bảo đảm cho vai trò chịu trách nhiệm quan trọng của
hành pháp, các nước tư bản phát triển đều gắn vai trò của người đứng đầu
hành pháp với thủ lĩnh của đảng cầm quyền. Thủ lĩnh của đảng cầm quyền
luôn luôn là người đứng đầu hành pháp. Lịch sử phát triển phát triển chính chị
rất khác với những nhận thức của các triết gia chính trị của những năm đầu
cách mạng tư sản. Đó là sự xuất hiện của các đảng phái chính trị và ảnh
hưởng của nó đến đời sống chính trị hiện nay. Mọi sự thành bại trong đời
sống xã hội hiện nay của mỗi quốc gia đều gắn liền với trách nhiệm của các
đảng phái chính trị.
Đảng phái chính trị là một thiết chế sinh ra trong cách mạng tư sản và
dần dần có được chỗ đứng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Đảng
cầm quyền thường phải được gắn liền với Chính phủ – hành pháp, nên khi nói
sự chịu trách nhiệm trước Quốc hội ở chính thể đại nghị, hay khi nói đến trách
nhiệm của hành pháp trực tiếp đối với nhân dân là nói đến trách nhiệm của
đảng cầm quyền đối với sự phát triển hay tàn lụi của quốc gia. Thuật ngữ
trách nhiệm ở đây được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là sự hạn chế
quyền lực nhà nước và nghĩa thứ hai là đảng cầm quyền thông qua Chính phủ
phải có trách nhiệm đối với sự phát triển và tàn lụi của một quốc gia trong
thời gian họ nắm quyền hành pháp. Tất cả các ngành quyền lực khác đều phải
chịu trách nhiệm nhưng hành pháp phải chịu trách nhiệm chính, trực tiếp bởi
hành pháp chính là trung tâm của bộ máy nhà nước mà có ảnh hưởng sâu rộng

23


×