Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Những điểm mới cơ bản của luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

Những điểm mới cơ bản của luật
doanh nghiệp nhà nước năm 2003

luËn v¨n th¹c SĨ LUẬT kinh tÕ

Hµ néi - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

Những điểm mới cơ bản của luật
doanh nghiệp nhà nước năm 2003

Mã số

: 6.01.05

luËn v¨n th¹c SĨ LUẬT kinh tÕ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Dương Đăng Huệ

Hµ néi - 2005



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa (“XHCN”) ở nước ta
đã đặt ra cho thành phần kinh tế nhà nước và hệ thống các doanh nghiệp nhà
nước (“DNNN”) một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, Nhà
nước muốn giữ được định hướng phát triển thì cần phải có một lực lượng kinh
tế làm công cụ và chỗ dựa. Nếu không có lực lượng này thì mục tiêu XHCN
mà Nhà nước nỗ lực vươn tới sẽ trở thành ảo tưởng. Chính vì vậy, thời gian
qua Đảng và Nhà nước ta đã tập trung mọi nỗ lực để phát triển thành phần
kinh tế nhà nước, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới, cải cách
DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN nhằm phát huy vai trò
nòng cốt của DNNN.
Sau những đợt sắp xếp, đổi mới DNNN và đặc biệt là khi Luật DNNN
1995 ra đời, đã tạo nền tảng cho DNNN phát triển theo hướng tích cực và
“góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước; đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” [2,3]. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, trước yêu cầu đổi mới,
DNNN đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: DNNN còn nhỏ về quy mô,
còn dàn trải, chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành nghề; trình độ kỹ
thuật, công nghệ lạc hậu; hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của
DNNN còn thấp, tốc độ phát triển chưa cao; công nợ của DNNN lớn, lao
động thiếu việc làm và dôi dư còn nhiều; trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
doanh nghiệp còn yếu…

1



Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên xuất phát từ nhiều phía
như: nhận thức về vai trò của DNNN chưa được thông suốt; cơ chế chính sách
của Đảng và Nhà nước về DNNN chưa thật sự phù hợp, việc học tập, quán
triệt các chủ trương chính sách đó chưa tốt; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước đối với DNNN chưa cao; đội ngũ cán bộ chủ chốt doanh nghiệp chưa
đáp ứng yêu cầu… Nhìn chung, nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo quan
điểm của chúng tôi, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hoạt
động của các DNNN chưa thực sự có hiệu quả, chưa phát huy tốt vai trò chủ
đạo của mình là khung pháp lý về cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và hoạt động
của DNNN còn nhiều bất cập, đặc biệt là Luật DNNN 1995 và các văn bản
hướng dẫn sau một thời gian áp dụng đã thể hiện nhiều hạn chế, chưa tạo
được cho DNNN sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường XHCN.
Trước nhu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, nhận
thức yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về DNNN, ngày 26/11/2003, tại kỳ
họp thứ tư Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã thông qua Luật DNNN 2003. Sự ra
đời của Luật DNNN 2003 thay thế Luật DNNN 1995 đã thể hiện một bước
tiến mới trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DNNN nói riêng
và pháp luật về kinh tế nói chung. Luật DNNN 2003 đã khắc phục được
những hạn chế, bất cập của Luật DNNN 1995 và những văn bản hướng dẫn
thi hành, thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vai trò của DNNN, đã “cắt phao
về bao cấp và trách nhiệm; cởi trói về quyền hạn; giảm tải về vấn đề xã hội”
cho DNNN [43,2], đồng thời, Luật cũng quy định những vấn đề mới góp phần
tăng cường sự độc lập, tự chủ của các DNNN trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sự ra đời của Luật
DNNN 2003 đã đáp ứng những mong mỏi và thu hút sự quan tâm, tìm hiểu

