Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH MUỐI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.25 KB, 33 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH MUỐI CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
♣♣♣♣
I. VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG KINH DOANH MUỐI
Ở VIỆT NAM
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đổi mới doanh nghiêp
nhà nước luôn luôn được chú ý nhiều nhất. Đảng và nhà nước ta luôn xác định
thành phần kinh tế quốc doanh phải là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Ở Việt nam trong thời kỳ bao cấp tồn tại 2 thành phần kinh tế chiếm ưu thế
tuyệt đối là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong cơ chế này thị trường bị
triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp , sản xuất không được thúc đẩy
mức độ tăng trưởng kinh tế ngày càng thụt lùi. Điểm yếu kém trong cơ chế bao cấp
đó là sự bất hợp lý của cơ cấu kinh tế sự trì trệ thua lỗ triền miên của sản xuất kinh
doanh từ đó nảy sinh yêu cầu bức thiết phải có cơ chế mới thích hợp.
Đại hội Đảng lần thứ VI ra đời là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự
khởi sắc của nền kinh tế và một lần nữa khảng định vai trò chủ đạo của các Doanh
nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm đầu khi chuyển đổi cơ chế các cơ sở kinh tế quốc doanh
chưa theo kịp sự thay đổi của cơ chế thị trường, bộ máy quản lý của Doanh nghiệp
quá cồng kềnh không phù hợp với cơ chế tự trang trải tự hạch toán kinh doanh do
đó nhiều Doanh nghiệp sản xuất thua lỗ dẫn tới phá sản. Chính vì vậy có nhiều
quan điểm tư tưởng lệch lạc cho rằng các Doanh nghiệp quốc doanh cần phải xoá
bỏ và họ đặt ra câu hỏi liệu các Doanh nghiệp Nhà nước có giữ vai trò chủ đạo hay
không?
Quan điểm trên hoàn toàn sai lầm, bởi nền kinh tế của các nước phát triển
đã từng chứng minh nếu để bàn tay vô hình đièu tiết thị trường sẽ dẫn đến những
trục trặc, tổn thất vô ích cho xã hội. Đảng và nhà nước Việt Nam nhận thức rằng
việc cải tạo các thành phần kinh tế một cách thô bạo cũng như việc tư nhân hoá các
Doanh nghiệp Nhà nước một cách một cách xô bồ nóng vội đều trái với quy luật


phát triển kinh tế, không phù hợp thực tế đất nước.
Cần phải coi trọng vai trò của các Doanh nghiệp Nhà nước, nhưng phải
kiên quyết đổi mới tổ chức quản lý các Doanh nghiệp Nhà nước theo yêu cầu của
kinh tế thị trường theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa. Các Doanh nghiệp Nhà nước
phải đóng vai trò chủ đạo: là công cụ kinh tế, là lực lượng vật chất trong tay Nhà
nước để Nhà nước khống chế vĩ mô nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần khác phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh, điều
chỉnh san lấp các chỗ hổng của thị trường tạo ra.
Cũng giống như các Doanh nghiệp khác các Doanh nghiệp muối không
nằm ngoài vòng quay của thời cuộc. Doanh nghiệp muối phải đương đầu với bao
khó khăn thử thách trước sự cạnh tranh khốc liệt của thành phần kinh tế tư nhân.
Mặt khác muối là một thành phần kinh tế quan trọng, then chốt, sản phẩm muối là
mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày. Muối là ngành sản xuất nguyên liệu
cho công nghiệp và muối iốt dùng cho toàn dân cần được ổn định về số lượng và
chất lượng theo nhu cầu ngày càng tăng. Nhà nước thực hiện chính sách nhiều
thành phần kinh tế sản xuất và kinh doanh muối nhưng vẫn duy trì Tổng Công ty
Muối là Doanh nghiệp Nhà nước làm lực lượng nòng cốt để phát triển nghề muối ở
nước ta.
