Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN LƯƠNG ĐỨC

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế
MÃ SỐ:

60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN NHƯ PHÁT

HÀ NỘI - NĂM 2006


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Trang

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
CỔ PHẦN .................................................................................................................. 1


1.1 Khái luận chung về công ty cổ phần ........................................................... 1
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần ........................................ 1
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần ................................................... 4

1.2 Khái quát chung về quản trị công ty cổ phần ........................................ 9
1.2.1 Khái niệm về quản trị công ty cổ phần ..................................................... 9
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ quản trị công ty ..... 15
1.2.3 Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần trong luật công ty ............... 18

1.3 Những nền tảng pháp lý về quản trị công ty cổ phần .......................... 20
1.3.1 Cổ đông-chủ sở hữu công ty cổ phần ..................................................... 20
1.3.2 Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý .................................. 24
1.3.3 Tăng cường cơ chế giám sát đối với hoạt động quản lý .......................... 27

1.4 Mô hình quản trị công ty cổ phần trên thế giới ................................... 29
1.4.1 Mô hình quản trị công ty cổ phần của Mỹ .............................................. 29
1.4.2 Mô hình quản trị công ty cổ phần của Đức ............................................. 31
1.4.3 Các khuyến nghị của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về
quản trị công ty ............................................................................................... 33

Chương 2: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP ..................................................................................................... 41

2.1 Đánh giá chung về quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam .................... 41


2.2 Những hạn chế của chế định quản trị công ty cổ phần trong Luật
doanh nghiệp năm 1999 và điểm mới trong Luật Doanh nghiệp 2005 ... 46
2.2.1 Cơ cấu quản trị nội bộ của công ty cổ phần ......................................... 48
2.2.1.1 Đại hội đồng cổ đông ............................................................... 49

2.2.1.2 Hội đồng quản trị...................................................................... 64
2.2.1.3 Giám đốc (Tổng giám đốc) ....................................................... 71
2.2.1.4 Ban kiểm soát ........................................................................... 73
2.2.2 Đảm bảo thực hiện quyền của cổ đông ................................................. 77
2.2.3 Công khai hoá và giám sát các giao dịch có khả năng tư lợi và
lợi ích liên quan ........................................................................................... 86

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH QUẢN TRỊ CÔNG
TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM .................................................................................... 92

3.1 Một số quan điểm định hướng hoàn thiện ........................................... 92
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện chế định quản trị công ty cổ phần ......... 96
KẾT LUẬN .......................................................................................... .............. 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quản trị công ty là vấn đề thiết yếu để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của công ty. Sự thành bại của một công ty luôn lệ thuộc vào cách thức tổ
chức, và quản lý nội bộ của công ty. Một bộ máy công ty đơn giản, gọn nhẹ,
linh hoạt với sự phân công rành mạch chức năng nhiệm vụ, quyền hạn đồng
thời phối hợp ăn khớp, đồng bộ hoạt động của các bộ phận khác, thiết lập
được cơ chế giám sát và giảm thiểu mâu thuẫn trong nội bộ là một trong
những đảm bảo quan trọng cho hiệu quả kinh doanh của công ty.
Công ty cổ phần là một trong những loại hình công ty có lịch sử hình
thành và phát triển khá lâu đời trên thế giới, nhưng ở Việt Nam do những điều
kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định nên loại hình này gần đây mới được
một số nhà đầu tư quan tâm. Chính vì vậy, sự hiểu biết về vấn đề quản trị

công ty còn rất nhiều hạn chế về mặt lý luận và thực tiễn. Với sự ra đời của
Luật Doanh nghiệp năm 1999 và sau đó là Luật doanh nghiệp 2005 các vấn
đề có liên quan đế quản trị công ty đã được hoàn thiện một bước. Tuy nhiên
việc hiểu và vận dụng đúng các quy định của pháp luật về công ty cổ phần ở
Việt Nam là một vấn đề không đơn giản. Trong pháp luận về công ty cổ
phần, các quy định của pháp luật có liên quan đến quản trị công ty cổ phần,
xung đột quyền lợi và giải quyết mâu thuẫn giữa bộ phận hợp thành công ty là
một trong những chế định quan trọng, nó chi phối quá trình hình thành, phát
triển hay chấm dứt sự hoạt động của công ty. Việc nghiên cứu Đề tài “ Chế
độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần theo Luận doanh nghiệp” sẽ đem lại
ý nghĩa sau:


- Tạo điều kiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả chung của toàn công ty
thông qua việc tạo ra và duy trì các đòn bẩy khuyến khích người trong nội bộ
công ty tối đa hoá lợi tức, tài sản và tăng trưởng năng suất lao động
- Hạn chế người trong nội bộ công ty lạm dụng quyền lực đối với các
nguồn lực của công ty dưới các hình thức như tham ô, bòn rút nguồn lực của
công y nhằm sử dụng riêng cho các lợi ích cá nhân hặc làm thất thoát đáng kể
những nguồn lực do công ty kiểm soát
- Cung cấp các công cụ giám sát các hành vi của người quản lý đảm bảo
trách nhiệm của họ và tạo sự bảo hộ với chi phí hợp lý đối với lợi ích của các
nhà đầu tư và của xã hội trước những người quản lý công ty.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về công ty cổ phần ở
những giác độ khác nhau. Ở Việt nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, báo
cáo khoa học về công ty cổ phần như “ Công ty cổ phần và thị trường chứng
khoán” của TS Ngô Văn Quế; “ Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần” của TS Đoàn văn Hạnh; “ Luật doanh nghiệp –
Vốn và quản lý trong công ty cổ phần” LS Nguyễn Ngọc Bích…Những công

