Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.76 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI MẠNH GIANG

TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
THỜI KỲ CẬN ĐẠI

Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HỒI

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Mạnh Giang


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành sau quả trình nỗ lực học tập bản thân cũng
như nhờ sự giúp đỡ chỉ bảo tận tâm của các quý thầy cô tại Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nhân dịp này cho phép em được bày tỏ lòng cảm ơn
chân thành tới:
Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các thầy cô giáo, cán bộ phòng Sau đại học thuộc khoa Luật, tập thể
lớp cao học lý luận khóa 18, bạn bè thân hữu.
Đặc biệt, em rất biết ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi đã tận tâm giúp đỡ,
chỉ bảo để em có thể hoàn thành luận văn này.
Hà Nôi, tháng 3 năm 2015

Bùi Mạnh Giang


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TỪ THỜI CỔ
ĐẠI ĐẾN THỜI CẬN ĐẠI .......................................................................... 6
1.1. Khái niệm tư tưởng nhà nước pháp quyền ............................................ 6
1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trước thời kỳ cận đại .......................... 8

1.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông trước thời kỳ
cận đại..................................................................................................... 8
1.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây trước thời kỳ cận đại...12
1.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại ở một số nước trên thế
giới ............................................................................................................ 17
1.3.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Anh .......................................... 18
1.3.2.Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Pháp ......................................... 23
1.3.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Mỹ ........................................... 30
1.3.4. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Đức ......................................... 39
2.4. Những giá trị của tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại. ..... 48
CHƯƠNG 2: SỰ ÁP DỤNG TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
MỘT SỐ NƯỚC THỜI KỲ CẬN ĐẠI ..................................................... 57
2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền ........................................................ 57
2.2. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Anh .......................... 67
2.2. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Mỹ ........................... 73
2.3. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Pháp ......................... 82
2.4. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Đức .......................... 86
2.5. Một số giải pháp đối với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay .................................................................... 89


2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của hệ thống pháp
luật trong nhà nước pháp quyền và đảm bảo vị trí tối thượng của pháp
luật trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội ................................... 90
2.5.2. Đổi mới, hoàn thiện sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ................................ 91
2.5.3. Chú trọng tới việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân ................................................................................................ 95
2.5.4. Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ................. 96
2.5.5. Xây dựng và củng cố xã hội công dân .......................................... 97

2.5.6. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân......................................................................................... 98
KẾT LUẬN ............................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 104


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch
sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong
quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật cùng với Hiến pháp, các đạo luật tổ chức Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về
chính quyền địa phương đã được xây dựng và ban hành trên cơ sở các bản
Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến
pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho
tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói,
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch
sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm
1946 ra đời . Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và có nhiều giai đoạn
phát triển với những nét riêng nhất định phù hợp với mỗi giai đoạn đó. Ngày
nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầm phát triển mới với nhiều đòi
hỏi và nhu cầu cải cách mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là
xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội

có đặc điểm trên, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan đó còn xuất
phát từ đặc điểm của thời đại và xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh
1


tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải
cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có năng lực
để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành
dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
việc tìm hiểu về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, và sự áp dụng tư
tưởng đó vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước
trên thế giới thời kỳ cận đại để trên cơ sở đó tìm ra những kinh nghiệm có thể
tham khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đó cũng là lý do của việc chọn và nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Nhà nước
pháp quyền thời kỳ cận đại”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nhà nước pháp quyền đã và đang được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện và góc độ tiếp cận khác nhau như:
Tập trung vào các vấn đề lý luận chung về nhà nước pháp quyền gồm
có các công trình như “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của GS.TS Nguyễn
Đăng Dung (2004, Nxb. Đai học quốc gia), “Quốc hội Việt Nam trong Nhà
nước pháp quyền” (2007, Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội” do GS.TS Nguyễn
Đăng Dung Chủ biên, “Xây dựng nhà nước pháp quyền – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (1996, Nxb. Chính trị Quốc gia) của Nguyễn Văn Niên,
“Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2009, Nxb. Từ
điển Bách Khoa) do GS.TS Đào Trí Úc Chủ biên, “Tư tưởng phân chia quyền

lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước” (2005, Nxb.
Tư pháp) của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong bối cảnh văn hóa Việt Nam” (2006, Nxb Tư pháp) của Bùi Ngọc Sơn,
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng” (2006, Nxb
Tư pháp) của Nguyễn Văn Thảo, “Nhà nước pháp quyền XNCN của dân, do
dân, vì dân - lý luận và thực tiễn” (2008, Nxb. Chính trị Quốc gia) của
2