2



của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các
nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở
khoa học một số điểm mới của Luật DNNN 2003 để chứng minh rằng Luật
DNNN 2003 đã tạo ra một môi trường pháp lý tốt hơn cho hoạt động của các
DNNN, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm triển khai một cách có hiệu
quả Luật DNNN 2003 vào cuộc sống là một việc làm cần thiết. Với những lý
do trên, tác giả chọn đề tài “Những điểm mới cơ bản của Luật DNNN năm
2003” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu về DNNN và pháp luật về DNNN hiện nay không còn là vấn
đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt nam. Xoay quanh vấn đề này, đã có nhiều công
trình nghiên cứu do các nhà khoa học trong và ngoài nước thực hiện. Trong
những năm gần đây, với xu hướng cải cách DNNN của Đảng và Nhà nước ta
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có chú
trọng đến việc đổi mới khung pháp lý về DNNN thì vấn đề nghiên cứu
DNNN và đổi mới khung pháp luật về DNNN lại càng được nhiều nhà khoa
học quan tâm. Các công trình nghiên cứu về vấn đề trên đa dạng và phong
phú về hình thức cũng như cấp độ.
Về luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ: Luận án PTS Luật học “Địa vị pháp
lý của DNNN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của tác giả
Trần Thị Hòa Bình năm 1996; luận văn cao học Luật “Địa vị pháp lý của
DNNN theo Luật DNNN” của tác giả Nguyễn Trung Nghĩa năm 1996; luận
văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Văn Lành năm 2000 với đề tài “Những
vấn đề của pháp luật về DNNN và giải pháp khắc phục”; luận văn thạc sĩ luật

3



học “Chế độ pháp lý về quyền sở hữu vốn và tài sản trong DNNN-Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Phạm Bình An năm 2001;…
Về các công trình nghiên cứu khác: có một số công trình nghiên cứu về
DNNN và pháp luật về DNNN đã xuất bản thành sách hoặc thể hiện dưới
hình thức những bài viết đăng trên các tạp chí như: sách chuyên khảo “Cổ
phần hóa DNNN-Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS. Lê Hồng
Hạnh, NXB CTQG, Hà Nội, 2004; tác giả Võ Đại Lược (chủ biên) có “Đổi
mới DNNN ở Việt Nam”, NXB CTQG, Hà Nội, 1997; PGS.TS. Nguyễn Như
Phát có bài viết “An toàn pháp lý trong DNNN”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6/1997; bài viết “Cải cách DNNN” của TS. Trương Công Hùng, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế số 257 tháng 10/1999; bài viết của PGS.TS. Nguyễn
Văn Thao, TS. Nguyễn Hữu Đạt “Quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ
bản giải quyết vấn đề sở hữu trong DNNN”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số
287 tháng 4/2002… Đặc biệt trong thời gian gần đây, sau khi Luật DNNN
2003 được ban hành, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu về những điểm
mới của Luật DNNN 2003 như: bài viết “Về Luật DNNN 2003” của ThS.
Phạm Đức Trung, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 101 tháng 6/2004.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu và bài viết như chúng tôi đã trình
bày, chỉ đề cập đến DNNN và pháp luật về DNNN trước khi Luật DNNN
2003 được ban hành; hoặc nếu nghiên cứu sau khi Luật DNNN 2003 được
ban hành và có hiệu lực thì cũng chỉ dừng lại ở việc nêu ra những điểm mới
của Luật DNNN 2003, chưa đi sâu phân tích những điểm mới ấy đã tạo ra
những thuận lợi gì cho DNNN hoạt động có hiệu quả hơn và việc nghiên cứu
chưa thể hiện tính hệ thống, toàn diện.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mục đích cơ bản nhất của đề tài là thông qua việc phân tích các quy định
mới trong Luật DNNN 2003 để khẳng định rằng: một trong những thành công

4



cơ bản nhất của Luật DNNN 2003 là tạo ra một nền tảng pháp lý mới, một
động lực mới để các DNNN ở Việt Nam có thể hoạt động hiệu quả hơn trước
đây.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Trước hết, luận văn trình bày thực trạng pháp luật điều chỉnh về DNNN
trước khi ban hành Luật DNNN 2003, trong đó chỉ rõ Luật DNNN 1995 là bộ
phận cơ bản nhất trong pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và
hoạt động của DNNN – một đạo luật đã có những đóng góp tích cực giúp cho
DNNN giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, luận văn cũng làm sáng tỏ những nhược
điểm của Luật DNNN 1995 với tư cách là những “rào cản”, đã cản trở đối với
hoạt động của DNNN ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ hai, trên cơ sở những hạn chế của Luật DNNN 1995 và những quy
định mới của Luật DNNN 2003, luận văn đi sâu vào phân tích tính ưu việt của
một số cơ chế, chính sách cơ bản trong Luật DNNN 2003 sẽ góp phần tạo
điều kiện cho các DNNN hoạt động có hiệu quả hơn trong tương lai.
Thứ ba, luận văn cũng đưa ra những đề xuất nhằm góp phần triển khai có
hiệu quả Luật DNNN 2003 trên thực tế.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.
Phương pháp luận để nghiên cứu, giải quyết đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật của Triết
học Mác – Lênin, với các quan điểm: khách quan, toàn diện, lịch sử-cụ thể,
phát triển và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là:
- Phương pháp sưu tập, kế thừa, nhằm tiếp thu có chọn lọc những kết quả
tối ưu từ những công trình nghiên cứu có giá trị trước đây về DNNN và
pháp luật về DNNN.