trình này đã có những đóng góp to lớn về mặt khoa học, tuy nhiên đề tài đó
chỉ tập trung vào phân tích các vấn đề có tính nguyên tắc về công ty cổ phần
như thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý, quyền và nghĩa vụ của cổ đông.
Theo đó vấn đề quản trị nội bộ công ty cổ phần đã được đề cập ở mức độ ít
nhiều nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Chính vì vậy luận văn sẽ đi sâu
nghiên cứu phân tích các vấn đề có liên quan đến việc quản trị nội bộ trong
công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện nay, làm rõ mối
quan hệ và sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau của các bộ phận cấu thành công ty
trong đó đề cập đến việc: Quyền và nghĩa vụ cổ đông; đối xử công bằng với


cổ đông; minh bạch hoá thông tin trong công ty; Hội đồng quản trị; quản lý
điều hành và cơ chế giám sát trong công ty.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kết hợp với thực
tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật về công ty cổ phần ở Viêt Nam, mục đích
nghiên cứu của đề tài nhằm phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn
về quản trị nội bộ trong công ty cổ phần mà cụ thể đó là việc phân chia quyền
lực giữa các bộ phận trong công ty cổ phần ở nước ta. Đồng thời trên cơ sở so
sánh, tham khảo cơ chế quản trị nội bộ trong mô hình của một số mô hình
công ty cổ phần trên thế giới để đánh giá, đưa ra những vấn đề đã làm được
và những tồn tại, cần thay đổi trong cách thức quản trị nội bộ của công ty cổ
phần ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nêu trên đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến quản trị công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
1999 và Luật doanh nghiệp năm 2005, về phân chia quyền lực trong công ty
giữa Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát,
cơ chế xác lập và đảm bảo thực hiện quyền của cổ đông. Đồng thời đề tài

cũng đi sâu vào phân tính mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan trong việc
thực thi quyền hạn của mình, cơ chế giám sát giữa các cơ quan này trong việc
quản lý và điều hành công ty.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là các nguyên tắc và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam


và nhà nước ta về hội nhập kinh tế, về tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các
nước phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống
kê, phương pháp so sánh, đối chiếu các quy phạm thực định về quản trị công
ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp với pháp luật liên quan của các nước để
lý giải cho các vấn đề nêu trong luận văn và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
6. Những đóng góp khoa học của đề tài.
Kể từ khi có hiệu lực, Luật doanh nghiệp 1999 được đánh giá là bước
đột phá trong cải cách kinh tế nói chung và cải thiện môi trường kinh doanh
nói chung ở Việt Nam. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, các chế định có
liên quan đến cơ chế quản trị công ty cổ phần đã bộc lộ nhiều bất cập. Quyền
hạn và nghĩa vụ của các cơ quan trong công ty chưa được quy định một cách
cụ thể, thiếu cơ chế kiểm tra giám sát trong quá trình quản lý điều hành doanh
nghiệp, chưa bảo vệ quyền lợi của cổ đông, chưa giải quyết một cách thấu đáo
triệt để mối quan hệ quan lại giữa các bộ phận của công ty trong quản trị nội
bộ, cũng chưa giải quyết triệt để xung đột lợi ích, quyền hạn giữa những cơ
quan này. Chính vì vậy nội dung của đề tài sẽ đưa ra những vấn đề mới sau:
- Nghiên cứu một các có hệ thống và luận giải trên cơ sở lý luận và thực
tiễn các quy định của Luật doanh nghiệp về việc phân chia quyền lực trong
công ty cổ phần, các vấn đề có liên quan đến quản trị công ty cổ phần.
- Chỉ ra những tồn tại, những bất cập các quy định quản trị công ty cổ
phần trong Luật doanh nghiệp 1999, đồng thời phân tích các điểm mới trong

chế định quản trị công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp 2005.
- Đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về cơ cấu tổ chức, về cơ chế quản trị công ty cổ
phần ở nước ta.


7. Kết cấu của đề tài
Đề tài được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu được bố cục như sau:
Luận văn gồm có ba phần: Mở đầu, phần nội dung chính và kết luận.
Phần nội dung chính chia làm ba chương
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị công ty cổ phần
- Chương 2: Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần theo Luật
doanh nghiệp.
- Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định quản trị công ty cổ
phần ở Việt Nam
Do kiến thức còn hạn chế, có những khó khăn khách quan nhất định trong
quá trình nghiên cứu nên đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong nhận
được sự đóng góp chân tình của quý thầy cô, để đề tài được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Như Phát,
người hướng dẫn khoa học đã chỉ bảo tận tình cho tôi trong quá trình thực
hiện luận văn này, cùng với quý Thầy cô giáo Khoa Luật-ĐH Quốc gia Hà
Nội đã dày công vun đắp kiến thức cho tôi trong thời gian vừa qua. Đồng
thời, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2006.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ

CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Khái luận chung về công ty cổ phần
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào khác, công ty ra đời, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Các công ty với tư
cách pháp nhân độc lập cùng với các thành viên có chế độ trách nhiệm hữu
hạn xuất hiện với số lượng lớn từ năm 1870. Nhưng những mầm mống của
một công ty hiện đại có thể nhận thấy trong việc thừa nhận trách nhiệm hữu
hạn ở Luật Lamã, các công ty thương mại và ngân hàng ở thế kỷ XIV, các
công ty ở Anh thế kỷ XVII.
Một trong những công ty cổ phần đầu tiên được biết đến là ở Anh năm
1600 tên là East India Company (Công ty Đông Ấn) công ty này là sự phối
kết hợp giữa chính quyền và các thương gia để chinh phục những vùng đất
mới được khám phá, phục vụ cho chủ nghĩa thực dân ở Châu Âu. Mặc dù
xuất hiện sớm như vậy nhưng cho đến tận đầu thế kỷ XIX loại hình công ty
cổ phần vẫn còn rất hiếm. Chính quá trình tập trung tư bản, đặc biệt là sự
bùng nổ của cách mạng công nghiệp vào khoảng giữa thế kỷ XIX làm cho
loại hình công ty cổ phần phát triển mạnh.
Sự ra đời của công ty nói chung, công ty cổ phần nói riêng đã làm phát
sinh nhu cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh đối với nó. Luật công ty nhìn
chung gắn liền với sự phát triển của các quan hệ thương mại, các quy định về
hợp đồng và vay nợ. Năm 1807, Pháp thiết lập nền tảng cho công ty bằng hội

1


hợp tư cổ phần được điều chỉnh bằng Bộ luật Thương mại, thể hiện quan điểm
tự do hoạt động kinh doanh. Mặc dù vậy, việc thành lập công ty vẫn cần giấy
phép của Nhà nước. Năm 1863, Pháp ban hành luật Công ty trách nhiệm hữu

hạn. Lúc này việc công ty ra đời ở Pháp cũng như tại các nước khác không
cần đến giấy phép của Nhà nước, mà thay vào đó Nhà nước chỉ đưa ra những
quy định bắt buộc, các công ty có nghĩa vụ đăng ký theo quy định của pháp
luật. Đức là một trong những nước mà ở đó xuất hiện công ty sớm, do vậy
pháp luật về công ty khá hoàn thiện. Luật Công ty cổ phần đầu tiên của Đức
được ban hành năm 1870. Tại Anh, cuối thế kỷ XVI, thương mại phát triển
mạnh mẽ, các doanh nhân kinh doanh theo kiểu làm ăn riêng hoặc góp vốn
cùng hoạt động. Đến năm 1844, Quốc hội Anh cho ra đời luật về công ty cổ
phần, sang năm 1855 thì có luật về tính trách nhiệm hữu hạn, cuối cùng hai
luật này sáp nhập làm một vào năm 1862. Luật công ty của Mỹ chịu ảnh
hưởng phần lớn luật của Anh do nguồn gốc hình thành nước Mỹ, vì vậy nó
khá giống với luật công ty của Anh.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật công ty, đó là: hệ
thống pháp luật công ty châu Âu lục địa và hệ thống pháp luật công ty AnhMỹ. So sánh giữa hai hệ thống pháp luật công ty này thì công ty của các nước
Pháp và Đức bị luật quy định chặt chẽ hơn và không được mềm dẻo, uyển
chuyển như công ty theo luật của Anh, Mỹ.
Nếu như công ty cổ phần ra đời và phát triển ở các nước tư bản khá sớm
thì ở Việt Nam lại xuất hiện tương đối muộn. Thời Pháp thuộc, do Việt Nam
là thuộc địa của Pháp nên có thời kỳ Luật Thương mại của Pháp được áp dụng
trên từng vùng lãnh thổ khác nhau của Việt Nam. Thời kỳ này có nhiều loại
công ty được tổ chức dưới hình thức các hội buôn. Đó là hình thức công ty
đơn giản. Luật lệ về công ty được quy định lần đầu tiên tại Việt Nam trong
“Dân luật được thi hành tại các Toà án Bắc kỳ năm 1913, trong đó có nói về

2


hội buôn. Đạo luật này chia các công ty (hội buôn) ra làm hai loại: Hội người
và Hội vốn. Trong hội người chia thành Hội hợp danh (công ty hợp danh),
Hội hợp tư (công ty hợp vốn đơn giản) và Hội đồng lợi. Trong Hội hợp vốn

chia thành Hội vô danh (công ty cổ phần) và Hội hợp cổ (công ty hợp vốn cổ
phần đơn giản). Trong luật này không có công ty trách nhiệm hữu hạn. Cũng
trong thời kỳ này, khoảng năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ luật
thương mại Trung phần.
Sau 1954, đất nước chia làm hai miền. Ở miền Bắc bắt đầu xây dựng nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc
doanh và tập thể. Thời kỳ này có khái niệm về công ty nhưng công ty không
được hiểu theo đúng bản chất pháp lý của nó. Hay có thể nói trong cơ chế
quản lý kinh tế tập trung không tồn tại các công ty cũng như luật về công ty.
Từ năm 1986, Đảng và nhà nước ta đề ta đường lối phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Với việc thừa nhận đa hình thức sở hữu, ghi nhận quyền tự do kinh
doanh của công dân trong Hiến pháp 1992 đã mở đường cho sự ra đời các loại
hình doanh nghiệp. Năm 1990 Quốc hội ban hành Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân. Đây là cơ sở pháp lý cho việc thành lập công ty nói
chung và công ty cổ phần nói riêng. Cả hai đạo luật trên đã được bổ sung, sửa
đổi một lần vào năm 1994 nhưng vẫn chưa khắc phục được những thiếu sót,
bất cập. Để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của hoạt động kinh doanh,
ngày 12/6/1999 Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp, thay thế cho các quy
định pháp luật về công ty trước đó, tạo khung pháp lý vững chắc hơn cho hoạt
động kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, trước yêu
cầu nội tại để đẩy nhanh phát triển kinh tế, yêu cầu toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nói trên đã bộc lộ những khiếm
khuyết không còn phù hợp, do đó Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp

3


năm 2005 vào ngày 29/11/2005 đây là khung pháp lý quan trọng trong việc tổ
chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nói chung và của công ty cổ

phần nói riêng đáp ứng tình hình phát triển mới.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm công ty cổ phần
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường vô cùng
phong phú đa dạng, vì vậy có rất nhiều loại hình liên kết thành lập công ty.
Người ta có thể phân loại công ty theo nhiều tiêu chí khác nhau nhưng nói
chung, xét theo tiêu chí về tính chất của sự liên kết, công ty thường được chia
thành hai nhóm cơ bản là các công ty đối nhân và các công ty đối vốn. Khái
niệm đối nhân hay đối vốn là tiền đề để xác định tính chất của các quan hệ
giữa các thành viên trong công ty về tổ chức quản lý công ty. Công ty đối
nhân là những công ty mà mối quan hệ giữa thành viên trong công ty với nhau
cũng như nguyên tắc tổ chức, quản lý công ty được thiết lập hoàn toàn dựa
trên cơ sở độ tin cậy về nhân thân của các cá nhân tham gia, sự hùn vốn là yếu
tố thứ yếu. Công ty đối nhân có đặc trưng là không có sự tách bạch tài sản
thành viên công ty và tài sản công ty. Ngược lại, ở công ty đối vốn, nguyên
tắc chủ đạo để xây dựng quan hệ giữa các thành viên công ty và cơ sở để xác
định quyền, nghĩa vụ của mỗi thành viên là tỷ lệ vốn góp vào công ty. Với các
công ty đối vốn, yếu tố vốn luôn được đặt lên hàng đầu, lấy nó làm nền tảng
để hình thành nên nguyên tắc tổ chức quản lý công ty. Đặc điểm quan trọng
của loại hình công ty này là công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của công ty. Các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phần vốn góp của mình đã tham gia vào công ty.
Thông thường theo hệ thống Châu Âu lục địa có hai loại công ty đối vốn
là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, hai loại hình công ty này
tồn tại phổ biến ở Châu Âu lục địa và có quy chế pháp lý khác nhau tạo điều

4


kiện dễ dàng hơn cho công chúng phân biệt giữa từng loại, tránh được nhầm
lẫn nhưng ngược lại cũng có nhược điểm là không thuận lợi khi cần chuyển

đổi hình thức hoạt động. Trong khi đó hệ thống luật Anh - Mỹ luật công ty chỉ
đề cập đến loại công ty đối vốn, trong đó thường chia thành công ty mở
(Public Corporation) phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng và công ty
đóng (Close Corporation) không phát hành cổ phiếu ra công chúng, cổ phần
được chuyển nhượng hoặc huy động trong nội bộ thành viên. Công ty mở
gần giống với công ty cổ phần, còn công ty đóng có đặc điểm gần giống với
công ty trách nhiệm hữu hạn trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa. Tuy
tên gọi, cách thức tổ chức hoạt động của công ty cổ phần giữa các hệ thống
pháp luật nhưng về bản chất thì công ty cổ phần có những đặc điểm chung:
- Công ty cổ phần là một tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
- Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ bằng tài sản
riêng của công ty. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau được
gọi là các cổ phần. Các cổ phần của công ty có thể được tự do chuyển
nhượng.
- Trong quá trình hoạt động công ty được phát hành các loại chứng
khoán để huy động vốn.
- Công ty cổ phần có số lượng thành viên rất đông.
Ở Việt Nam, Luật công ty 1990 định nghĩa về công ty cổ phần như sau:
"Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, gọi chung là công ty, là
doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi
nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty"

5


(Điều 2), và khái niệm “doanh nghiệp” được hiểu là: “đơn vị kinh doanh được
thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”

(Điều 3). Đây là định nghĩa chung về công ty. Để xác định thế nào là công ty
cổ phần chúng ta phải căn cứ vào cơ sở pháp lý là điều 30 Luật Công ty. Cách
định nghĩa này tạo cho người đọc một cách hiểu không chính xác về mặt khái
niệm và không toàn diện về bản chất của công ty cổ phần.
Khắc phục những nhược điểm trên của Luật Công ty 1990, trên cơ sở kế
thừa những quy định về Công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 1999, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra khái niệm về Công ty cổ phần tại Điều 77 như
sau:
“Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a, Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b, Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa
c, Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d, Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của
Luật này.”
Thuật ngữ “doanh nghiệp” được giải thích tại Điều 3 khoản 1 là: “tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh”.

6


Như vậy việc định nghĩa công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp là khá
đầy đủ và rõ ràng cả về mặt hình thức và nội dung. Từ khái niệm này, theo
pháp luật Việt Nam, ta có thể hiểu công ty cổ phần có những đặc điểm sau
Thứ nhất: công ty cổ phần là tính chất đối vốn trong công ty. Công ty cổ
phần thường có số lượng thành viên đông, với nhiều bộ phận dân cư, tầng lớp