Nguyễn Duy Quý - Nguyễn Tất Viễn, “Xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (2006, Nxb Chính trị Quốc gia), của
Nguyễn Văn Yểu - Lê Hữu Nghĩa, “Trung Quốc với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN” do Đỗ Tiến Sâm Chủ biên (2008, Nxb Khoa học xã hội),
“Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên bang Nga” của Lê Cảm
(1997, Nxb Sáng tạo thuộc Hội Khoa học - kỹ thuật Việt Nam tại LB Nga,
Matxcơva), “Triết học của Lão Tử” (2007, Nxb Tư pháp), “Triết lý chính trị
Trung Hoa cổ đại và vấn đề nhà nước pháp quyền: suy ngẫm, tham chiếu và
gợi mở” (2004, Nxb Tư pháp), “Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước
pháp quyền” (2005, Nxb. Tư pháp) của Bùi Ngọc Sơn, “Thể chế tư pháp
trong nhà nước pháp quyền” (2004, Nxb Tư pháp do GS.TS Nguyễn Đăng
Dung Chủ biên, “Học thuyết về nhà nước pháp quyền: một số vấn đề trong
lịch sử hình thành và phát triển” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2002),
“Về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà nước pháp quyền” (Tạp
chí luật học số 2/2002) của GS.TS Lê Minh Tâm, GS. TS Hoàng Thị Kim
Quế với các bài viết như:“Học thuyết về nhà nước pháp quyền: một số vấn đề
trong lịch sử hình thành và phát triển” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8,
2001), “Nhà nước pháp quyền: các nguyên tắc cơ bản” (Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp 8/2001), “Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nhà
nước pháp quyền” (Tạp chí Khoa học: Kinh tế - Luật thuộc Đại học quốc gia
Hà Nội, số 2/2002), “Một số đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước

pháp quyền” (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2002)…
Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều có giới thiệu về tư tưởng nhà
nước pháp quyền để làm rõ những vấn đề liên quan đến nhà nước pháp quyền,
cũng như những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt là vấn đề đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh và việc thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước trên cơ sở
phân công và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên chưa
3


có công trình nào nghiên cứu tư tưởng nhà nước pháp quyền trong một giai
đoạn lịch sử như công trình này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại,
cũng như sự áp dụng tư tưởng đó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước của một số nước thời kỳ này để tìm ra những kinh nghiệm có thể tham
khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ tư tưởng nhà nước pháp quyền được thể hiện qua các
quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử mà chủ yếu trong là thời kỳ cận
đại ở một số nước.
- Xem xét sự áp dụng tư tưởng này trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ở một số nước thời kỳ cận đại để tìm ra những kinh nghiệm có
thể tham khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng nhà nước pháp quyền từ
thời cổ đại đến thời cận đại.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng tiêu biểu

về nhà nước pháp quyền trong quan điểm của các nhà tư tưởng tiêu biểu ở
một số nước thời kỳ cận đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử
4


dụng bao gồm: phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh, tổng hợp, hệ thống…
để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Làm sáng tỏ thêm tư tưởng nhà nước pháp quyền của các nhà tư
tưởng tiêu biểu thời kỳ cận đại.
- Trình bày cụ thể về sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ
cận đại ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạch định chính sách, pháp luật có
liên quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền nói chung và Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
báo cáo khoa học của luận văn gồm 2 chương:
Chương I: Tư tưởng nhà nước pháp quyền từ thời cổ đại đến thời
cận đại.
Chương II: Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở một số nước.

5



CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TỪ THỜI
CỔ ĐẠI ĐẾN THỜI CẬN ĐẠI
1.1. Khái niệm tư tưởng nhà nước pháp quyền
Theo Hán - Việt từ điển tư tưởng là “cái hiện tượng về ý thức, do kinh
nghiệm và tư lự mà phát sinh ra” [1, tr. 323].
Sách Từ điển Tiếng Việt giải thích thuật ngữ “tư tưởng” theo hai
nghĩa: “1/Sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ; 2/ Những quan điểm và ý nghĩ chung của
con người đối với hiện thực khách quan, tự nhiên và xã hội” [46, tr. 1757].
Marcel Preslot và Georges Lescuyer (Hai học giả người Pháp, tác giả
của sách Lịch sử tư tưởng chính trị, năm 1975) cho rằng “khái niệm tư tưởng
(idea) được xem như là một cơ sở tiên nghiệm cho việc khu biệt học thuyết và
lý thuyết. Chúng ta dùng từ này trong nghĩa phổ biến nhất “sự diễn tả trong
tinh thần con người về một hiện tượng xác định”, và ở đây “hiện tượng xác
định” ấy được coi là “hiện tượng chính trị”…; về mặt khoa học, tư tưởng
(idea), lý thuyết (theorie), học thuyết (doctrine) không phải là những từ ngang
nhau” [17, tr. 2].
Là sản phẩm tinh thần tồn tại cùng với con người, tư tưởng xuất hiện
một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức và phát triển. Đó là những quan niệm
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phản ánh các hiện tượng của
hiện thực khách quan, là ý thức về mục đích của quá trình nhận thức tiếp theo
cũng như trong cải tạo thế giới. Tư tưởng không chỉ là sự tổng hợp những tri
thức kinh nghiệm có trước trong các lĩnh vực mà còn là cơ sở tạo thành hệ
thống tri thức khám phá những nguyên tắc để giải thích hiện thực khách quan
trong quá trình tìm ra con đường giải quyết hợp lý các vấn đề đặt ra.
Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò
định hướng hoạt động, là mắt khâu tích cực, gián tiếp trong sự phát triển của
6