5



- Phương pháp so sánh, so sánh giữa các quy định của Luật DNNN cũ và
mới nhằm tìm ra những ưu điểm trong quy định của Luật mới tạo nền
tảng pháp lý mới để DNNN hoạt động có hiệu quả hơn.
- Phương pháp chứng minh, nhằm mục đích đưa ra những số liệu, dữ
liệu, quy định cụ thể của pháp luật thông qua những điều luật chứng
minh cho lời bình luận của tác giả.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp bao trùm và xuyên
suốt đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt
động và năng lực cạnh tranh của DNNN trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta, các nhà luật học, cũng như mọi
tầng lớp nhân dân quan tâm. Luật DNNN 2003 ra đời là kết quả của sự đổi
mới về nhận thức vị trí, vai trò của DNNN. Nghiên cứu về Luật DNNN 2003
là vấn đề còn khá mới trong khoa học pháp lý Việt Nam vì Luật DNNN 2003
mới được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Ý nghĩa và
điểm mới của luận văn là:
Thứ nhất, luận văn đã chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho
DNNN hoạt động kém hiệu quả trong thời gian qua là do Luật DNNN 1995
còn nhiều hạn chế, bất cập; đồng thời phân tích rõ những hạn chế của Luật
DNNN 1995 để tìm hướng khắc phục.
Thứ hai, luận văn đi sâu nghiên cứu những quy định mới trong Luật
DNNN 2003, so sánh những quy định của luật mới và luật cũ để chứng minh
rằng Luật DNNN 2003 đã đặt một nền tảng pháp lý mới, tạo ra một động lực
mới để các DNNN ở nước ta hoạt động hiệu quả hơn.
Thứ ba, luận văn góp phần không nhỏ vào việc đưa Luật DNNN 2003 vào
cuộc sống. Luận văn là tài liệu bổ ích phục vụ cho việc tuyên truyền, phổ biến


6


Luật DNNN 2003 đến các đối tượng có liên quan. Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu cho sinh viên Luật, làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
quản lý nhà nước và các doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp trong quá
trình áp dụng Luật DNNN 2003.
7. Cơ cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3
chương:
Chƣơng 1: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp nhà nước trước khi ban
hành Luật DNNN 2003.
Chƣơng 2: Luật DNNN 2003 một bước phát triển quan trọng của pháp
luật về DNNN ở nước ta.
Chƣơng 3: Những giải pháp góp phần triển khai Luật DNNN 2003 trên
thực tế.

7


8


CHƢƠNG 1
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
TRƢỚC KHI BAN HÀNH LUẬT DNNN 2003

1.1. Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc năm 1995 - bộ phận cơ bản nhất
trong pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và hoạt động
của các DNNN ở Việt Nam.

Kể từ sau công cuộc “Đổi mới” được Đảng và Nhà nước ta khởi xướng,
Việt Nam đã và đang xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Theo cơ chế kinh tế này, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng với nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Bởi vì, “Kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt,
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân”[3] , “Kinh tế nhà nước phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí
then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật”[2].
Việc thành lập doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực then chốt là một
công cụ vật chất quan trọng của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Để doanh nghiệp nhà nước có một khung pháp lý cho vận hành, Nhà
nước đã không ngừng xây dựng và ban hành một loạt văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực này.

