MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỦ THỂ KINH DOANH
Posted on 19/11/2007 by civillawinfor
PHAN CÔNG THƯƠNG
LTS: Chủ thể kinh doanh là ai, tại sao phải định nghĩa chủ thể kinh doanh;
những đặc điểm của chủ thể kinh doanh; các loại hình chủ thể kinh doanh;
quyền và lợi ích của chủ thể kinh doanh; những vấn đề tồn tại trong hoạt
động của các chủ thể kinh doanh. Đây là những nội dung lớn trong bài viết
này nhằm thống nhất cách hiểu về chủ thể kinh doanh.
1
Có thể nói hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh giữ vai trò
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sức tăng trởng của nền kinh tế và sự tồn
tại của xã hội. Hiện nay, trình độ về phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đã đạt
được mức cao hơn nhiều so với những năm đầu của thập niên 1990. Khung pháp lý
và thể chế quản lý nhà nước đối với các loại hình chủ thể kinh doanh đã từng bớc
phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Ngày 12/ 6/ 1999, Quốc hội nước ta
đã thông qua Luật Doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty (1990) và Luật
Doanh nghiệp tư nhân (1990). Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ngày 01/01/2000
được đánh giá là một bớc đột phá quan trọng trong công tác lập pháp nhằm giải
phóng sức sản xuất, huy động tối đa mọi nguồn lực cho mục tiêu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân, khuyến khích các thành phần kinh tế và các loại hình chủ thể kinh doanh phát
triển. Theo Luật Doanh nghiệp thì các loại hình chủ thể kinh doanh được mở rộng
rất nhiều. Trong khi đó, khung pháp lý quy định về nội dung hoạt động cũng nh
1
/>những cơ sở pháp lý mà Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chúng lại
chậm sửa đổi, bổ sung, thiếu đồng bộ, có nhiều điểm lạc hậu, tạo ra những tồn tại
vớng mắc ảnh hởng đến hoạt động sản xuất, hạn chế quyền tự do kinh doanh của
chúng vốn được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta
phải có một cách hiểu thống nhất về chủ thể kinh doanh để làm cơ sở cho việc sửa
đổi, bổ sung từng bớc quy định pháp luật kinh tế hiện hành tiến đến ban hành một
luật chung thống nhất về các loại hình chủ thể kinh doanh cũng nh hoàn thiện dần
khung pháp lý về nội dung hoạt động của các chủ thể kinh doanh và cơ sở pháp lý
để Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chúng. Dưới đây tác giả xin
được đề cập đề đến một số vấn đề về chủ thể kinh doanh:
I. Thuật ngữ chủ thể kinh doanh
Thuật ngữ “chủ thể kinh doanh” được dùng rất phổ biến trong các báo, tạp chí, giáo
trình, tài liệu tham khảo chuyên ngành pháp lý- kinh tế. Tuy nhiên hiện nay vẫn cha
có một khái niệm chính thức nào.
Định nghĩa Để làm rõ thuật ngữ này, chúng ta bắt đầu bằng thuật ngữ “kinh
doanh”. Theo Từ điển tiếng Việt , “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất
buôn bán sao cho sinh lời”. Với nghĩa phổ thông này từ “kinh doanh’ không những
có nét nghĩa “buôn bán” mà còn bao hàm cả nét nghĩa “tổ chức việc sản xuất”. Hơn
thế nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất, buôn bán đều là “kinh doanh”.
Theo định nghĩa pháp lý được quy định tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp (12/6/1999)
thì “kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu t, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Với định nghĩa “kinh doanh” rộng nh vậy ta có thể hiểu: chủ thể kinh doanh là bất
kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý- kinh tế hiện nay có một số quan điểm khác nhau
về vấn đề này:
Các quan điểm về kinh doanh
Quan điểm thứ nhất
: đồng nhất khái niệm “chủ thể kinh doanh” với khái niệm “doanh nghiệp”. Khái
niệm doanh nghiệp lần đầu tiên được đề cập đến một cách chính thức trong Luật
Công ty (21/12/1990) và hiện nay Luật Doanh nghiệp có giải thích như sau: “doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh ” (Khoản 1, Điều 3).