Để phát huy vai trò chủ đạo các Doanh nghiệp muối Nhà nước phải không
ngừng vươn lên trụ vững. Ngoài nhiệm vụ thực hiệm các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
như doanh thu, chi phí lợi nhuận... Tổng Công ty Muối còn phải thực hiện các chỉ
tiêu xã hội. Nhiệm vụ mà Tổng Công ty Muối được giao là điều hoà muối iốt giữa
các vùng trong cả nước từ đồng bằng đến miềm núi. Giải quyết việc làm cho hàng
vạn lao động góp phần tăng trưởng kinh tế tại các vùng ven biển. Thực hiện các
chỉ tiêu xã hội Tổng Công ty Muối cũng hoàn thành các chỉ tiêu chính trị. Việc
tạo ra một khung giá muối thích hợp với đồng bào miền núi vùng cao thể hiện sự
quan tâm sâu sắc, tính nhân đạo của Đảng và Chính phủ, chứng tỏ tinh thần đoàn
kết giữa các dân tộc.
Đối với các dân tộc miền núi vùng sâu, vùng xa việc vận chuyển được một
“gùi”muối rất khó khăn. Do địa hình miền núi khác hẳn với các vùng khác, đa số là

vùng núi hiểm trở, gập gềnh gây cản trở công việc vận tải, thêm vào đó muối là
một mặt hàng cồng kềnh dễ chẩy nước. Thông qua Tổng Công ty Muối, muối ăn
được chuyển tải đầy đủ và kịp thời tới đồng bào miền núi và hải đảo.
Như vậy với tất cả các chỉ tiêu xã hội mà Tổng Công ty Muối đã thực hiện
phần nào đã khẳng định vai trò chủ đạo trong ngành muối nói riêng và trong hệ
thống các Doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Để xem xét cụ thể vai trò của các
Doanh nghiệp muối chúng ta cùng đi vào đặc điểm quá trình sản xuất và cách thức
quản lý.
1. VAI TRÒ CỦA SẢN PHẨM MUỐI
Muối và sản phẩm muối có vai trò vô cùng quan trọng trong tiêu dùng và
sản xuất.Muối ănlà nguyên liệu chính là sản phẩm thiết yếu trong cuộc sống hàng
ngày . Sản phẩm của muối là nguyên liệu ,chất phụ gia để chế biến hơn 14.000 sản
phẩm, có mặt hầu hết ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y dược, thực phẩm.
Ví dụ trong y dược là nguyên liệu chế nước khoáng, thuốc chữa bệnh, trong nông
nghiệp là là nguyên liệu chế phân bón, thức ăn cho gia súc,trong công nghiệp có
vai trò trong chế biến tơ nhân tạo,thuỷ tinh,xút... Người ta chỉ nhìn nhận muối
trong một lĩnh vực duy nhất là bữa ăn hàng ngày nhưng công dụng của muối là rất
lớn nó có vai trò và tác dụng chế nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác nhau.
Vì vậy khi nói đến muối không chỉ thuần nhất xem xét tính mặn nhạt mà phải tìm
hiểu cả công dụng của muối. Hiện nay khi cuộc sống ngày càng phất triển,nền kinh
tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì đồng nghĩa với nền kinh tế hàng hoá là sự
thay đổi cảnh quan thiên nhiên,thay đổi môi trường sống. Việt Nam là một nước
thiếu iốt. Qua bao nhiêu thế kỷ iốt tự nhiên trong đất bị rửa trôi khỏi các sườn núi
dẫn tới lụt lội đât không đủ cung cấp cho cây trồng và gia súc. Điều đó dẫn đến
thiếu iốt dùng cho thực phẩm cho con người.