hiện thực, trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, của việc sáng
tạo ra cái mới. Là hình thức cao của nhận thức lý luận (V.I.Lenin), công cụ
của nhận thức và chỉ đạo hành động, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi
(cả hành vi của tư duy và hành vi bản năng) của con người.
Tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội, là đường hướng của đời sống xã hội
đồng thời đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển xã hội “Lao
động rót dầu vào cuộc sống, còn tư tưởng thắp sáng nó lên” (G.Blenlerse),
“tư tưởng làm nên sự vĩ đại của con người” (Pascal), những tư tưởng vĩ đại là
suối nguồn của dòng chảy lịch sử. Tính đặc thù của tư tưởng là thống nhất
hữu cơ giữa sự phản ánh hiện thực khách quan với việc xác lập các mục tiêu
cho hoạt động thực tiễn của con người, cho nên các tư tưởng có thể phản ánh
đúng đắn sai lạc hiện thực. Tư tưởng phù hợp với hiện thực khách quan là
những tri thức khách quan, cụ thể và toàn diện về hiện thực.
Do tính độc lập tương đối, trong nhiều trường hợp tư tưởng có khả
năng thoát ly sự ràng buộc trực tiếp của đời sống xã hội để phản ánh vượt
trước hiện thực. Những tư tưởng mang tính khoa học giá trị phổ quát, tư duy
chính trị có giá trị luôn tác động tích cực đến lịch sử và hoàn cảnh, có vai trò
quan trọng trong sự tiến hóa của nhân loại và dân tộc. Những tư tưởng phản
ánh đúng đắn, sâu sắc các quá trình thực tế, biểu hiện lợi ích của giai cấp tiến
bộ sẽ đẩy nhanh các quá trình biến đổi; góp phần tổ chức, động viên quần
chúng tiến lên phía trước, tạo lập cái mới, tiến bộ. Nhiều tư tưởng của các nhà
khoa học (đặc biệt là các nhà triết học, chính trị học) đã ra đời và ảnh hưởng
khá sâu sắc đến vận động và phát triển của xã hội.
Từ sự phân tích có thể hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền là tổng thể
các quan điểm của các nhà triết học, chính trị học trong các thời kỳ lịch sử
khác nhau về các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước tiến bộ, đề cao vai trò
của nhân dân, thừa nhận chủ quyền của nhân dân, về yêu cầu đối với hệ
thống pháp luật dân chủ, về vị trí, vai trò của pháp luật đối với nhà nước, đối
7



với xã hội và các biện pháp nhằm bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật
trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội.
1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trước thời kỳ cận đại
Theo quan điểm mác - xít, từ buổi đầu bình minh cho tới nay, lịch sử
loài người đã trải qua năm thời kì lớn, các thời kỳ này có thời gian tồn tại
khác nhau vậy nên mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc
điểm mà ở thời kỳ khác lại không có được.
Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài
nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều
phải trải qua.
Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm
trước công nguyên.
Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bắt đầu từ thế kỷ V
sau công nguyên đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh.
Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến 1917, là thời đại của chủ nghĩa
tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga.
Thời kỳ hiện đại là thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc
cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền xuất hiện từ thời cổ đại và liên tục phát
triển cho tới hiện nay.
1.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông trước thời kỳ
cận đại
Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp luật ở phương Đông trước thời
kỳ cổ và trung đại đã xuất hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền tập trung chủ

8



yếu ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại, được thể hiện trong các quan điểm của một
số nhà tư tưởng lớn trong thời kỳ này.
1.2.1.1. Mạnh Tử (372 – 289 TCN).
Mạnh Tử cho rằng, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời
phải hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà
cầm quyền vào nhân dân. Nhà cầm quyền nếu có đạo đức sẽ cảm hóa được
người dân. Giải pháp chính trị của Mạnh Tử có thể gọi là một nhà nước nhân
nghĩa. Nền chính trị nhân nghĩa yêu cầu nhà cầm quyền phải coi trọng dân.
Coi trọng dân là phải được lòng dân. Một nhà nước theo chủ thuyết nhân
chính là một nhà nước được lòng dân bằng đạo đức của nhà cầm quyền. Và
do được lòng dân như vậy, nhà nước nhân trị phải coi trọng dân, dựa vào sức
mạnh của dân. Nhà nước mà sử dụng tài sản của dân lãng phí gây nghèo đói
trong nhân dân thì nhân dân sẽ oán trách chính quyền. Khi đã làm cho dân no
đủ, nhà cầm quyền phải giáo hóa dân. Về tương quan giữa dưỡng dân và giáo
dân, Mạnh Tử cho rằng khi dân chưa được yên ổn về đời sống vật chất thì
chưa thể dạy dân được. Khi dân đã hằng sản rồi thì phải làm cho họ hằng tâm.
Nếu nhà cầm quyền không dạy dân để dân phạm tội rồi nhà cầm quyền chém
giết dân thì đó là lỗi của nhà cầm quyền. Chủ thuyết nhân trị như vậy hướng
đến một nhà nước do dân. Chủ thuyết nhân nghĩa của Mạnh Tử cũng đề nghị
chính quyền phải quan tâm đến đời sống nhân dân. Chủ thuyết này đã nảy
sinh tư tưởng về một chính quyền vì dân.“Nhà nước cầm quyền phải thực thi
điều nghĩa đối với người dân: phải coi dân làm trọng, lấy dân làm gốc, làm
cho dân đủ ăn đủ mặc, có đời sống vật chất đầy đủ sung túc, giáo hóa đạo
đức cho dân. Một nhà nước nhân nghĩa đã gợi mở những tư tưởng về một nhà
nước do dân và vì dân” [3, tr. 101].
1.2.1.2. Mặc Tử (479 - 381 TCN).
Tư tưởng chính trị của Mặc gia mang tính nhân bản cao, và đã tiềm ẩn
những quan điểm về bình đẳng và dân chủ. Kiêm ái là vì hạnh phúc chung
9



