Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thẩm quyền điều tra hình sự của hải quan việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Khoa Luật

Đặng Công Thành

Thẩm quyền điều tra hình sự của hải quan Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số:

60 38 40

HÀ NỘI – 2008


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát, kiểm soát về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam; phòng, chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp
luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương,
biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu.
Sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế, Việt
Nam sẽ giảm dần thuế suất của một số dòng thuế và dỡ bỏ các hàng rào phi
thuế quan, do vậy, lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, hành khách xuất cảnh,
nhập cảnh, hoạt động đầu tư, liên doanh, gia công, sản xuất hàng hoá xuất


khẩu… gia tăng mạnh mẽ. Bên cạnh mặt tích cực, thì hoạt động buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh
vi mang tính quốc tế cũng đã và đang từng bước thâm nhập vào Việt Nam,
làm cho tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới ngày
càng phức tạp. Mặt khác, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách thông qua
các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới để
chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, dưới các chiêu bài "chống tham
nhũng", "dân chủ", "nhân quyền" để tuyên truyền chia rẽ nội bộ; tìm mọi cách
vận chuyển trái phép tài liệu phản động, ngoại hối, vũ khí vào Việt Nam để
kích động, chống phá Nhà nước ta. Do vậy, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam
ngày càng phức tạp, nặng nề và nhiều thách thức.
1


Để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực hải quan nói chung, tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên
giới nói riêng, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước, bảo
vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cho cơ
quan Hải quan được tiến hành một số hoạt động điều tra tội phạm. Điều 111
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định, khi phát hiện những hành vi
phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý
của mình thì cơ quan Hải quan có thẩm quyền: Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm
tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra
và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng
phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành các hoạt động điều tra ban
đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan Điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Điều 20 Pháp lệnh tổ chức điều

tra hình sự năm 2004 quy định cơ quan Hải quan có thẩm quyền khởi tố và
tiến hành các hoạt động điều tra với 2 tội danh: Tội buôn lậu (Điều 153, Bộ
luật hình sự), Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều
154, Bộ luật hình sự).
Tuy nhiên, từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự năm 2004 được ban hành đến nay, trong khi tình hình buôn
lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới ngày càng diễn
biến phức tạp, việc thực thi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, pháp
luật hình sự liên quan đến thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan đang
phát sinh những vấn đề đòi hỏi phải được hiểu và thực hiện đúng cho phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một

2


văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn làm rõ các quy định về thẩm
quyền điều tra, các biện pháp điều tra hình sự do cơ quan Hải quan được phép
tiến hành như thế nào, công chức Hải quan có được phép áp dụng các biện
pháp điều tra tương tự như các điều tra viên, kiểm sát viên hay không?. Điều
này dẫn đến Cục Hải quan các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, kể các
cơ quan tiến hành tố tụng hiểu theo nhiều cách khác nhau về thẩm quyền tiến
hành một số hoạt động điều tra hình sự của cơ quan Hải quan.
Hiện nay, trong hoạt động điều tra hình sự, cơ quan Hải quan các cấp
còn gặp nhiều vần đề vướng mắc cần làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn khi
tiến hành một số hoạt động điều tra. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thẩm
quyền điều tra hình sự của Hải quan Việt Nam” là vấn đề mang tính cấp thiết,
đáp ứng đòi hỏi của thực tế và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra
hình sự của Hải quan Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua tuy đã có, nhưng rất ít bài viết, đề tài nghiên cứu

về thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra của cơ quan Hải quan, như
đề tài luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Lịch về thẩm quyền điều tra của Hải
quan. Tuy nhiên, đề tài được nghiên cứu theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 và Pháp lệnh tổ chức hình sự năm 1989. Nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn đề cập trong luận văn đã không còn phù hợp với tình hình
hiện nay.
Do vậy, thực tiễn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu sâu cả về lý
luận và thực tiễn về thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan để có kiến
nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác điều tra
hình sự của Hải quan Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3