9


Trước khi Luật DNNN ra đời, đã có một số văn bản quan trọng tạo
khung pháp lý cho cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và hoạt động của DNNN
trong thời kỳ này, như:
- Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của HĐBT ban hành chính
sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh XHCN đối với xí nghiệp
quốc doanh (XNQD);
- Nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989 của HĐBT ban hành Điều lệ Liên
hiệp các xí nghiệp quốc doanh;

- Chỉ thị số 138/ CT ngày 25/4/1991 của Chủ tịch HĐBT v/v mở rộng
diện trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất, kinh doanh
cho các đơn vị cơ sở quốc doanh;
- Quyết định 332/HĐBT ngày 23/10/1991 của HĐBT về bảo toàn vốn
kinh doanh đối với các DNNN;
- Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 của HĐBT về thành lập và tổ
chức lại DNNN.
Trong hai đợt sắp xếp lại DNNN tiếp theo:
- Đợt thứ nhất từ năm 1991 đến 1993, để tập trung giải quyết về tổ chức,
xây dựng cơ chế, chính sách tài chính cho sắp xếp các đơn vị cơ sở, Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 315/HĐBT ngày 01/9/1990 về giải thể và tổ
chức lại những DNNN yếu kém và Nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991
về nguyên tắc, điều kiện thành lập lại DNNN;
- Đợt thứ hai từ năm 1994 đến trước khi Luật DNNN ban hành, để hình
thành hệ thống DNNN, giải thể các Tổng Công ty, Liên hiệp xí nghiệp có tính
chất hành chính trung gian và tổ chức những Tổng Công ty có quy mô lớn và
quy mô vừa phù hợp với yêu cầu khách quan, bỏ dần chế độ Bộ chủ quản và
các cấp hành chính chủ quản, tạo điều kiện thực hiện một bước tập trung hoá

10


và nâng cao khả năng tích tụ vốn của các Tổng Công ty, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994.
Sự ra đời các văn bản trên đã tạo cơ sở pháp lý cho DNNN vận hành
trong giai đoạn này nhưng vẫn còn một số vấn đề pháp lý chưa giải quyết
được, đó là:
a. Cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước;
b. Vấn đề giao vốn chưa được làm rõ bản chất pháp lý của hành vi này;
c. Chưa phân loại hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích của

DNNN để có cơ chế điều chỉnh phù hợp;
d. Chưa tách bạch quyền quản lý Nhà nước với quyền sở hữu Nhà
nước.
Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường cho nên việc ban hành một văn bản pháp lý có hiệu lực cao
(ở mức độ Luật) qui định thống nhất, đồng bộ về cơ cấu tổ chức, quản lý nội
bộ và hoạt động của DNNN là rất cần thiết.
Khắc phục những bất cập trên, đồng thời để có một văn bản pháp lý có
giá trị hiệu lực cao tương xứng với vai trò của DNNN, ngày 20/4/1995 Quốc
hội đã thông qua Luật DNNN đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng trong việc
tạo lập khung pháp lý cho các DNNN.
Cùng với Luật DNNN, có nhiều đạo luật quan trọng khác trong giai đoạn
này cùng tác động đến cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và hoạt động của
DNNN như Luật Đất đai, Bộ luật lao động, các luật thuế, Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật Phá sản doanh nghiệp … Tuy nhiên, phạm vi điều
chỉnh của các đạo luật trên không qui định trực tiếp đến khái niệm DNNN, địa
vị pháp lý của DNNN, cơ cấu tổ chức của DNNN…, mà quy định về những
quyền và nghĩa vụ cụ thể trong từng lĩnh vực khi DNNN tham gia vào quan
hệ pháp luật trong lĩnh vực đó. Chẳng hạn, Luật Đất đai quy định quyền và

11


nghĩa vụ cụ thể của DNNN trong lĩnh vực đất đai; các luật về thuế quy định
các DNNN trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh phải thực hiện
nghĩa vụ đóng thuế như thế nào, cách thức thực hiện nghĩa vụ đóng thuế ra
sao,…; Bộ luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của DNNN trong quá
trình sử dụng lao động như tuyển dụng, bố trí, điều hành, khen thưởng, xử lý
kỷ luật lao động…đối với người lao động; Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước xác định DNNN sẽ được hưởng những ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ gì và cách

thức, mức độ hưởng như thế nào từ phía nhà nước; Luật Phá sản doanh
nghiệp tạo ra cơ sở pháp lý cho việc chấm dứt sự tồn tại của DNNN.
Do vậy, có thể nói rằng Luật DNNN 1995 là bộ phận cơ bản nhất, quyết
định nhất vì nó quy định những vấn đề then chốt nhất, bản chất nhất trong
pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ và hoạt động của loại hình
doanh nghiệp này.
Sau khi Luật DNNN 1995 được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban
hành một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoá khung pháp lý cho các
DNNN, đó là:
- Nghị định số 39/ CP ngày 27/6/1996 ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức
và hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước;
- Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 về thành lập, tổ chức lại, giải thể
và phá sản DNNN;
- Nghị định số 38/ CP ngày 28/4/1997 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 của Chính phủ về thành lập, tổ chức
lại, giải thể và phá sản DNNN;
- Nghị định số 56/CP ngày 02/10/1996 về DNNN hoạt động công ích;
- Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 ban hành qui chế tài chính và
hạch toán kinh doanh đối với DNNN;