xã hội, trình độ hiểu biết khác nhau trong xã hội. Các yếu tố thuộc về nhân
thân của người góp vốn không phải là điều kiện để trở thành thành viên của
công ty. Điều mà công ty quan tâm hơn cả là số vốn họ góp vào công ty là
bao nhiêu, góp với tư cách gì và góp bằng tài sản như thế nào. Đây là điều
khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa công ty cổ phần với các công ty đối nhân.
Cũng như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn là một loại hình của
công ty đối vốn, nhưng mang nhiều đặc điểm của công ty đối nhân nhưng cơ
sở thiết lập mối quan hệ giữa các thành viên công ty không chỉ căn cứ vào
phần vốn góp của thành viên mà còn dựa trên mối quen biết giữa các thành
viên trong công ty. Trong khi đó, ở công ty cổ phần, việc thành lập công ty
cũng như tổ chức quản lý công ty hoàn toàn dựa trên sự góp vốn của thành
viên công ty, và các thành viên này không nhất thiết là quen biết nhau. Với sự
thể hiện tính chất đối vốn rõ rệt như vậy, công ty cổ phần thường được tham
gia của rất nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội với số vốn huy động hiệu quả
hơn so với các mô hình công ty khác.
Thứ hai: công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Tư
cách pháp nhân của công ty được bắt đầu từ thời điểm công ty được đăng ký
kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Là tổ chức kinh
doanh có tư cách pháp nhân nên Công ty cổ phần nhân danh mình tham gia
các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có nghĩa là công ty có thể trở thành
nguyên đơn hoặc bị đơn, thiết lập những quan hệ khác nhân danh chính bản
thân công ty. Và điều quan trọng hơn cả là công ty có tài sản độc lập với tài

7


sản của cá nhân, tổ chức khác và độc lập, tách bạch với tài sản của mọi thành
viên trong công ty. Công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ,
nghĩa vụ tài sản khác bằng tài sản của công ty. Chế độ trách nhiệm hữu hạn
cũng được áp dụng đối với thành viên của công ty, họ chỉ chịu trách nhiệm về

nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi giá trị phần vốn đã góp
vào công ty. Tính chất quan trọng nhất của pháp nhân là sự tồn tại độc lập,
tách ra khỏi những người đã bỏ tài sản ra để lập ra nó. Những nhà đầu tư vốn
khi cam kết tách một phần tài sản thuộc sở hữu mình thành một phần độc lập
(nguyên tắc tách bạch tài sản) để hình thành nên công ty cổ phần thì cũng là
lúc nhà đầu tư vốn rút lui khỏi tư cách là chủ sở hữu thực thụ đối với những
tài sản mà mình góp để hình thành nên vốn điều lệ. Thay vào đó, các nhà đầu
tư vốn sẽ trở thành chủ sở hữu phần vốn góp trong công ty cổ phần [2] đó và
được gọi là cổ đông. Thành viên công ty sẽ sở hữu các cổ phần, còn công ty
với tư cách pháp lý độc lập sẽ là sở hữu chủ đối với những tài sản đã góp vào
công ty. Đây là điểm tiến bộ của Luật Doanh nghiệp khi quy định về sự tách
bạch tài sản giữa công ty và thành viên công ty so với Luật Công ty, tạo ra sự
ổn định cho cơ cấu vốn của công ty, từ đó bảo đảm cho sự vận hành công ty
trong qúa trình hoạt động kinh doanh.
Thứ ba Công ty cổ phần phải có ít nhất 3 thành viên tham gia trong suốt
qúa trình hoạt động. Là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, cho
nên phải có sự liên kết của nhiều thành viên, vì vậy việc quy định số thành
viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong lịch sử tồn tại và
phát triển của công ty cổ phần. Hơn nữa, pháp luật không hạn chế số lượng
thành viên tối đa thông thường công ty có số lượng cổ đông rất lớn, điều này
giúp cho công ty cổ phần phát huy khả năng huy động được nguồn vốn đầu tư
rộng rãi trong xã hội.

8


Thứ tư: Vốn điều lệ công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Đây là đặc trưng rất cơ bản của công ty cổ phần. Trong quá trình
hoạt động công ty có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để công
khai huy động vốn.

Thứ năm: Tính tự do chuyển nhượng cổ phần là một đặc trưng chủ yếu
của công ty cổ phần so với các loại công ty đối vốn khác. Phần vốn góp của
thành viên công ty được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Thành viên công ty
không được trực tiếp rút ra phần vốn đã góp của mình trong công ty, vì vậy
khi muốn thu hồi phần vốn đó cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phiếu cho
người khác. Các cổ phiếu do công ty phát hành được coi là một loại hàng hoá,
tài sản nên việc chuyển nhượng cổ phiếu được thực hiện theo quy định pháp
luật liên quan. Việc chuyển nhượng cổ phiếu trong công ty cổ phần được thực
hiện tương đối dễ dàng. Sự linh hoạt này tạo điều kiện thuận lợi cho người
mua cổ phần và khuyến khích việc đầu tư vào công ty. Mặc dù chủ sở hữu cổ
phần có thể thay đổi do việc chuyển nhượng cổ phần nhưng vốn điều lệ của
công ty vẫn không thay đổi nên công ty cổ phần có thời gian tồn tại liên tục,
không phụ thuộc vào chủ sở hữu cổ phần là ai.
Có thể nói, công ty cổ phần là một hình thức tập trung vốn mới nhanh
chóng và hiệu qủa hơn nhiều so với các mô hình tổ chức kinh doanh khác. Tại
Việt Nam, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đã và đang ngày càng có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ
chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Khái quát chung về quản trị công ty cổ phần
1.2.1 Khái niệm về quản trị công ty
Quản trị công ty là một khái niệm hiện nay đang thu hút được nhiều sự
quan tâm của nhiều giới nghiên cứu, thực hành khác nhau. Tuy nhiên, nếu đi