Xuất phát từ thực tiễn và trên cơ sở quy định của pháp luật cho phép chúng ta khẳng
định rằng: “chủ thể kinh doanh” không thể chỉ giới hạn ở những doanh nghiệp nh đề
cập ở trên. Theo các văn bản pháp luật có liên quan, tham gia vào hoạt động kinh
doanh còn có hộ kinh doanh cá thể và tổ hợp tác . Và đơng nhiên là chúng ta không
thể thừa nhận hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác cũng là các loại hình doanh nghiệp
đang tồn tại trong nền kinh tế nước ta. Hay nói khác đi chúng ta không thể đồng
nhất hai khái niệm “chủ thể kinh doanh” và “doanh nghiệp” với nhau được.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “chủ thể kinh doanh” và “thương nhân” là một. Thuật
ngữ “thương nhân” có từ lâu đời trong lịch sử kinh tế thế giới. Riêng ở nước ta,
“thương nhân” là một khái niệm còn tương đối mới, chỉ được dùng làm ngôn ngữ
pháp lý chính thức kể từ khi Luật Thương mại được ban hành.
Luật Thương mại nước ta lại không định nghĩa một cách trực tiếp mà chỉ nêu những
đối tượng có thể trở thành thương nhân kèm theo các điều kiện ở những điều khoản
sau đó. Tại Điều 5, Khoản 6 có viết: thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ
hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên “. Hoạt động thương mại mà Điều luật trên đề cập “là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội” (gồm có 14
hành vi thương mại quy định tại Điều 45 Luật Thương mại).
Như vậy, thương nhân theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam là một khái
niệm rất hẹp chỉ giới hạn ở những chủ thể có đăng ký hoạt động thương mại, thực
hiện các hành vi thương mại một cách độc lập thường xuyên nhằm mục tiêu chủ
yếu là lợi nhuận. Do đó, chúng ta không thể đồng nhất hai khái niệm “chủ thể kinh
doanh” và “thương nhân” với nhau được.
Một vấn đề nữa cần làm rõ thêm là: chủ thể kinh doanh mà chúng ta đề cập là
những chủ thể được thừa nhận về mặt tư pháp lý. Nghĩa là chúng xuất hiện trên cơ
sở những sự kiện pháp lý nhất định. Chúng được pháp luật thừa nhận, bảo vệ và có
quy chế pháp lý làm cơ sở cho sự tồn tại của mình, tức là chúng ta loại trừ những
chủ thể kinh doanh trái pháp luật. Đó là những cá nhân, tổ chức, đơn vị mà hành vi
kinh doanh của họ đã phạm vào điều cấm của pháp luật hoặc bản thân sự tồn tại
thực tế của những hoạt động kinh doanh đó còn thiếu hoặc không tuân thủ những
thủ tục hay điều kiện cần thiết do pháp luật quy định. Mặt khác việc thực hiện hành
vi kinh doanh được chúng ta đề cập như là một hoạt động nghề nghiệp thường
xuyên, chủ yếu của các chủ thể kinh doanh. Những chủ thể pháp luật khác nh các cơ
quan nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội đoàn
thể… mặc dù có thể tham gia vào một quan hệ pháp lý mang tính chất kinh doanh
nhng vẫn không được thừa nhận là chủ thể kinh doanh.
Nói tóm lại, chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong
phú. Nó không những bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp mà còn mở rộng
đến tổ hợp tác, hộ gia đình và cá nhân nữa. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này dới
đây chúng ta sẽ phân tích những đặc điểm cơ bản của nó.