12


- Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997 về đổi mới quản lý tiền lương, thu
nhập trong các DNNN;
- Nghị định số 27/CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 về ban hành qui chế tài chính và hạch toán
kinh doanh đối với DNNN;
- Nghị định số 07/1999/NĐ-CP (13/02/1999) ban hành quy chế thực hiện
dân chủ ở DNNN;

- Nghị định số 44/1998/NĐ- CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về
chuyển DNNN thành công ty cổ phần;
- Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 06/12/1999 của Chính phủ về việc
Ban hành Quy chế quản lý phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác;
- Nghị định số 64/2002/NĐ- CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về
chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Trên cơ sở Luật DNNN và các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện
Luật này, có thể trình bày khái quát những nội dung cơ bản của khung pháp lý
về DNNN như sau:
1.1.1. Nhóm quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản
DNNN.
1.1.1.1. Thành lập DNNN.
Quy trình thành lập DNNN được thực hiện thông qua các bước sau đây:
Bước 1. Đề nghị thành lập DNNN.
Người đề nghị thành lập DNNN phải lập và gửi hồ sơ đề nghị thành lập
DNNN đến người có quyền quyết định thành lập, hồ sơ gồm: Tờ trình đề nghị
thành lập doanh nghiệp (“DN”); Đề án thành lập DN; Mức vốn điều lệ và ý
kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính về nguồn và mức vốn điều lệ được
cấp; Dự thảo điều lệ về tổ chức và hoạt động của DN; Giấy đề nghị cho DN
sử dụng đất. Có ý kiến bằng văn bản của Chủ tịch UBND tỉnh về quyền sử

13


dụng đất và các vấn đề khác có liên quan đến địa phương nơi DN đó đóng trụ
sở chính và lập cơ sở sản xuất. Ngoài ra, Nghị định số 50/CP còn yêu cầu
trong hồ sơ đề nghị thành lập phải có:
- Kiến nghị về hình thức tổ chức doanh nghiệp.
- Bản thuyết trình về các giải pháp bảo vệ môi trường.
Bước 2. Trước khi ra quyết định thành lập, cơ quan có thẩm quyền phải

thẩm định hồ sơ đề nghị thành lập. Việc thẩm định tập trung làm rõ các vấn
đề sau.
- Đề án thành lập doanh nghiệp cần bảo đảm tính khả thi và hiệu quả
phù hợp với chiến lược và qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước,
đáp ứng yêu cầu công nghệ và quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường
và các quy định khác của pháp luật.
- Mức vốn điều lệ phải phù hợp với qui mô, ngành nghề kinh doanh, lĩnh
vực hoạt động và tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định
do Chính phủ qui định; có chứng nhận bằng văn bản của cơ quan tài chính về
nguồn và mức vốn cấp. Vốn điều lệ phải đảm bảo đã có sẵn, nguồn gốc hợp
pháp, rõ ràng theo quy định của Bộ Tài chính. Vốn vay không được tính vào
vốn điều lệ của doanh nghiệp.
- Dự thảo điều lệ của DN không trái với quy định của Luật doanh nghiệp
nhà nước và các qui định khác của pháp luật đối với DNNN.
- Giấy đề nghị cho doanh nghiệp sử dụng đất phải có xác định đồng ý
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nơi đặt trụ sở và mặt bằng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Bước 3. Ra quyết định thành lập DNNN.
Thẩm quyền ra quyết định thành lập DNNN được xác lập như sau:
- Đối với Tổng công ty hoặc DNNN độc lập nhưng có quy mô lớn hoặc
quan trọng sẽ do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập (hoặc Thủ