Năm 1993 Bộ Y tế và Unicef đã tiến hành khảo sát tại một số điểm và chọn
ngẫu nhiên trên toàn quốc, đánh giá bướu cổ và các thử nghiệm khác .Kết quả khảo
sát cho thấy 94% đân số Việt Nam bị thiếu iốt, diện dân cư bị thiếu iốt với mức độ
khác nhau và trải rộng trên toàn quốc. Tác hại của căn bệnh bướu cổ rất ghê gớm
nó kéo thao sự đần độn và giảm trí thông minh của con ngươì. Ngay từ năm 1992

một chương trình Quốc gia về phòng chống các rối loạn do thiếu iốt được Chính
phủ thành lập tại Bộ Y tế để quản lý chương trình quốc gia loại trừ thiếu iốt vào
năm 2010. Một phần chủ yếu của chương trình là iốt hoá muối toàn quốc, để cung
cấp iốt và phòng bệnh cho tất cả nhân dân
Có rất nhiều cách đưa iốt vào cơ thể con người nhưng dùng muối pha trộn
iốt là cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Muối cần cho tất cả mọi người và được sử
dụng thường xuyên, đưa Iốt vào muối tức là đã cho tất cả cộng đồng dân cư được
bổ xung iốt vào cơ thể một cách tự nhiên đơn giản nhất, giá cả rất dẻ phù hợp với
thu nhập của mọi tầng lớp trong xã hội
Bên cạnh sản phẩm muối iốt còn có một sản phẩm rất quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân đó là muối công nghiệp. Muối công nghiệp là nguyên liệu cho rất
nhiều ngành kinh tế khác nhau như hoá chất, công nghiệp thực phẩm, nông
nghiệp... Hiện nay nhu cầu về muối công nghiệp đang là vấn đề cấp bách. Theo
đúng quy hoạch ngành muối đã được chính phủ phê duyệt đến năm 2000 cần một
lượng muối là 1.100.000tấn muối /năm, trong đó muối công nghiệp phục cho xuất
khẩu là 625.000 tấn /năm. Hiện tại ở nước ta có các xí nghiệp quóc doanh được
thiết kế để sản xuất muối công nghiệp với diện tích là 1000 ha, hàng năm có thể
sản xuất 100- 150.000 tấn muối . Như vậy so với nhu cầu thì lượng cung quá nhỏ
bé.
Mặt khác do cách sản xuất muối công nghiệp phân tán, chưa chặt chẽ nên
sản xuất muối công nghiệp không đảm bảo chất lượng do đó mấy năm gần đây
chúng ta phải nhập muối công nghiệp từ nước ngoài
Để sản xuất muối công nghiệp chất lượng cao đáp ứng tiêu dùng cho sản
xuất cần phải nâng cấp đồng muối, cải tiến công nghệ phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế. Thời gian gần đây Tổng Công ty Muối đã mạnh dạn và cung cấp hàng loạt các
trang thiết bị mới phục vụ sản xuất muối công nghiệp. Vì thế muối công nghiệp
đáp ứng một phần cho các Doanh nghiệp trong nước như công ty VEDAN mua của
Tổng Công ty Muối 70.000 tấn năm 1998, ngoài ra Tổng Công ty Muối đã xuất
khẩu 25.000 tấn.
Nếu như Tổng Công ty Muối có những chính sách chủ trương đầu tư sản

xuất muối công nghiệp dài hạn thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích và tạo đà phát triển
vượt bậc góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu muối.
2. ĐẶC ĐIỂM SẢN XUẤT LƯU THÔNG VÀ TIÊU DÙNG MUỐI
a. Đặc điểm sản xuất muối
Đặc điểm sản xuất muối nhìn chung còn manh mún phân tán chưa tập
chung. Các đồng muối sản xuất chưa được quy hoạch cụ thể. Hiện nay do truyền
thống lâu đời nên nghề muối nước ta vẫn chủ yếu được làm theo phương pháp thủ
công với diện tích 9600 ha và sản lượng đạt 430.000 tấn/năm, năm 1998 đạt
800.000 tấn. Do điều kiện khác nhau giữa hai miền Nam Bắc nên phương thức sản
xuất khác nhau. Ở miền Nam chỉ có hai mùa mưa và nắng nên áp dụng phương
pháp phơi nước. Phương pháp này cho năng suất cao chất lượng muối nguyên liệu
khá tốt và một phần muối đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Ở miền Bắc thời tiết chia làm 4
mùa không rõ rệt nên áp dụng phương pháp sản xuất phơi cát (phương pháp này
hiện nay trên thế giới không còn sử dụng nữa) . Phương pháp phơi cát cho năng
suất thấp vì thế lợi thế cạnh tranh của muối miền Bắc kém hơn miền Nam. Tuy
nhiên không thể không coi trọng nghề muối ở miền Bắc do thị hiếu người tiêu
dùng và đặc biêt có liên quan đến đời sống hàng vạn người lao động.