II. Đặc điểm cơ bản của chủ thể kinh doanh
Xét một cách tổng quát chủ thể kinh doanh có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Chủ thể kinh doanh phải được thành lập, đăng ký hợp pháp
Các chủ thể kinh doanh nói chung phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra
quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Hiện nay, khi Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực thì quy chế pháp lý về việc thành lập các chủ thể kinh doanh và
các doanh nghiệp nói riêng có nhiều thay đổi theo hướng đơn giản hơn so với trước
đây. Theo đó, các chủ thể kinh doanh là các loại hình doanh nghiệp thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp cùng với hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, và
hợp tác xã trước đây chỉ cần đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Riêng với các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp có vốn đầu t nước
ngoài, doanh nghiệp nhà nước, việc thành lập vẫn phải tuân theo những trình tự thủ
tục được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng đang có hiệu
lực. Đây là đặc điểm xác lập tư cách chủ thể pháp lý độc lập của các chủ thể kinh
doanh, làm cơ sở để nhà nước thừa nhận và bảo vệ các chủ thể kinh doanh trước
pháp luật.
2. Chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng
Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền tài sản. Để
tham gia vào hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng của
mình. Bởi tài sản riêng là cơ sở vật chất không thể thiếu để các chủ thể này có thể
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình. Dấu hiệu phải có tài sản riêng thể hiện tính độc lập và khả năng tự quyết
định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động của các chủ thể kinh doanh.
Nghĩa là các chủ thể này có quyền chiếm hữu (hoặc quản lý), sử dụng, định đoạt tài
sản đó cũng như có quyền điều phối khối tài sản này theo nhu cầu sản xuất kinh
doanh và phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó trước pháp luật.
3. Chủ thể kinh doanh phải có chức năng kinh doanh
Chức năng kinh doanh là phơng diện hoạt động thường xuyên, cơ bản và chủ yếu
nhằm mục tiêu lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh. Chức năng kinh doanh thể
hiện ở các mặt sau:
a. Phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh (gọi tắt là giấy phép kinh doanh). Đây là chứng thư pháp lý quan trọng thừa
nhận một chủ thể có quyền hoạt động kinh doanh. Riêng đối với các chủ thể kinh
doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì giấy phép đầu t có giá trị là
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
b. Các chủ thể kinh doanh chỉ được kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề và loại
hàng hoá ghi trong giấy phép kinh doanh. Mọi trường hợp kinh doanh không có
giấy phép, không đúng nội dung giấy phép hoặc hàng hoá kinh doanh là đối tợng
mà pháp luật cấm hoặc hạn chế lu thông sẽ không được Nhà nước thừa nhận và bảo
vệ.
c. Phải thực hiện hoạt động kinh doanh một cách thường xuyên nhằm mục đích chủ
yếu là lợi nhuận. Với tư cách là một thực thể tham gia thị trường, nếu chủ thể kinh
doanh không lấy kinh doanh làm hoạt động cơ bản để tìm kiếm lợi nhuận thì tất yếu
không có sự tồn tại và không có khả năng tồn tại. Tất nhiên, chúng ta chỉ đứng ở
giác độ lý luận khái quát loại trừ những chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích.
4. Chủ thể kinh doanh có tính liên quan và đối kháng với nhau
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mỗi một chủ thể kinh doanh không tồn tại nh
một tế bào kinh tế đơn lẻ mà nằm trong một hệ thống lớn lực lợng sản xuất xã hội
có tính liên quan một cách hữu cơ với nhau. Các chủ thể kinh doanh phải hỗ trợ lẫn
nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sự hỗ trợ này thực chất là cung cấp sản
phẩm cho xã hội thể hiện nhu cầu đối với tiền vốn và sức lao động sản xuất. Có thể
thấy mỗi hoạt động của chủ thể kinh doanh này có thể ảnh hởng đến hoạt động của
chủ thể kinh doanh khác. Mặt khác, với t cách là một chủ thể tham gia thị trường,
các chủ thể kinh doanh có tính đối kháng với những nhân tố tác động từ bên ngoài
nh: khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai hoả hoạn, các thay đổi về chính sách
quản lý kinh tế của nhà nước hoặc những lợi thế từ các đối thủ cạnh tranh… để có
thể tồn tại, phát triển. Biểu hiện của tính đối kháng là chủ thể kinh doanh phải dựa
vào chính bản thân mình để tiếp thu vật chất từ hoàn cảnh thị trường, năng động và
nhạy bén thông tin, chuyển hoá nguy cơ thành cơ hội… từ đó không ngừng loại trừ,
khắc phục những khó khăn; nếu không tất yếu sẽ bị quy luật thị trường đào thải.