Mục đích của đề tài là nhằm làm rõ thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động điều tra của cơ quan Hải quan theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004.
Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ của đề tài phải thực hiện là:
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc quy định thẩm quyền điều tra
hình sự của Hải quan Việt Nam; thẩm quyền điều tra của Hải quan một số
nước trên thế giới; nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các quy định về
thẩm quyền điều tra hình sự của cơ quan Hải quan theo quy định của pháp
luật Việt Nam; nghiên cứu thực trạng điều tra vụ án hình sự của cơ quan Hải
quan, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó để từ đó đề xuất các giải
pháp khắc phục, hoàn thiện.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện

nay liên quan đến tổ chức hoạt động điều tra hình sự nói chung và trên cơ sở
thực tiễn tổ chức hoạt động điều tra của Hải quan Việt Nam. Các phương
pháp cụ thể được sử dụng để hoàn thành luận văn này là phương pháp phân
tích tổng hợp; phương pháp lịch sử; các phương pháp nghiên cứu của xã hội
học như so sánh, đối chiếu, thống kê v.v... .
5. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn là một công trình đi sâu nghiên cứu, so sánh thẩm quyền
tiến hành một số hoạt động điều tra của Hải quan Việt Nam với Hải quan các
nước trong khu vực và trên thế giới.
- Luận văn nghiên cứu toàn diện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành quy định về thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều
tra của cơ quan Hải quan.
4


- Đánh giá thực trạng hoạt động điều tra vụ án hình sự của Hải quan
Việt Nam từ năm 2003 đến 2006, nêu lên những tồn tại, thiếu sót, những vấn
đề bất cập trong các quy định của pháp luật đang cản trở hoạt động của cơ
quan Hải quan trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn trong lĩnh
vực hải quan.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để hoàn thiện các văn
bản pháp luật quy định về thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan và các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra hình sự của Hải quan Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn:
Luận văn gồm phần mở đầu, 03 chương, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo:
Chương 1. Những vấn đề chung về thẩm quyền điều tra hình sự của Hải
quan Việt Nam;
Chương 2. Thực trạng tình hình thực hiện thẩm quyền điều tra hình sự
của cơ quan Hải quan từ năm 2003 đến nay;

Chương 3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hịên thẩm quyền
điều tra của Hải quan Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN
ĐIỀU TRA HÌNH SỰ CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM

1.1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển thẩm quyền điều tra
của Hải quan Việt Nam
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 10 tháng 9
năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Chính
phủ lâm thời ký Sắc lệnh 27/SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" để
đảm nhiệm công việc của Sở Tổng thanh tra độc quyền muối và thuốc phiện
và các Sở Thương chính Bắc, Trung và Nam bộ. Nhiệm vụ của Sở Thuế quan
và thuế gián thu là: thu thuế nhập cảng, xuất cảng; thu thuế gián thu có biên
vào sổ tổng dự toán; thu các món tiền do sự kinh doanh độc quyền mà có. Sự
kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự ra đời của Hải quan Việt Nam
trong bộ máy nhà nước, không chỉ đáp ứng nhu cầu của phát triển kinh tế đất
nước, mà còn khẳng định Hải quan là một công cụ không thể thiếu của một
quốc gia độc lập có chủ quyền [29, tr 7].
Trong những ngày đầu thành lập, Sở Thuế quan và thuế gián thu cùng
với Nha thương vụ Việt Nam (thuộc Bộ Kinh tế Quốc gia) đã đấu tranh với
Pháp để bảo vệ chủ quyền về ngoại thương và thuế quan của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống pháp, Chính phủ giành
độc quyền về ngoại thương, mọi hàng hoá lưu thông trong vùng tự do đều do
Chính phủ kiểm soát, quản lý. Ngành Thuế quan đã cùng với Ngoại thương

Cục làm tốt công tác kiểm soát chống buôn lậu hàng hoá, kiểm soát hàng hoá,
tiền bạc của tư thương xuất, nhập giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm, thực
hiện nhiệm vụ thu thuế xuất nhập cảng. Nhằm tăng cường công tác kiểm soát