Từ khi bãi bỏ cơ chế bao cấp, các thành phần kinh tế tư nhân được phép
tham gia vào sản xuất và kinh doanh muối. Thị trường trở nên cạnh tranh gay gắt
giữa tư thương và các Doanh nghiệp Nhà nước làm cho giá cả hỗn loạn. Chính vì
sự biến động của thị trường làm cho phát triển sản xuất giảm sút, một số đồng
muối bị thu hẹp. Diêm dân <theo từ Hán để chỉ những người dân sản xuất muối
>quay sang nuôi trồng tôm, thuỷ sản. Một số người sản xuất theo kiểu hộ gia đình,
lúc đầu cho thu nhập khá cao nhưng vì sản xuất muối mang tính công nghiệp, đồng
muối kho bãi cơ sở hạ tầng phải dùng chung. vì vậy một số đồng muối xuống cấp
nghiêm trọng, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
b. Đặc điểm của lưu thông muối
Trên thực tế hiện nay đặcn điểm lưu thông muối bị buông lỏng thị trường
muối hoàn toàn được thả nổi. Trước năm 1990 toàn quốc có Tổng Công ty Muối
làm nhiệm vụ bán buôn, các công ty công nghiệp địa phương làm nhiệm vụ bán lẻ

trên từng địa bàn tỉnh, huyện. Hệ thống cửa hàng thương nghiệp và hợp tác xã
mua bán làm nhiệm vụ bán lẻ.
Do muối là mặt hàng kinh doanh có khối lượng lớn ăn mòn phương tiện,
chi phí vận tải lớn, gía bán lẻ thấp nên chiết khấu không đủ cho cho cả khâu bán
buôn và khâu bán lẻ. Thông thường phải lấy chi phí của các mặt hàng khác để bù
vào chi phí về kinh doanh.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường các Doanh nghiệp bắt đầu dần dần
không kinh doanh muối nữa. Các xí nghiệp được phân cấp và địa phương quản lý.
Ở Trung ương vẫn tồn tại Tổng Công ty Muối chuyên doanh làm nhiệm vụ buôn
bán muối và được giao nhiệm vụ làm chủ những công trình xây dựng cơ bản nhằm
duy trì sản lượng muối. Việc tổ chức lưu thông muối hiện nay bị buông lỏng không
có một đầu mối thống nhất, tình trạng tranh mua bán diễn ra thường xuyên. Tổng
Công ty Muối với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước có chức năng kinh doanh,
buôn bán muối và điều hoà thị trường muối trong cả nước, Trên thực tế việc quản
lý lưu thông muối của Tổng Công ty Muối gặp rất nhiều khó khăn. Giữa Tổng
Công ty Muối và các hộ dân sản xuất chưa có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ.
Trong cơ chế thị trường khi người bán thấy xuất hiện nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
theo quy luật chung ai trả giá cao họ sẽ bán khi nào cần bán sẽ bán, người sản xuất
muối không là ngoại lệ, đó cũng là kẽ hở cho tư thương hoạt động. Tư thương hoạt
động theo kiểu tự do, họ hoạt động đơn thuần là mục đích lợi nhuận nên khi mua
thì ép gía của dân mang bán lại cho công ty muối với giá cao hơn hẳn cho nên giá
thành của Tổng Công ty Muối bị nâng lên. Mặt khác tư nhân chế biên sản phẩm
không đạt tiêu chuẩn chất lượng, họ cố tình làm giả sản phẩm (nhại nhãn mác,
trọng lượng thiếu...) với cách làm muối giả mà muối của tư thương luôn luôn giảm
hơn giá muối trên thị trường, làm rối loạn thị trường tiêu thụ.