của mọi ngươi. Thuyêt kiêm ái muốn hướng tới một trật tự xã hội công bằng,
mọi người yêu thương nhau không phân biệt đẳng cấp hay bất cứ một lí do gì
và cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp, và xã hội đó không có những cuộc
chinh chiến giữa các nước với nhau. Mục đích của chính sách kiêm ái là vì
người dân, có ý nghĩa xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ
những lợi ích cho nhân dân. Nhân dân được đặt vào trung tâm của những
chính sách của nhà nước. Có thể nói rằng đó chính là những tư tưởng dân chủ
sơ khai.
1.2.1.2. Lão Tử (nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống vào thế kỉ IV TCN)
Ông nổi tiếng với thuyết vô vi về nhà nước và pháp luật. Những quan
điểm của Lão Tử về nhà nước vô vi có một mức độ trừu tượng hóa rất cao,
không đơn thuần chỉ là những tư tưởng chính trị - pháp lý mà đã được nâng
lên tầm triết học. Đây có thể là dấu hiệu của triết học pháp quyền phương
Đông. Lý thuyết vô vi của ông thực chất là muốn đặt vấn đề rằng nhà nước và
pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người, tự do của con người.
Đây là một tư tưởng rất gần với lý thuyết tự nhiên của triết học phương Tây.
Học thuyết pháp lý tự nhiên chủ trương cũng giống như lý thuyết vô vi của
Lão Tử rằng các đạo luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với sự tự nhiên
vốn có của con người, tôn trọng tự do của con người. Lý thuyết vô vi, cũng
như lý thuyết pháp lí tự nhiên có ý chống lại sự chuyên chế của nhà nước, nó
vạch ra những giới hạn là những sự tự nhiên của con người, tự do của con
người mà nhà nước và pháp luật của nhà nước phải tôn trọng, không được vi
phạm, và có những tác động phù hợp.
Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng
chính trị - pháp lý phương Tây có nội dung nhằm giới hạn sự lộng quyền của
nhà nước, sự can thiệp quá mức của quyền lực công vào khu vực tư nhân. Nhà
nước pháp quyền được chỉ ra nhiều dấu hiệu đặc trưng. Nhưng suy cho cùng,
thì những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền đều hướng đến mục
10



đích hạn chế sự lạm quyền của nhà nước, chống lại sự can thiệp quá mức của
quyền lực nhà nước và xã hội dân sự, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của
con người. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ
bảo đảm tự do của con người, không được can thiệp vào đời sống cá nhân của
con người. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng vô vi của Lão Tử. Lý thuyêt vô
vi của Lão Tử có sự gặp gỡ với học thuyết nhà nước pháp quyền. Nếu như có
tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông thì có lẽ đầu tiên phải kể
đến tư tưởng của Lão Tử [3, tr. 144 - 145].
Đối lập với thuyết đức trị của Khổng Tử là thuyết pháp trị của các học
giả phái pháp gia, sản sinh cùng thời với đạo Khổng Tử do Quản Trọng, Tử
Sản, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo đề xướng. Sau này Hàn Phi Tử
phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và quan điểm cai trị của phái này
là: pháp trị là phương pháp duy nhất dùng để cai trị. Vì vậy, học thuyết này
không thừa nhận Nho giáo. Theo thuyết pháp trị thì Vua trị nước phải có ba
yếu tố: pháp, thế, thuật. Nghĩa là: pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ của Vua là
khuôn mẫu của thiên hạ; nhằm trừng trị, răn đe, dân phải sợ, phải tuân thủ.
Vua phải có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối của mình. Vua phải có thuật
dùng người và chế độ thưởng phạt. Một khi Vua đã có đủ ba yếu tố pháp,
thế, thuật thì vua phải chuyên quyền, độc đoán, thẳng tay dùng nghiêm hình
phạt để cai trị. Quản Trọng và Tử Sản chủ trương dùng pháp luật làm công
cụ cơ bản để cai trị đất nước và đề ra nguyên tắc “pháp bất vị thân” [39, tr.
25], bất cứ ai đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật ban ra phải cẩn trọng và
ít thay đổi, pháp luật của Vua phải rành mạch về luật - hình - chính. Đây là
luận điểm của phái pháp trị chống lại phái đức trị là phái chủ trương “hình
phạt chỉ dành cho hạng thứ dân mà bậc trương phu không phải chịu hình
phạt” [2, tr.17]. Đến Hàn Phi Tử (280 - 233TCN) là người phát triển tư
tưởng pháp trị lên đỉnh cao, nội dung chủ yếu của tư tưởng này là lấy pháp
luật thay cho lễ làm công cụ trị nước, an dân. Theo Hàn Phi Tử, hình phạt