14


tướng uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân (“UBND”) cấp tỉnh ra quyết định).
- Đối với các DNNN còn lại sẽ do Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật hoặc do Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định thành lập.
Bước 4. Đăng ký kinh doanh.
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập, DNNN

tiến hành đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và đầu tư nơi doanh nghiệp đặt
trụ sở chính. Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm đăng ký
kinh doanh và bắt đầu được hoạt động trong phạm vi giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cho phép.
Bước 5. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, DN phải đăng báo hàng ngày của Trung ương và địa
phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính trong 05 số liên tiếp.
1.1.1.2. Tổ chức lại DNNN.
Để tổ chức lại DNNN sẽ có các biện pháp, đó là sáp nhập vào DN khác,
chia tách DNNN và các biện pháp khác làm thay đổi mục tiêu hoạt động, hình
thức tổ chức của DN. Người đề nghị thành lập DNNN phải tổ chức lại doanh
nghiệp. Người quyết định thành lập DNNN phải lập Hội đồng thẩm định
phương án tổ chức lại DNNN và ra quyết định tổ chức lại doanh nghiệp.
Riêng các DNNN quan trọng trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch
vụ công cộng do Thủ tướng quyết định.
1.1.1.3. Giải thể và phá sản DNNN.
Ngoại trừ phá sản DNNN được thực hiện theo Luật phá sản doanh
nghiệp (30/12/1993), giải thể DNNN hiện này đã được đề cập đến trong Luật
DNNN. Luật đã nêu ra bốn trường hợp giải thể, đó là:
- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết.

15


- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà doanh nghiệp
không gia hạn.
- Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng chưa lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
- Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ nhà nước giao sau
khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết.

Việc ra quyết định giải thể hiện nay thuộc quyền của người ra quyết định
thành lập DNNN và phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục cũng như
bảo đảm quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp.
1.1.2. Nhóm quy định về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê
DNNN.
Nhằm cơ cấu lại DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh
của khu vực kinh tế nhà nước, giảm bớt chi phí và trách nhiệm điều hành cho
nhà nước, đảm bảo việc làm cho người lao động, thay đổi phương thức quản
lý doanh nghiệp, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động,
sử dụng hiệu quả hơn số tài sản đã đầu tư, khai thác mọi tiềm năng trong các
thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 103/CP ngày 10/9/1999 về giao, bán, khoán kinh doanh và
cho thuê DNNN.
Nội dung của các phương thức trên được hiểu như sau:
- Giao DNNN cho tập thể người lao động là việc chuyển DNNN và tài sản
nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao động có điều
kiện ràng buộc.
- Bán DNNN là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ tài sản của
DNNN sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác.
- Khoán kinh doanh DNNN là phương thức quản lý DNNN mà bên nhận
bán được giao quyền quản lý doanh nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ

16


tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng
khoán.
- Cho thuê DNNN là hình thức chuyển giao cho người nhận thuê quyền sử
dụng tài sản và lao động trong doanh nghiệp theo các điều kiện ghi trong hợp
đồng thuê.

Việc chọn lựa các hình thức giao, bán, khoán, cho thuê là quyền của
DNNN, nhưng phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định thành lập, giải thể DNNN đó. Ban đổi mới doanh nghiệp (do các Bộ,
UBND tỉnh, thành phố, Tổng công ty 91 quyết định thành lập) thực hiện các
công tác chuẩn bị như: dự thảo phương án, kiểm kê tài sản, vốn và công nợ,
danh sách người lao động trong doanh nghiệp và nộp hồ sơ. Sau khi được cấp
có thẩm quyền phê duyệt, quyết định này sẽ được công bố công khai và tổ
chức ký hợp đồng giao nhận, bán, khoán, cho thuê,…
1.1.3. Nhóm quy định về cổ phần hoá DNNN.
Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996, Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 của
Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật DNNN, đã hình thành khung pháp lý về
vấn đề cổ phần hoá DNNN.
1.1.3.1. Mục tiêu cổ phần hoá.
- Mục tiêu huy động vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi
mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của DNNN.
- Mục tiêu tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh
nghiệp qua việc góp vốn, qua đó thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực
thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, nâng cao thu nhập cho người lao
động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.
1.1.3.2. Đối tượng cổ phần hoá.
Các DNNN được lựa chọn theo một tiêu thức cơ bản là: “cổ phần hoá
các DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư” [10].