Hiện nay mạng lưới các xí nghiệp quốc doanh muối bố trí bị phân tán nên
gây ra khó khăn trong việc quản lý về cung cầu muối. Thêm vào đó các tư nhân
kinh doanh thao kiểu tự do kinh doanh đã tạo ra sự hỗn loạn trong sản xuất và lưu
thông muối. Vì vậy cần có sự tác động tích cực của nhà nước đối với nhu cầu muối
của toàn xã hội, bằng cách quản lý các xí nghiệp quốc doanh vừa đảm bảo quyền

tự chủ cho họ vừa tránh được các cuộc khủng hoảng thừa thiếu cho chính các xí
nghiệp đó. Việc vận chuyển từ Nam ra Bắc vào mùa khô tránh làm muối ướt và
chủ yếu bằng hai phương tiện thuỷ và bộ.
Mật khác ngoài thời vụ người lao động khá rỗi việc. Trong quá trình sản
xuất họ tích trữ một phần sản phẩm của mình để dự trữ lưu thông bán lẻ. Việc lưu
thông kiểu này tiện lợi cho người tiêu dùng nhưng lại gây khó khăntrong việc lưu
thông trên thị trường có thể xảy ra hai trương hợp giá bán của họ quá thấp do
được mùa muối, lúc giá bán lại quá cao tạo nên sự không ổn định về giá muối. Như
vậy vấn đề lưu thông hiện nay còn rất nhiều bất cập. Ngoài vận chuyển muối cho
đồng bằng còn phải cung cấp cho đồng bào vùng sâu vùng xa. Việc vận chuyển
muối lên miền núi rất khó khăn do địa hình hiểm trở, hơn nữa đây lại là khu vực
dân cư có thu nhập thấp, giá muối bán ra phải thấp hơn gia muôi tại đồng bằng. Vì
vậy để điều hoà muối giữa các vùng trong cả nước đối với các doanh nghiêp Nhà
nước sản xuất còn là bài toán khó .
c.Đặc điểm tiêu dùng muối.
Đặc điểm tiêu dùng quanh năm rộng khắp và ổn định chất lượng muối dùng
cho dân cư, khu công nghiệp, khu vực sản xuất đòi hỏi ngày càng cao. Nếu như
trước kia người ta thường dùng muối hạt thì nay sử dụng muối tinh chế (đã lọc bỏ
tạp chất) hay muối tinh trộn iốt. Trong cơ thể con người bao giờ cũng phải cung
cấp muối iốt cần thiết, người ta không thể lúc này ăn thật nhiều muối nhưng lúc
khác không ăn hoặc ăn ít hơn Muối không có mặt hàng thay thế như gạo, thực
phẩm nên mức cầu về tiêu dùng khá ổn định. Do đó việc tăng sản xuất trong ngành
muối là rất khó khăn, người ta không thể tăng hiệu quả sản xuất bằng cách sản
xuất thật nhiều muối. Đối các Doanh nghiệp sản xuất thì với cùng công nhân, tay
nghề sản phẩm làm ra càng nhiều thì càng mang lại lợi nhuận nhiều cho nhà kinh
doanh, nhưng với sản xuất muối thì khác hẳn sản xuất phải nghiên cứu định mức
tiêu dùng sản xuất quá nhiều sẽ dẫn đến sự mất cân đối cung cầu. Điều này làm
cho các nhà sản xuất luôn bị thiệt và lúc đó hiêu quả kinh tế sẽ không được đảm
bảo.
Từ sự khác nhau giữa tiêu dùng và sản xuất, cộng với những đặc trưng cơ

bản mà các ngành khác không thể có được như ngành muối , đã gây ra sự mất cân
đối cung cầu về mặt không gian và thời gian
3. KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ MUỐI KHI KHÔNG CÓ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC KINH DOANH MUỐI.