không trừ bậc đại phu “pháp luật không thể a dua người sang cũng như dây
11


mực không thể uốn theo gỗ cong (cho nên) trị tội thì không chừa các quan
lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường” [3, tr. 165]. Mô hình pháp
luật Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn đến các quốc gia phương Đông thời cổ
đại, trung đại, cận đại và cả đến ngày nay.
1.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây trước thời kỳ cận đại
1.2.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại
Những tư tưởng đề cập đến nhà nước mang tính chất nhà nước pháp
quyền trong thời kì cổ đại ở châu Âu thể hiện rõ nét trong các quan điểm của
các nhà tư tưởng tiêu biểu ở Hy Lạp và Lã Mã cổ đại. Tiêu biểu là các nhà tư
tưởng Solon, Pitagore, Heraclit, Socrate, Platon, Aristote, Ciceron.
- Solon (638 – 559 TCN)
Có thể coi ông là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên nêu lên ý
tưởng về nhà nước pháp quyền. Ông mong muốn xây dựng một nhà nước trên
cơ sở một nền dân chủ thông qua tuyển cử và sự hòa nhập giữa quyền lực nhà
nước với luật pháp. Các pháp lệnh do Solon vận động ban hành trong thời kỳ
ông cầm quyền đã hạn chế một phần quyền lợi của quý tộc, đem lại nhiều
quyền lợi cho nhân dân, chấm dứt việc biến nông dân thành nô lệ, thúc đẩy sự
phát triển của công thương nghiệp và làm cho tính chất dân chủ của Nhà nước
Althens được hoàn thiện thêm một bước. Lý tưởng chính trị của ông là nền
dân chủ tuyển cử ôn hòa, một chế độ mà lãnh đạo xã hội là những quý tộc và
những người giàu có, còn nhân dân thì chỉ có quyền chọn lựa và giám sát các
quan chức. Tuy nhiên cải cách của Solon vẫn thể hiện sự tiến bộ nhất định,
thể hiện mong muốn muốn xóa bỏ dần chế độ nô lệ, mở đầu cho việc xây
dựng một nền dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước và mong muốn
mang lại quyền lực cho nhân dân [3, tr. 202 - 203].
- Socrate (469 - 399 TCN)


12


Ông là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử tư tưởng
nhân loại. Ông được Hêghen sau này coi là “bước ngoặt lịch sử vĩ đại” trong
triết học Hy Lạp cổ đại. Ông không để lại tác phẩm nào vì ông chỉ thể hiện tư
tưởng của mình qua đối thoại, diễn thuyết. Tuy nhiên, những gì mà ông để lại
cho nhân loại là rất lớn lao, trong đó có tư tưởng về đạo đức, về nhà nước và
pháp luật. Bản thân không trực tiếp tham gia vào công việc nhà nước, nhưng
ông được đánh giá là “người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng chính trị châu Âu
đã hình thành quan điểm về quan hệ khế ước giữa nhà nước và công dân của
mình” [15, tr. 120]. Trước tình trạng nền dân chủ Athens cuối thế kỉ V (TCN)
lâm vào khủng hoảng, ông đã lên tiếng phản đối nền dân chủ Athens. Ông
khẳng định “quyền lực căn cứ không phải trên pháp luật, mà trên thói chuyên
quyền của người cầm quyền, quyền lực như vậy chống lại nhân dân” [41, tr.
175]. Tuy nhiên sự phản đối đó không phải là ông muốn dùng bạo lực để thay
thế nó bằng một hình thái chính trị khác, mà là ông muốn nhấn mạnh sự cần
thiết phải hoàn thiện nền dân chủ, ở đó có người cầm quyền xứng đáng, mang
lại hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra, ông còn thể hiện quan điểm lên án kịch
liệt đối với nền bạo chính độc đoán, dã man, phản tiến bộ.
Ông ủng hộ triệt để tư tưởng pháp chế khi cho rằng, việc tổ chức đời
sống nhà nước có đạo đức không thể thiếu luật pháp, cũng như không thể có
thứ luật pháp nào đứng bên ngoài nhà nước. Ủng hộ nguyên tắc tuân thủ pháp
luật, ông cho rằng: công lí nằm ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự
công minh và sự hợp pháp đều là một. Mỗi một công dân mới của nhà nước
đều phải tôn trọng các trật tự, quy định của nhà nước, đó là sự tuân thủ pháp
luật, và nếu công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ
vững mạnh. Vì thế, ông kêu gọi mỗi công dân hãy thể hiện sự trung thành
tuyệt đối của mình với nhà nước và luật pháp.