17


1.1.3.3. Hình thức cổ phần hóa.
Bao gồm:
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.

- Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Tách một bộ phận của doanh nghiệp có đủ điều kiện để cổ phần hoá.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để
chuyển thành công ty cổ phần.
1.1.4. Nhóm quy định về Tổng công ty nhà nước.
Theo Điều 43 Luật DNNN quy định: “Tổng công ty nhà nước được
thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối
quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ,
dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong một hoặc một
số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh
doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.”
Tổng công ty nhà nước là một pháp nhân kinh tế, có các loại đơn vị
thành viên sau:
- Đơn vị hạch toán độc lập;
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc;
- Đơn vị sự nghiệp.
Tuỳ thuộc vào từng loại đơn vị thành viên mà mức độ trao quyền có sự
khác nhau. Chẳng hạn, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập được chủ
động kinh doanh trên cơ sở phương án phối hợp kế hoạch kinh doanh chung
của Tổng công ty; được Tổng công ty giao tổ chức thực hiện các dự án đầu tư
phát triển theo kế hoạch của Tổng công ty trên cơ sở sử dụng các nguồn lực
do Tổng công ty giao; được Tổng công ty uỷ quyền ký kết và thực hiện các

18


hợp đồng kinh tế với khách hàng trong và ngoài nước theo quyết định của
Tổng công ty; nhận, bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực do Tổng công ty giao; thực hiện quyết định của Tổng công ty về

điều chỉnh vốn và các nguồn lực phù hợp với nhiệm vụ của doanh nghiệp
trong tổng công ty; trích nộp để hình thành các quỹ tập trung của tổng công ty
theo quy định của Điều lệ Tổng công ty; có quyền đề nghị Tổng công ty xem
xét quyết định hoặc được Tổng công ty uỷ quyền quyết định thành lập, tổ
chức lại, giải thể, sáp nhập các đơn vị trực thuộc và quyết định bộ máy quản
lý của các đơn vị trực thuộc. Đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc được ký
hợp đồng kinh tế theo phân cấp của Tổng công ty, được chủ động thực hiện
các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo sự
phân cấp hoặc uỷ quyền của Tổng công ty. Đơn vị sự nghiệp thực hiện chế độ
lấy thu bù chi, được tạo nguồn thu từ thực hiện dịch vụ, hợp đồng nghiên cứu
khoa học và đào tạo với các đơn vị trong và ngoài Tổng công ty nhà nước.
Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thực hiện theo quy chế do Hội đồng quản
trị Tổng công ty phê duyệt.
Cho đến nay, sau nhiều năm thực hiện theo các Quyết định số 90/TTg,
Quyết định số 91/TTg và Luật DNNN 2005, nước ta đã có 17 Tổng Công ty
91 và 74 Tổng Công ty 90. Cụ thể trong các lĩnh vực sau [39]:
Lĩnh vực

Tổng Công ty 91

Tổng Công ty 90

Công nghiệp

07

12

Nông nghiệp


04

14

Giao thông vận tải

02

12

Xây dựng

01

11

Thuỷ sản

0

03

Tài chính

0

01

Ngân hàng


0

05

19


Y tế

0

02

Bưu chính viễn thông

01

0

Dầu khí

01

0

Hàng không

01

0


Văn hoá thông tin

0

01

Các địa phương

0

07

1.1.5. Nhóm quy định về bộ máy tổ chức quản lý DNNN.
Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chia làm hai loại dựa trên quy mô và
phương thức tổ chức quản lý: Mô hình do Hội đồng quản trị quản lý gồm các
DNNN là Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp độc lập có qui mô lớn;
Mô hình do Tổng giám đốc (Giám đốc) quản lý là các DN độc lập vừa và nhỏ.
1.1.5.1. Mô hình thứ nhất.
DNNN có Hội đồng quản trị thường là những DN lớn, giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân gồm: Các Tổng công ty nhà nước là các tập
đoàn kinh doanh ở một số Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và ở thành phố
Hồ Chí Minh, được thành lập theo Quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994 (gọi
tắt là Tổng công ty 91); các Tổng công ty nhà nước được thành lập theo
Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty
90); các doanh nghiệp độc lập có quy mô lớn theo tiêu thức quy định trong
Thông tư 03 BKH/QLKT ngày 27/12/1996.
Bộ máy tổ chức quản lý của loại DNNN như sau:
- Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
- Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và bộ máy giúp việc.