3.1. Mạng lưới tư thương và sự trôi nổi của thị trường muối
Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường có rất nhiều thành phần xuất hiện
và lớn mạnh. Đặc biệt trong đó có ngành muối đã có một lực lượng tư thương
cùng tham gia cạnh tranh với các Doanh nghiệp Nhà nước họ đã khống chế được
một phần thị trường Nhưng sự cạnh tranh diễn ra gay gắt một cách khá tự nhiên
bởi vì sự buông lỏng quản lý của Nhà nước. Quá trình cạnh tranh diễn ra giữa tư
nhân với Tổng Công ty Muối và giữa Tổng Công ty Muối với các đơn vị thành
viên. Tuy nhiên đối tượng chịu tác động sâu sắc nhất bởi sự trôi nổi của thị trường
muối chính là người sản xuất muối. Người dân sản xuất khi bán sản phẩm của
mình thì không bán được giá cao, nếu có bán được giá cao tại thì nguồn lợi do sản
xuất muối cũng không đủ để cho họ trang trải đủ cuộc sống (Thu nhập bình quân
của một người làm muối là 90.000/người/tháng). Nhìn chung người sản xuất luôn
trong tình trạng muốn bán nhanh sản phẩm sau mỗi mùa thu hoạch, đa số là bán
cho tư thương. Giá muối bán trên thị trường không theo sự điều khiển của Tổng
Công ty Muối. Hơn nữa số lượng sản phẩm không phải là nhỏ, chính vì vậy nó tạo
thành tảng băng trôi trên thị trường.Trong những năm đầu của cơ chế thị trường do
chúng ta còn quá thiếu kinh nghiệm trong quản lý và lưu thông muối đã tạo ra
những khe hở cho tư thương hoành hành, giá cả lên, xuống một cách tự do.
Tư thương ép giá ngay tại đồng muốí, khi mà Tổng Công ty Muối chưa
thực hiện xong kế hoạch thu mua thì họ có thể trả một giá cao hơn. Đôi khi do
cuộc sống quá khó khăn diêm dân đành phải bán với giá rẻ cho tư thương. Trong
quá trình cung cấp muối bán trên thị trường họ lại phá giá của Tổng Công ty Muối
để bán với mức giá thấp hơn. Sự trôi nổi của giá cả làm cho thị trường muối vô
cùng khó khăn: nơi quá thừa muối và nơi quá thiếu.
Muối là sản phẩm rất đặc biệt, gặp mưa hoặc thời tiêt ẩm ướt và độ ăn mòn
rất lớn. Vì thế muối đòi hỏi cách bảo quản rất cẩn thận từ bao bì đến kho dự trữ

phải có những điều kiện riêng. Khi một phần lớn lượng muối đã rơi vào tay tư
thương thì chất lượng trọng lượng muối hoàn toàn không được bảo đảm theo
những quy định của ngành.
Muốn đua muối vào guồng máy có hiệu quả, điều hoà muối giữa các
vùng ,tránh tìng trạng nơi quá ứ đọng muối nơi lại quá thừa muối thì các doanh
nghiệp sản xuất phải có sự quản lý của Nhà nước. Thời gian qua chúng ta hoàn
toàn thả lỏng thị trường muối các doanh nghiệp tư nhân. nhóm kinh doanh ồ ạt
phát triển tìm mọi cách bán nhiều muối nhất dẫn đến chỉ chú trọng thị trường có
thu nhập cao mà bỏ qua thị trường khác. Chính vì vậy tạo ra sự mất cân đối khi
phân phối muối cho các vùng đồng bằng và miền núi .Hơn nữa còn tạo ra sự cạnh
tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp do đó nhất thiết phải có sự quản lý
của Nhà nước .
3.2. Vai trò của Tổng Công ty Muối Việt nam
Tổng Công ty Muối là một Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các Doanh
nghiệp trực thuộc. Địa bàn của Tổng Công ty Muối rộng khắp cả nước và các
Doanh nghiệp, xí nghiệp trực thuộc trải đều từ Bắc vào Nam.