- Platon ( 427 – 347 TCN)
Ông là học trò của Socrate, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của
13


thời cổ đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của ông được trình bày chủ
yếu trong hai tác phẩm Nhà nước và Các luật. Ông cho rằng, phân công lao
động trong bộ máy nhà nước là cần thiết, trong đó hoạt động xét xử của toà án
là nhằm bảo vệ pháp luật và nêu luận điểm nổi tiếng: ở đâu mà luật không có
hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó thì ở đó, nhà nước sẽ sụp đổ
mau chóng. Còn ở dâu mà luật đứng trên nhà cầm quyền, họ chỉ là nô lệ của
luật thì ở đó có sự cứu thoái của nhà nước và tất cả các lợi ích mà chỉ có
thượng đế mới có thể ban phát cho các nhà nước. Theo đuổi mô hình nhà
nước lí tưởng, nhà nước của sự công bằng, ông cho rằng nhà nước xuất hiện
một cách tự nhiên, từ những nhu cầu của con người, trên cơ sở cùng hợp tác
giữa họ cùng hướng đến lợi ích cộng đồng. Nhà nước công bằng theo ông
phải được dựa trên chức phận xã hội, năng lực khác nhau của mỗi người.
- Aristote (384 - 322 TCN)
Ông là học trò của Platon và được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ
đại nhất của thời cổ đại. Ông cho rằng, có tồn tại pháp luật chung, tự nhiên,
khác với pháp luật riêng, cao hơn pháp luật riêng do nhà nước ban hành; đạo
đức phải phục vụ pháp luật; hành động công bằng là hành động theo pháp
luật. Ông cực lực lên án người cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp
lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực và cần phải phân quyền trong
tổ chức nhà nước. Những quan điểm nêu trên được ông trình bày trong tác
phẩm Đạo đức học và Thuật hùng biện.
- Ciceron (106 - 43 TCN)
Nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học và nhà hùng biện thời kì La Mã
cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như Về nhà nước, Về những đạo
luật và Về các nghĩa vụ, v.v… Ông dã có những tư tưởng tiến bộ như nhà

nước là công việc chung của nhân dân; phân biệt ba hình thức nhà nước: dân
chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành công việc nhà nước phải sáng suốt,
14


công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lí cơ bản của
pháp luật, v.v… Đặc biệt, ông đưa ra quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người
đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật như chốn
nương thân của mình.
1.2.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ trung cổ đến thời kỳ cận đại
Thời kì trung cổ kéo dài hàng ngàn năm dưới ách thống trị của các chế
độ chuyên chế vương quyền và thần quyền đầy bạo lực và cuồng tín tôn giáo.
Sự tồn tại nhiều năm của các nhà nước phong kiến phương Tây đã không
hoặc ít biết đến pháp quyền; là một trong những nguyên nhân của tình trạng
kém phát triển kéo dài. Tuy nhiên, thời kỳ này ở phương Tây đã có không ít
những quan điểm, tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng, các nhà thần học
góp phần bảo tồn, làm phong phú thêm những ý tưởng về nhà nước pháp
quyền thời cổ đại. Có thể thấy rõ điều này khi xem xét các quan điểm liên
quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền của một số học giả thời kỳ này.
- Niccolo Machiavelli (1469 – 1527)
Nhà ngoại giao và nhà chính trị, tư tưởng của Italia thời kỳ Phục hưng.
Ông đã viết nên một cuốn sách danh tiếng với tựa đề “Le Prince” (Quân
vương). Đây là một cuốn sách bao hàm hết những tư tưởng của ông về nhà
nước và pháp luật. Giống như các nhà tư tưởng thế kỉ XVI, ông đã tách việc
nghiên cứu lý luận chính trị khỏi các giáo điều và luân lý tôn giáo. Theo nhận
xét của F.Ăngghen thì trí tuệ và kinh nghiệm, việc xem xét nhà nước bằng
cách nhìn nhận nhân bản đã đưa Machiavelli đến việc chứng minh sức mạnh
là cơ sở của quyền và “sức mạnh” lại dựa trên nền tảng của pháp quyền. [3,
tr. 345]. Qua tác phẩm “Quân vương” của mình, ông ủng hộ hình thức nhà
nước cộng hòa chủ yếu xuất phát từ cách nhìn nhận ưu ái của ông đối với

những giá trị tự do và bình đẳng. Ông nói “ở đâu sự bình đẳng ngự trị thì ở
đó không thể xuất hiện nền quân chủ”, và “nhân dân bao giờ cũng cao hơn vị
quân vương”. Dưới con mắt của ông, nền cộng hòa bền vững hơn nền quân
15


chủ, nó sẽ thích ứng với những điều kiện khác nhau, nó đảm bảo tốt hơn sự
thống nhất và sức mạnh của nhà nước, sức mạnh của tinh thần ái quốc. “Sức
sống mãnh liệt của tác phẩm của ông để lại, tạo nên sự rùm beng suốt mấy
thế kỷ sau khi ông qua đời. Gạt bỏ hạn chế mang tính lịch sử nói trên, ý nghĩa
quan trọng mà học thuyết Machiavelli để lại cho hậu thế là tinh thần cách
mạng tiến bộ. Sự phê phán chế độ phong kiến, quan điểm ủng hộ nhà nước
cộng hòa với những nguyên tắc tự do và bình đẳng đã đưa Machiavelli lên
hàng những nhà tư tưởng vĩ đại của thời kỳ Phục hưng” [3, tr. 358 - 359].
- Jean Bodin (1530 – 1596)
Tên tuổi của Bodin được nhắc đến nhiều trong giới học giả trí thức
khắp Âu châu khi ông xuất bản quyển Cộng đồng chính trị. Định nghĩa của
ông về nguyên tắc pháp quyền của nhà nước là một nguyên tắc tiến bộ nhằm
xác lập trật tự tối thiểu làm cơ sở cho sự ra đời của một xã hội mới – xã hội tư
sản. Theo ông, nhà nước nhân dân là chế độ mà ở đó đa số nhân dân chỉ huy
quyền tối thượng bằng tập thể và bằng cá nhân. Đó là nhà nước do đa số nhân
dân cai trị.
- Hugo Grotius (1583 - 1645)
Với tác phẩm nổi tiếng “Bàn về pháp luật về quyền tự do tự nhiên”.
Ông cho rằng một chính thể nói là hợp lý sẽ là chính thể tôn trọng sự tồn tại
song song của hai hệ thống các quy phạm pháp luật: quy phạm tự nhiên và
quy phạm thực định.
Quy phạm tự nhiên bao gồm những chế định đảm bảo trật tự tự nhiên
trong quan hệ giữa con người với con người, tức là những quan hệ phát sinh
cùng đồng thời với trạng thái tư hữu; mục đích của các quy phạm tự nhiên là