Hội đồng quản trị do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành
lập DNNN bổ nhiệm, miễn nhiệm. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng
quản lý hoạt động của doanh nghiệp; chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc

20


cơ quan đại diện Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của doanh nghiệp theo
những mục tiêu nhà nước giao.
Hội đồng quản trị thành lập Ban kiểm soát để giúp Hội đồng quản trị kiểm
tra, giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và
các đơn vị thành viên trong hoạt động tài chính, chấp hành Điều lệ doanh
nghiệp, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị và chấp hành pháp luật.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng quản trị giao, báo cáo và
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị.
Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ
nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng quản trị, là người đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực
hiện các quyền hạn, nhiệm vụ pháp luật quy định. Tổng giám đốc là người có
quyền điều hành cao nhất trong DNNN. Bộ máy giúp việc của Tổng giám đốc
bao gồm các phó Tổng giám đốc (phó Giám đốc), kế toán trưởng, các phòng
ban chuyên môn nghiệp vụ.
1.1.5.2. Mô hình thứ hai.
Tổ chức quản lý loại DNNN này gồm: Giám đốc và bộ máy giúp việc.
Giám đốc là đại diện của pháp nhân doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước
người bổ nhiệm và trước pháp luật về điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong doanh nghiệp.
Bộ máy giúp việc của Giám đốc gồm các phó Giám đốc, kế toán trưởng,
các phòng ban chức năng.
1.1.6. Nhóm quy định về phương thức hoạt động của DNNN.

Luật DNNN đã quy định một cách rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của
DNNN trong hoạt động của mình.
1.1.6.1. Quyền của DNNN.

21


Theo điều 7 Luật DNNN (thông qua ngày 20/4/1995), DNNN hoạt động
kinh doanh có các quyền quản lý, tổ chức kinh doanh như sau:
- Tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu và
nhiệm vụ Nhà nước giao;
- Đổi mới công nghệ, trang thiết bị;
- Đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở trong nước, ở
nước ngoài theo quy định của Chính phủ;
- Tự nguyện tham gia tổng công ty nhà nước, trừ những tổng công ty nhà
nước đặc biệt quan trọng do Chính phủ chỉ định các đơn vị thành viên;
- Kinh doanh những ngành nghề phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà
nước giao; mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của doanh nghiệp và
nhu cầu của thị trường; kinh doanh bổ sung những ngành nghề khác được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Tự lựa chọn thị trường; được xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của
Nhà nước;
- Tự quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ, trừ những sản
phẩm, dịch vụ do Nhà nước định giá;
- Đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần theo quy định của pháp
luật;
- Xây dựng, áp dụng các định mức lao động, vật tư, đơn giá tiền lương trên
đơn vị sản phẩm trong khuôn khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước;
- Tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các
hình thức trả lương, thưởng và có các quyền khác của người sử dụng lao động

theo quy định của Bộ luật lao động và các quy định khác của pháp luật; được
quyền quyết định mức lương và thưởng cho người lao động trên cơ sở các
đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm hoặc chi phí dịch vụ và hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.

22


DNNN hoạt động công ích có quyền tổ chức quản lý, tổ chức hoạt động
như sau:
- Thực hiện các quyền quy định tại điểm a, b, c, d, g, i và k khoản 1 điều 7
Luật DNNN 1995;
- Sử dụng các nguồn lực được giao để tổ chức hoạt động kinh doanh bổ
sung theo quy định của Chính phủ nhưng không làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính là hoạt động công ích do Nhà nước giao cho
doanh nghiệp;
- Đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần theo quy định của pháp luật
khi được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Được xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của nhà nước.
1.1.6.2. Nghĩa vụ của DNNN.
Theo Điều 11 của Luật DNNN 1995 thì DNNN có nghĩa vụ quản lý hoạt
động kinh doanh và hoạt động công ích sau đây:
- Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký; chịu
trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động của doanh nghiệp và chịu
trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do
doanh nghiệp thực hiện;
- Xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp
với nhiệm vụ Nhà nước giao và nhu cầu của thị trường. Chiến lược phát triển
của DNNN hoạt động kinh doanh, hoạt động công ích và kế hoạch hàng năm
của DNNN hoạt động công ích phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyển

chuẩn y;
- Đổi mới, hiện đại hoá công nghệ và phương thức quản lý; sử dụng thu
nhập từ chuyển nhượng tài sản để tái đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ của
doanh nghiệp;

23


×