Tổng Công ty Muối giữ vai trò điều tiết thị trường giữa miền núi và đồng
bằng cân đối cán cân xuất nhập khẩu. Từ năm 1986 đất nước bước vào chuyển đổi
sang cơ chế thị trường cũng giống các Doanh nghiệp Nhà nước khác Tổng Công ty
Muối đã gặp phải không ít khó khăn trở ngại. Tổng Công ty Muối chủ động tìm ra
lối thoát bằng cách đầu tư công nghệ tìm kiếm thị trường mới, cải tiến mẫu mã
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Để nâng cấp và cải tạo đồng muối đưa sản xuất với quy mô lớn chỉ có Tổng
Công ty Muối mới hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Mặt khác cùng với việc nâng cao
chất lượng muối nhập các công nghệ thiết bị hiện đại Tổng Công ty Muối còn
hướng mở rộng thi trường ra xuất khẩu.
Ngoài mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận, doanh thu, giảm thiểu chi phí, Tổng
Công ty Muối là đơn vị duy nhất đảm bảo các chỉ tiêu hiệu quả xã hội. Tổng Công
ty Muối giải quyết cho hàng vạn lao động góp phần nâng cao đời sống kinh tế
vùng biển. Bên cạnh đó Tổng Công ty Muối là doanh nghiệp duy nhất thực hiên

các trương trình lưu thông muối iốt.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH MUỐI ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh muối đối với các doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường.
Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đều có
một mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả kinh doanh phát triển với quy mô ngày
càng cao, không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thực hiện tốt
nghĩa vụ đối với Nhà nước và đối với xã hội. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển phải đảm bảo các mục tiêu trên và mục tiêu số một có tính chất bao trùm đó là
lợi nhuận
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố của quá trình kinh doanh ở các doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất. Tại
mỗi thời điểm người ta có cách quan niệm về hiệu quả kinh doanh một cách khác
nhau song tựu trung lại có một số quan điểm chủ yếu sau
Quan điểm thứ nhất: Theo nhà kinh tế học người ANH AĐAMSMITH
cho rằng: ”Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu
thụ hàng hoá “
Ở đây tác giả đã đồng nhất quan điểm hiệu quả kinh doanh và kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất hai phạm trù đều có ranh giới rõ ràng.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là những gì Doanh
nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt
bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của Doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của một Doanh nghiệp cũng có thể là nhứng đại lượng cân, đong, đo,
đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại doanh thu lợi nhuận thị phần. ..và
cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất
định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm, ... như thế kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của Doanh nghiệp. Trong khi đó khái niệm về hiệu quả sản xuất
luôn luôn gắt với hai chỉ tiêu kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để
đánh giá hiệu quả sản xuât kinh doanh Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh

doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện
vật và đơn vị giá trị.
Qua đó cho thấy rằng một Doanh nghiệp sẽ đat hiệu quả kinh doanh cao
nhất khi sử tối ưu các nguồn lực đầu vào với mức chi phí thấp nhất. Gắn liền với
hiệu quả kinh doanh là kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh. Còn doanh thu
tiêu thụ hàng hoá chỉ là kết quả là một trong số rất nhiều mục tiêu của doanh
nghiệp. Với cách nhìn nhận như vậy chúng chúng ta sẽ xác định được hiệu quả
tăng lên là do tăng các nguồn lực đầu vào hay là làm giảm chi phí, điều này rất khó
xác định.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả sản xuât xã hội diễn ra khi không
thể tăng một lượng hàng hoá này mà không cắt giảm một lượng hàng hoá khác. Một
nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó “. Có
thể nối quan điếm này đã đề cập đến khía cạnh của nền phân bố có hiệu quả các
nguồn lực của nền sản xuất xã hội “Trên phương diện này, rõ ràng phân bố các
nguồn lực của nền kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực sản xuất
trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả. Đây là
trường hợp lý tưởng không thể thực hiện được vì tất cả các nguồn lực đều được sử
dụng tối đa không thể lãng phí bất cứ nguồn lực nào.
Quan điểm thứ ba: “ Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa
sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí ”. Như vậy quan niệm này chỉ đề
cập đến phần tăng lên của hiệu quả kinh tế chứ không phải là của toàn bộ phần
tham gia vào quá trình kinh tế.
Quan điểm thứ tư : đây là quan điểm của khá nhiều tác gỉả đề cập đến hiệu
quả kinh doanh ở dạng khái quát coi hiêu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và chi phí để đạt được kết quả đó.

×