6


và chống buôn lậu hàng hoá có hiệu quả, ngày 28 tháng 5 năm 1948, Chính
phủ ban hành Sắc lệnh 189/SL quy định sự khám nhận và truy tố những việc
trái với luật lệ ngoại thương theo thủ tục ấn định, cụ thể:
"1. Các nhân viên thuế quan và công an sẽ khám nhận theo thủ tục hiện
hành. Ngoài ra mỗi khi truy thấy một sự phạm pháp những nhân viên kinh tế
có thẩm quyền có thể trực tiếp khám và lập biên bản theo thường pháp.
2. Các việc phạm pháp sẽ đưa ra trước toà án thường nếu có sự khiếu tố
của những cơ quan kinh tế có thẩm quyền.
Công tố viên truy tố theo đơn khiếu tố của các cơ quan kinh tế"
Như vậy, theo quy định tại Sắc lệnh này thì nhân viên Thuế quan và thuế
gián thu có quyền khám xét và tiến hành các hoạt động tố tụng để truy tố đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về ngoại thương, nhằm bảo vệ độc quyền
về ngoại thương của Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương lần thứ nhất (Khoá II) được ban hành vào tháng
3 năm 1951 đã xác định "mục tiêu đấu tranh kinh tế tài chính với địch cốt làm
sao cho địch thiếu thốn, mình no đủ, hại cho địch, lợi cho mình”. Do đó, Nhà
nước không đặt hàng rào ngăn hẳn giữa ta với địch, mà chúng ta vẫn mở
mang, buôn bán với địch, nhưng chỉ đưa vào vùng địch những thứ hàng
không hại cho ta, và đưa ra vùng tự do những thứ hàng cần cho kháng chiến,
cần cho đời sống nhân dân. Để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - tài chính trong
điều kiện mới nêu trên, ngày 17 tháng 7 năm 1951, Bộ trưởng Bộ Tài chính
đã ký Nghị định 63/NĐ ấn định hệ thống tổ chức Sở thuế thuộc Bộ Tài chính.
Và như vậy, Sở Thuế quan và thuế gián thu bị giải thể, thay vào đó là Phòng

Thuế xuất nhập khẩu nằm trong Sở Thuế trung ương. Về cơ bản, chức năng
nhiệm vụ cũng như biên chế của Phòng Thuế xuất nhập khẩu không có gì
thay đổi so với Sở Thuế quan và thuế gián thu cũ, nhưng quy mô đã bị thu
hẹp lại cho phù hợp với tính hình mới. Theo Điều lệ tạm thời số 247-TTg

7


ngày 10 tháng 4 năm 1953 quy định tổ chức và nhiệm vụ của các cơ quan
thuộc ban quản lý xuất nhập khẩu ở trung ương và các Khu quản lý xuất nhập
khẩu hay Phân khu quản lý xuất nhập khẩu ở địa phương, thì phân sở Thuế
xuất nhập khẩu có nhiệm vụ "Tổ chức việc kiểm soát, truy nã và xử lý các vụ
buôn lậu. Nếu tội nặng thì phải thỉnh thị Khu quản lý xuất nhập khẩu". Với
nhiệm vụ này, trong năm 1953 ngành Thuế xuất nhập khẩu đã bắt 20.163 vụ,
tịch thu hàng hoá trị giá 997 triệu đồng [29, tr 70].
Chiến thắng đông xuân 1953-1954, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp
định Giơnevơ, rút quân về nước, lập lại hoà bình trên cơ sở thừa nhận chủ
quyền dân tộc của ba nước Đông Dương. Mặc dù, nền kinh tế nước ta bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chưa kịp phục
hồi, nhưng Chính phủ đã có chủ trương mở rộng buôn bán với các nước. Để
làm được điều này ngoài khả năng khôi phục và phát triển sản xuất, khai thác
nguồn hàng, còn cần có một lực lượng chức năng có khả năng hoàn thành
nhiệm vụ bảo đảm chính sách độc quyền ngoại thương của Nhà nước. Vì vậy
trong phiên họp thường kỳ tháng 10 năm 1954, Chính phủ đã quyết định
chuyển ngành thuế xuất nhập khẩu sang Bộ Công thương để thành lập ngành
Hải quan. Ngày 14 tháng 12 năm 1954, Bộ trưởng Bộ Công thương đã ký
Nghị định số 136/BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương.
Tên gọi Hải quan được sử dụng chính thức từ đó đến nay [29, tr 85].
Ngày 6/4/1955 Bộ Công thương đã ký Nghị định 73-BCT/NĐ/KB quy
định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Sở Hải quan, cho phép Hải

quan có quyền khám xét hàng hoá, tiền tệ, vàng bạc, hành lý, công cụ vận tải,
hành khách qua lại biên giới Việt Nam Dân chủ cộng hoà; giữ lại để xử lý
những hàng hoá trên nếu vi phạm vào thể lệ hải quan; giữ lại và giao Công an
để điều tra và chuyển sang Toà án nhân dân để truy tố những gian thương
chống lại hoặc phá hoại chính sách của Chính phủ.