Qua việc tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh chúng ta thấy rằng
chủ thể kinh doanh tồn tại dới nhiều hình thức, nhiều loại với quy mô hoạt động
khác nhau. Bản thân khái niệm chủ thể kinh doanh chỉ mang ý nghĩa khái quát, cần
phải được hiểu cụ thể hơn. Do vậy việc nghiên cứu tìm hiểu các loại hình hoạt động
của nó là hoàn toàn cần thiết.
I. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI TIẾN HÀNH THỦ
TỤC ĐĂNG KÝ KINH DOANH:
1/ Về chức danh;
2/ Về tên doanh nghiệp;
3/ Về địa chỉ;
4/ Về ngành nghề;
5/ Về vốn điều lệ - vốn pháp định;
6/ Tên địa chỉ chi nhánh – văn phòng đại diện;
7/ Cách kê khai trong danh sách;
1. Chức danh: là chức danh của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, có thể là
chức danh Giám đốc ( Tổng giám đốc) hoặc Chủ tịch công ty ( công ty TNHH một
thành viên); Chủ tịch Hội đồng thành viên ( đối với công ty TNHH có hai thành
viên trở lên); Chủ tịch Hội đồng quản trị ( đối với công ty cổ phần). Thực tế, một cá
nhân có thể kiêm nhiệm hai chức danh trên nhưng trong điều lệ chỉ nêu 1 trong 2.
- Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây: ....Cổ đông là cá
nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông (đối với công ty cổ phần), thành viên
là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn)
hoặc người khác thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong
quản trị kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty.... ( Điều
13 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết
thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp).
2. Tên của doanh nghiệp phải bảo đảm theo quy định tại Điều 31, 32, 33, 34 - Luật
Doanh nghiệp năm 2005 cụ thể như sau:
Điều 31. Tên doanh nghiệp
1. Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký
hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố sau đây:
a) Loại hình doanh nghiệp;
b) Tên riêng.
2. Tên doanh nghiệp phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng
đại diện của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải được in hoặc viết trên các giấy
tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.
3. Căn cứ vào quy định tại Điều này và các điều 32, 33 và 34 của Luật này, cơ quan
đăng ký kinh doanh có quyền từ chối chấp thuận tên dự kiến đăng ký của doanh
nghiệp. Quyết định của cơ quan đăng ký kinh doanh là quyết định cuối cùng.
Điều 32. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp
1. Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng
của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ
chức đó.
3. Sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần
phong mỹ tục của dân tộc.
Điều 33. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt của doanh
nghiệp
1. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch từ tên bằng tiếng
Việt sang tiếng nước ngoài tương ứng. Khi dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng
của doanh nghiệp có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa tương ứng sang tiếng
nước ngoài.
2. Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ
hơn tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp tại cơ sở của doanh nghiệp hoặc trên các
giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.
3. Tên viết tắt của doanh nghiệp được viết tắt từ tên bằng tiếng Việt hoặc tên viết
bằng tiếng nước ngoài.
Điều 34. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn
1. Tên trùng là tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được viết và đọc bằng tiếng
Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Các trường hợp sau đây được coi là tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp
đã đăng ký:
a) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc giống như tên
doanh nghiệp đã đăng ký;
b) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên doanh
nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu “&”;
c) Tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên viết tắt của doanh
nghiệp đã đăng ký;
d) Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên bằng
tiếng nước ngoài của doanh nghiệp đã đăng ký;
đ) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của doanh nghiệp
đã đăng ký bởi số tự nhiên, số thứ tự hoặc các chữ cái tiếng Việt ngay sau tên riêng
của doanh nghiệp đó, trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là công ty con
của doanh nghiệp đã đăng ký;
e) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của doanh nghiệp
đã đăng ký bởi từ “tân” ngay trước hoặc “mới” ngay sau tên riêng của doanh nghiệp
đã đăng ký;