chống lại những hành vi vi phạm quyền tài sản và thân thể. Điều này còn có
nghĩa là sở hữu cá thể là bất biến và phải được tôn trọng.

16


Quy phạm thực định là tổng hòa những quy phạm của “nhân pháp” và
“thần pháp”. Đối tượng điều chỉnh của nó có thể được bổ sung cho phù hợp
với sự phát triển của các quan hệ xã hội, nhưng mục đích không thể vượt qua
là sự bảo đảm cho quyền tự do mang tính tự nhiên của con người.
Theo đánh giá của Grotius thì pháp luật thực định phong kiến đã vi
phạm nghiêm trọng quyền con người và tự do tư hữu bị chà đạp bởi bạo lực
và sự đố kị phong kiến. Vì vậy, chế độ phong kiến không còn là sự bảo đảm
nữa, chế độ đó cần phải bị lật đổ. Thiết chế nhà nước được tạo dựng sau này
phải do sự thỏa thuận giữa những người hữa sản, quyền lực đó là tối thượng,
là quyền lực không phụ thuộc trong trách nhiệm thông qua các đạo luật, xét
xử, bổ nhiệm, giám sát hoạt động của các quan chức, thu thuế, giải quyết các
vấn đề liên quan đến chiến tranh và hòa bình v.v…
Tuy nhiên, sau khi ca ngợi một nhà nước có nguồn gốc là khế ước xã
hội, ông kêu gọi phải tuân thủ quyền lực của nhà nước, bởi ngược lại sẽ đồng
nhất với sự vi phạm khế ước xã hội đó. Trách nhiệm tôn trọng khế ước xã hội
thuộc về cả hai phía: phía người cầm quyền và phía người dưới quyền (thần
dân). Nếu một trong hai phía vi phạm khế ước thì phía bên kia hoàn toàn có
quyền “trấn áp”. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được ông nêu
ra đã có một ý nghĩa nhất định trong lý luận về nhà nước pháp quyền.
1.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại ở một số nước trên
thế giới
Từ thế kỷ XV – XVII, ở phương Tây chế độ phong kiến lâm vào khủng
hoảng ngày càng trầm trọng. Quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành và
phát triển. Giai cấp tư sản ra đời, là giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng

sản xuất mới. Giai cấp tư sản lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động, tiến
hành cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nhà nươc tư sản.
Cuối thế kỷ XVI, cách mạng tư sản nổ ra đầu tiên ở Nedeclan thành
lập nên đất nước Hà Lan. Cuộc cách mạng thành công, nhưng ảnh hưởng
17


của nó không sâu rộng. Đến giữa thế kỉ XVII, cách mạng tư sản Anh bùng
nổ và giành thắng lợi. Cách mạng tư sản Anh có ảnh hưởng lớn đến tiến
trình lịch sử thế giới nên nó được coi là cái mốc mở đầu thời kì lịch sử thế
giới cận đại [43, tr. 217]. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại
được thể hiện khá rõ nét trong tư tưởng của các nhà tư tưởng ở các nước
Anh, Pháp, Đức, Mĩ.
1.3.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Anh
1.3.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền của T.Hobbes (1588 – 1679)
Ông được biết đến với tác phẩm Những thành tố của luật tự nhiên và
luật chính trị (1640) và đặc biệt là hai tác phẩm Công dân và Leviathan
(1651).
Hobbes xây dựng học thuyết chính trị của mình xuất phát từ việc xem
xét bản tính con ngươi. Ông khẳng định: trong trạng thái tự nhiên con người
tự do và bình đẳng. Con người có nhu cầu được bảo vệ và sống trong trạng
thái hòa bình, đó là cơ sở để khẳng định quyền tự nhiên của con người. Con
người sinh ra vốn tự do và về bản tính con người là độc ác vì ban đầu ai cũng
có nhu cầu, ước vọng dẫn tới tự do của người này xâm phạm tự do của người
khác nên đẩy họ tới việc thực hiện điều ác. Ai cũng muốn thể hiện khát vọng
và nhu cầu của mình, nhưng lại không muốn chia sẻ lợi ích của mình với
người khác nên họ có thể vì quyền lợi của mình mà chà đạp lên quyền lợi
người khác.
Ông nhận ra rằng, sự thèm muốn quyền lực là phổ biến ở hầu như mọi
người. Con người luôn muốn thỏa mãn lợi ích cá nhân của mình hơn là lợi ích

của xã hội. Do đó bản tính con người theo ông là ích kỷ, khi tính ích kỷ đó
của con người phát triển mà không có sự kiểm soát thì đẩy họ vào tình trạng
chiến tranh hỗn loạn, làm cho luật tự nhiên bị phá vỡ.