9


tìm một quan điểm thống nhất về khái niệm chắc giới nghiên cứu còn tốn
nhiều tiền bạc, giấy tờ, thời gian và nhiều thứ khác.
Về bản chất “quản trị” hay “quản trị công ty ” là đối tượng nghiên cứu
của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là của kinh tế học bởi quản trị hay quản

trị công ty là vấn đề về chi phí, về tính hiệu quả trong hoạt động của công ty.
Các nghiên cứu của kinh tế học chủ yếu tập trung vào vấn đề quản trị công ty
với tính chất là một định chế và tổng thể các nhiệm vụ để chèo lái một hệ
thống, hay nói cách khác, tập trung vào các vấn đề chi phí và tính hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy mà nhiều trường đại học đã có các
chương trình đào tạo quản trị hay quản trị doanh nghiệp của mình.
Nếu như kinh tế học quan tiếp cận, nghiên cứu khái niệm “quản trị công
ty” dưới vấn đề chi phí và tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh thì luật
học lại quan tâm đến quản trị công ty ở chủ yếu hai vấn đề, thứ nhất là bảo vệ
quyền tự do kinh doanh và hợp đồng, thứ hai là hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư
và công chúng.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “quản trị công ty ” được vay mượn từ
chữ “Corporate governance”. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào
năm 1920 với mục đích làm rõ sự phân chia giữa quyền sở hữu và quyền quản
lý trong các công ty hiện đại, khi hình thức sở hữu hiện vật trở thành hình
thức sở hữu cổ phần, còn các nhà quản trị chuyên nghiệp thay thế kiểu quản
trị gia đình [9,tr.7]
Ngày nay, thuật ngữ “Corporate governace” được cả giới khoa học pháp
lý và khoa học kinh tế sử dụng phổ biến như một trào lưu mới trong nghiên
cứu, cải cách mô hình tổ chức quản lý công ty. Nội hàm của chúng chủ yếu là
xoay quanh vấn đề về các thiết chế và các phương pháp về tổ chức doanh
nghiệp một cách có hiệu quả vì lợi ích của cổ đông nói riêng và ảnh hưởng

10


của nó tới sự phát triển của toàn xã hội nói chung. Dù chúng có được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong báo cáo đệ trình của nhóm Tư vấn kinh doanh về quản trị công ty
(do ông Ira.M.Mi Ustein làm trưởng nhóm) cho rằng: “quản trị công ty là việc

công ty áp dụng những phương pháp mang tính nội bộ để quản lý hoạt động
của công ty. Nó được thể hiện qua mối quan hệ nội bộ giữa cổ đông, Hội
đồng quản trị và nhà quản lý” [50,tr.18], “quản trị công ty được hiểu là cơ cấu
các bước quan hệ và trách nhiệm tương ứng giữa một nhóm chủ chốt bao gồm
cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị và các nhà quản lý được hình thành
nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cần thiết để đạt được mục tiêu chính
của công ty” [50,tr.18].
Sh.leifer và Vishny (1997) lại cho rằng: “quản trị công ty là các phương
thức mà các nhà đầu tư cấp vốn cho công ty sử dụng và chính nhờ đó mà họ
bảo đảm thu được những lợi tức từ khoản đầu tư của họ.” [62,tr.5]. Còn John
và Senbet lại quan niệm: “quản trị công ty là cơ chế mà theo đó cổ đông của
một công ty thực hiện quyền kiểm soát đối với các thành viên nội bộ nhằm
bảo vệ lợi ích của chính họ” [9,tr8].
Raimond.Mallon chuyên viên cao cấp của cơ quan phát triển quốc tế
Hoa kỳ thì định nghĩa: “quản trị công ty được hiểu là các quy trình mà qua đó
Hội đông quản trị giám sát Tổng giám đốc công ty và những nhà quản lý khác
chịu trách nhiệm quản lý công ty hàng ngày, qua đó thành viên Hội đông quản
trị chịu trách nhiệm đối với nhà đầu tư, chủ nợ, doanh nghiệp và các bên liên
quan khác. Mục đích của quản trị công ty là bảo vệ lợi ích của các bên có liên
quan, mà trọng tâm là bảo vệ lợi ích của người góp vốn” [9, tr.8].
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD “quản trị công ty là
một hệ thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân

11


chia quyền, nghĩa vụ giữa cổ đông, Hội đồng quản trị, các chức danh quản lý
và những người có lợi ích liên quan; quy định trình tự ban hành các quyết
định kinh doanh. Bằng cách này, công ty đã tạo ra cơ chế xác lập mục tiêu
hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu

đó ” [53, tr.363]. Cụ thể hoá định nghĩa này, OECD đưa ra bộ các nguyên tắc
mang tính khuyến nghị về Quản trị công ty nhằm hướng tới bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư, của người có quyền lợi liên quan khác; tăng tính minh bạch và
trách nhiệm của Hội đồng quản trị để có thể thu hút được các nguồn lực vào
mục đích phát triển kinh tế.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), quản trị công ty là một hệ thống các yếu
tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của công ty, nó cho phép công ty có
thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, nhờ
đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn trọng
quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ
bản nhất của hệ thống quản trị công ty là: tính minh bạch của các thông tin tài
chính kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; đảm
bảo thực thi các quyền của tất cả các cổ đông; Thành viên Hội đồng quản trị
có thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua các quyết định phê chuẩn kế
hoạch kinh doanh tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung
thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản
lý khi cần thiết.
Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), quản trị công ty bao gồm
một hệ thống các quy chế xác định rõ mối quan hệ giữa cổ đông, các chức
danh quản lý, các chủ nợ, chính phủ và những người có liên quan khác cũng
như hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện các quy chế trên.

12


Ở Việt Nam, thuật ngữ “quản trị công ty” hầu như còn tương đối xa lạ
và mới mẻ đối với cả giới hoạch định chính sách, giới nghiên cứu pháp lý.
Khi nghiên cứu về vấn đề này còn có nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy,
thuật ngữ này vẫn chưa được sử dụng như một thuật ngữ chính thức và thống
nhất về nội dung.