18


Từ bản tính của con người và từ chính cuộc đấu tranh của con người,
để bảo vệ tính mạng và cuộc sống của mình, con người thỏa thuận với nhau kí
kết khế ước xã hội về việc thành lập nhà nước. Khế ước xã hội đã đưa xã hội
chuyển từ giai đoạn tự nhiên sang giai đoạn xã hội công dân (trạng thái có nhà
nước). Nhà nước là sự thỏa thuận chung theo khế ước do bản thân nhân dân
sáng tạo ra. Nhà nước - con quái vật khổng lồ Levianthan nắm trọn quyền lực
tối cao có được từ sự chuyển nhượng quyền của nhân dân. Nhân dân nhượng
lại một phần quyền tự do của mình và nhà nước sẽ làm giảm những khát vọng
tự nhiên thái quá của con người nhằm đưa đến một xã hội ổn định.
Xuất phát từ việc xem xét bản tính tự nhiên của con người, những quan
điểm của Hobbes về quyền tự nhiên của con người, về xã hội công dân, khế
ước xã hội là một đòn giáng mạnh mẽ vào các lý thuyết thần thánh hóa nhà
nước. Quan điểm của ông về quyền tự nhiên có ảnh hưởng đến tư tưởng chủ
quyền nhân dân, khế ước xã hội, tư tưởng về nhà nước và pháp luật của các
nhà tư tưởng Tây Âu thời kì cận đại.
Ông cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến tư tưởng về
chủ quyền nhân dân. Ông cho rằng, một khi nhà nước không đảm bảo được an
ninh cho công dân - nguyên nhân duy nhất cho sự tồn tại của nó thì người dân
có quyền tách ra khỏi sự ràng buộc bởi khế ước xã hội, giành lại quyền tự
nhiên cho mình, đó chính là sự giành lại chủ quyền của mình. Để được bảo
vệ, người dân có quyền tìm kiếm một hinh thức nhà nước khác có khả năng
đáp ứng độ tin cậy của họ. Quan điểm của Hobbes về nhà nước và pháp luật,
về vai trò quyền lực nhà nước, về khế ước xã hội, về quyền công dân… được

các nhà tư tưởng thời kì sau kế thừa, phát triển, hoàn thiện.
1.3.1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền của John Locke (1632 – 1704)
Hobbes chủ trương tập trung quyền lực tối cao và không có sự phân
quyền của nhà nước. Với mong muốn một xã hội tốt đẹp, trong đó các quyền
tự nhiên của con người được đảm bảo, người dân tránh được sự lộng quyền
19


của nhà nước nên John Locke đưa ra tư tưởng cần phải giới hạn quyền lực
nhà nước. Việc ông đưa ra quan điểm giới hạn quyền lực nhà nước nhằm
phản ánh một thực tế là xã hội thực sự đang đứng trước nhu cầu bức thiết
phải xóa bỏ quyền lực chuyên chế để đi đến xây dựng một quyền lực chính
trị mới mang tính dân chủ và đảm bảo tốt hơn những quyền lợi chính đáng
của người dân.
Quan điểm cần phải giới hạn quyền lực nhà nước là một đòi hỏi khách
quan và phù hợp với sự phát triển của xã hội đương thời lúc bấy giờ. Về mặt
lịch sử, đây là sự phát triển tất yếu, chống lại sự chuyên chế của các nhà nước
cực quyền, xây dựng một quyền lực nhà nước mới, có sự kiểm soát. Giới hạn
quyền lực nhà nước cũng tức là nhà nước bị chế ước quyền lực, khi đó quyền
lực của nhà nước không còn vô hạn định, mà nhà nước chỉ có quyền lực trong
một phạm vi nhất định được quy định rõ ràng trong luật.
Cơ sở cho việc cần phải giới hạn quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở
chỗ chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại sự tùy
tiện của nhà nước thông qua hành vi của các quan chức thay mặt nhà nước
đảm trách các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Không
khẳng định một cách cực đoan như Hobbes rằng tính người là ác nhưng
Locke cũng nhận thấy một thực tế là con người có lòng tham quyền lực bởi vì
khi có quyền lực con người dễ có khả năng buộc người khác phải làm theo
những ý muốn đam mê của mình, con người cũng có lúc vì lợi ích cá nhân mà
hành động gây tổn hại đến lợi ích của người khác. Vì vậy, theo Locke nếu

quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu quả rõ ràng
nhất là sự vi phạm các quyền và tự do của con người.
Do vậy, mục đích của việc giới hạn quyền lực nhà nước theo Locke là
nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, quyền con người. Quyền lực nhà nước
từ chỗ vô hạn trong chế độ chuyên chế nay được giới hạn lại và mọi hoạt
động của nhà nước cũng như các quan chức trong bộ máy nhà nước đều phải
20


×