Theo luật gia Nguyễn Ngọc Bích, quản trị công ty (tác giả sử dụng từ
“lèo lái công ty” – corporate governance) là một tập hợp các cơ chế có liên
quan đến việc điều hành và kiểm soát công ty . Nó đề ra cách phân chia quyền
hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên của công ty bao gồm cổ đông, Hội đồng
quản trị, ban giám đốc và những người có lợi ích có liên quan khác[13,tr.255].
Theo tác giả, mục đích chính của quản trị công ty là bảo vệ thích đáng quyền
lợi của các cổ đông và đối xử công bằng giữa họ với nhau.
Tương tự cách định nghĩa này, Quỹ Mê Kông cho rằng: “quản trị công ty
là tập hợp cơ chế nhằm điều khiển và kiểm soát công ty, hệ thống quản trị
doanh nghiệp nhằm phân rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên trong
công ty, bao gồm các cổ đông, Hội đồng quản trị, các cán bộ quản lý và các
bên có quyền lợi liên quan khác. Hệ thống quản trị doanh nghiệp cũng thiết
lập các quy tắc và quy trình cho việc ra các quyết định về các vấn đề của công
ty. Mục tiêu chính của quản trị doanh nghiệp là bảo vệ đầy đủ những lợi ích
tốt nhất và sự đối xử công bằng đối với các cổ đông của công ty, vì mục tiêu
của công ty nên là tối đa hoá giá trị cổ đông cho tất cả các cổ đông, kể cả cổ
đông trong nước và cổ đông nước ngoài”. Cùng quan điểm như vậy, PGS.TS
Phạm Duy Nghĩa cho rằng: “quản trị công ty là một tập hợp các cơ chế có liên
quan đến điều hành và quản lý công ty, đề ra các phương án phân chia quyền
lực giữa các nhân tố tác động đến công ty bao gồm cổ đông, Hội đồng quản
trị, bộ máy điều hành và các đối tượng khác (người lao động, chủ nợ, nhà

13


cung cấp, đại lý bao tiêu)” [55]. Rõ ràng với cách tiếp cận như trên thì khái
niệm này khá tương đồng với cách định nghĩa của OECD.
Ngoài ra khi phân tích vấn đề này, Tiến sĩ Đinh văn Ân- Viện trưởng
Viện nghiên cứu kinh tế trung ương cho rằng “Quản trị công ty theo nghĩa
hẹp là cơ chế giám sát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty theo

những mục tiêu và định hướng đã định. Theo nghĩa rộng hơn, quản trị công ty
gắn liền với quyền lợi của chủ sở hữu, của chủ nợ, người cung cấp, người lao
động, thậm chí cả khách hàng của công ty. Về mặt tổ chức, quản trị công ty là
tập hợp các mối quan hệ giữa chủ sở hữu, Hội đồng quản trị và các bên liên
quan nhằm xác định mục tiêu và giám sát việc thực hiện mục tiêu của công ty
” [12]. Điều này cũng có nghĩa là, nếu xem quản trị công ty là một loại quan
hệ pháp luật (quan hệ quản trị công ty) thì đó chính là quan hệ pháp luật về tổ
chức quản lý công ty. Khi đó, ở khía cạnh khác của khoa học pháp lý, quản trị
công ty còn được hiểu như là loại chế định pháp lý, đó là chế định pháp lý về
tổ chức công ty. Do vậy, bản chất của quản trị công ty được hiểu như là cơ
chế tổ chức quản lý công ty nhằm mục đích hướng tới bảo vệ hữu hiệu lợi ích
của chủ sở hữu công ty cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Tóm lại, từ quá trình phân tích các luận điểm nêu trên, có thể cho chúng
ta một cách nhìn khái quát về quản trị công ty dưới góc độ pháp lý như sau:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng, quản trị công ty là tất cả các quy định, các cơ
chế nhằm tổ chức công ty một cách có hiệu quả vì lợi ích của công ty và của
xã hội. Theo đó “Quản trị công ty” không liên quan đến hoạt động tác nghiệp,
điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, chủ yếu chỉ xác định quyền lợi
trách nhiệm của các chủ thể quản lý công ty, giám sát công ty cũng như cơ
chế đảm bảo thực hiện nó. Cụ thể là xác định rõ nội dung phân chia quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm giữa chủ sở hữu công ty, Đại hội đồng cổ đông, Giám

14


đốc, Ban kiểm soát và những người có liên quan khác của Công ty, đồng thời
lập ra các nguyên tắc và thủ tục để ra những quyết định về những vấn đề của
công ty. Các thiết chế điều chỉnh quan hệ này được cụ thể hoá trong Luật
công ty, Luật thương mại, Luật phá sản, Luật quản trị công ty (ở một số nước)
và rải rác ở một số luật có liên quan khác.

Thứ hai: ở phạm vi hẹp hơn, quản trị công ty được hiểu như là chế định
về quản lý nội bộ công ty. Quản trị công ty điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ
sở hữu với nhau; giữa họ với bộ máy quản lý điều hành công ty qua đó ngăn
chặn sự lạm dụng quyền lực chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết
đối với công ty và chủ sở hữu của công ty, các thiết chế điều chỉnh nó chủ yếu
trong các luật về tổ chức kinh doanh (Luật công ty, hay Luật Doanh nghiệp)
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ quản trị
công ty
Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu hiện nay, khi mà các công ty
đã trở thành nguồn sống, chỗ dựa, nơi sinh hoạt cho hàng triệu con người, là
xương cốt cho nền tài chính, nền tảng của sự thịnh vượng của mỗi quốc gia.
Sự thành công hay thất bại của các công ty với tư cách là một bộ phận xã hội
thu nhỏ đó, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề tăng trưởng kinh tế và đảm bảo
ổn định xã hội của mỗi quốc gia cũng như của toàn cầu. Điều này có thể thấy
rõ qua sự phá sản của hàng loạt của các xí nghiệp quốc doanh ở Liên Xô và
các nước Đông Âu trước kia, sự chao đảo của các Cheabol ở Hàn Quốc cũng
như các tập đoàn Enron và Worldcom của Mỹ ngày nay. Xã hội cổ đông càng
phát triển thì sự sụp đổ của các công ty càng đè nặng nên những cổ đông
nhỏ-những người gửi gắm tích luỹ của đời mình bằng cách mua cổ phần trong
công ty này. Từ đó, chúng ta mới thấy được vai trò của pháp luật về quản trị
công ty trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

15


Như chúng ta đã biết, để kinh tế tăng trưởng và phát triển thì điều kiện
tiên quyết phải kể đến ở đây là vấn đề thu hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
vốn, điều này chỉ được thực hiện khi có chế định quản trị công ty tốt, nhằm
bảo vệ quyền lợi của cổ đông, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực của người
quản lý, điều hành doanh nghiệp và của chính cổ đông đa số. Vì vậy, sự tồn

tại của chế định quản trị công ty là một nhu cầu không thể thiếu được trong
việc khai thông nguồn vốn xã hội, phát huy mọi nguồn lực quốc gia, tạo tiền
đề để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Ngoài ra, ở
các nước có nền kinh tế mới chuyển đổi, thì sự xuất hiện và tồn tại của chế
định quản trị công ty còn tạo cơ sở pháp lý để chống lại sự can thiệp không
cần thiết của công quyền vào công việc nội bộ của công ty, giúp minh bạch
hoá môi trường kinh doanh và hạn chế tham nhũng.
Hơn thế nữa, xét dưới góc độ pháp lý, sự ra đời của pháp luật về quản trị
công ty là xuất phát từ nhu cầu hiện thực hoá các quyền sở hữu và quyền tự
do kinh doanh mà Hiến pháp đã quy định. Dưới giác độ này, pháp luật quản
trị công ty giúp giải quyết cơ bản các mâu thuẫn nội tại vốn luôn tiềm ẩn
trong bản thân mỗi công ty, đó là mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu công ty
và người quản lý- người thừa hành, giữa cổ đông nhiều vốn và cổ đông ít vốn,
giữa chủ sở hữu và người có quyền lợi liên quan khác. Vì vậy, sự tồn tại của
pháp luật quản trị công ty được coi như một công cụ để đảm bảo sự công
bằng, tôn trọng lợi ích thỏa đáng giữa các chủ thể có liên quan. Trong một
chừng mực nhất định, pháp luật về quản trị công ty còn là một hành lang pháp
lý an toàn cho hoạt động của các nhà đầu tư, hạn chế sự can thiệp trái pháp
luật của cơ quan công quyền lên quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp
quy định.
Có thể nói, việc điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ quản trị
công ty là rất cần thiết và không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế xã hội

16


của quốc gia và ngược lại, bản thân các quan hệ kinh tế cũng đòi hỏi trở lại
pháp luật phải tôn trọng những yêu cầu, quy luật phát triển của chúng, đó là:
Trước hết, đó là yêu cầu đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của công
ty. Đây là một yêu cầu xuất phát từ quyền Hiến định của công dân và là

nguyên tắc phát triển của kinh tế thị trường – nguyên tắc tự do kinh doanh.
Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật không can thiệp quá sâu và quá chi tiết vào các
quan hệ nội bộ của công ty. Pháp luật chỉ nên quy định ràng buộc những vấn
đề cơ bản mang tính nguyên tắc, xác lập khung pháp lý cho việc quản lý tổ
chức công ty, bởi nếu pháp luật can thiệp quá sâu vào các quan hệ này có thể
sẽ biến các quy định trở nên cứng nhắc, kém linh hoạt trong việc áp dụng vào
thực tiễn. Về mặt lý luận, nguyên tắc cơ bản của việc thiết lập khung pháp lý
quản trị công ty là hướng tới hình thành một môi trường quản trị công ty
tương ứng với các giá trị xã hội, đó là môi trường cho phép các công ty có thể
linh hoạt phản ứng với những biến đổi nhanh chóng của các lực lượng thị
trường mà vẫn đảm bảo được các chuẩn mực xã hội và truyền thống văn hoá
kinh doanh. Hơn nữa, có thể thấy rằng không có một cơ cấu quản trị nào thích
ứng tuyệt đối đối với tất cả các hình thức liên kết hay tất cả cơ cấu sở hữu. Do
vậy, mức độ ràng buộc của pháp luật đối với việc tổ chức quản lý công ty
cũng phải có sự khác nhau giữa các loại hình công ty, phù hợp với cấu trúc
vốn và cơ cấu thành viên của công ty. Có nghĩa là chế định quản trị công ty
cần phải đảm bảo tính thích nghi của cơ cấu quản trị công ty với điều kiện tồn
tại và phát triển của chúng.
Ở yêu cầu thứ hai, đòi hỏi các quy định quản trị công ty cần phải ghi
nhận, bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực thi các quyền của chủ đầu tư, bởi
suy cho cùng thì sự ra đời và tồn tại của chế định quản trị công ty gắn kiền
với nhu cầu huy động vốn, giảm thiểu chi phí và rủi ro cho nhà đầu tư. Vì

17


×