8


Tháng 9 năm 1955, Bộ Công thương được chia tách thành Bộ Công
nghiệp và Bộ Thương nghiệp. Tháng 4 năm 1958, Bộ Thương nghiệp lại tách
thành Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương. Cơ quan Hải quan cũng được
chuyển giao trực thuộc Bộ Thương nghiệp, rồi Bộ Ngoại thương, là những Bộ
có chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại và ngoại thương.
Nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng sản xuất trong nước
và phát triển nguồn thu ngoại hối phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tăng cường quan hệ giữa nước ta với các nước, đòi hỏi
phải có các văn bản pháp lý về quản lý kinh tế hoàn chỉnh ở mức cao hơn, đáp
ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Ngày 27 tháng 2 năm 1960, Chính phủ đã
ban hành Điều lệ Hải quan kèm theo Nghị định số 03/CP. Ngày 18 tháng 2
năm 1961, Bộ Ngoại thương ban hành Thông tư số 16/BNT-VPCP giải thích
và hướng dẫn Điều lệ Hải quan, quy định cơ quan Hải quan có quyền khám
người, công cụ vận tải, nhà ở; cơ quan Hải quan có quyền tạm giữ hàng hoá
phạm pháp, công cụ vận tải chuyên chở hàng hoá phạm pháp, tang vật che
dấu hàng phạm pháp. Cơ quan Hải quan có quyền xử lý đối với hành vi buôn
lậu, trường hợp cần thiết, cơ quan Hải quan có quyền đề nghị cơ quan Công tố
truy tố trước toà.
Ngày 30 tháng 8 năm 1984, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số
547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Hải quan, là cơ quan
thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Ngày 20 tháng 10 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng

ban hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
bộ máy của Tổng cục Hải quan. Điều 1 Nghị định 139/HĐBT quy định:
“Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng là công cụ chuyên
chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước, có chức năng:
- Kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ
vận tải xuất nhập qua biên giới nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

9


- Thi hành chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu;
- Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ hải quan và các luật lệ khác
liên quan đến việc xuất nhập khẩu;
- Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới.”
Như vậy, việc quy định Hải quan có thẩm quyền khám xét, điều tra, xử
lý các hành vi buôn lậu đã góp phần to lớn trong việc bảo vệ chính sách độc
quyền về ngoại thương của Nhà nước trong những năm đầu xây dựng xã hội
chủ nghĩa, góp phần vào bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả đã đạt được, Pháp lệnh Hải quan
năm 1990 quy định "Hải quan Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt Nam; đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, ngoại tệ, tiền Việt Nam qua biên giới".
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thì tình hình đầu cơ, buôn lậu
ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và an ninh quốc
gia. Vì vậy, hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối qua
biên giới bị coi là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự. Theo
Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 thì "Người nào buôn bán trái phép hoặc

vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, thì bị phạt tiền đến
năm lần giá trị vật phạm pháp hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm".
Để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới, Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định:
Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình, thì cơ quan Hải quqan có quyền có

10


quyền:
“a) Đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm
trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho
Viện Kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án;
b) Đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc phức tạp thì ra quyết
định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ
sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án.”
Ngày 4/4/1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự. Theo Điều 28 của Pháp lệnh thì Hải quan có thẩm quyền
khởi tố vụ án, tiến hành các hoạt động điều tra đối với tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới theo Điều 97 của Bộ luật hình sự:
"a) Đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm
trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, thu giữ, bảo quản vật chứng
và tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án; xét cần ngăn chặn ngay việc người có
hành vi phạm tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin ngay lệnh tạm
giữ của cơ quan có thẩm quyền; khám xét người, khám nơi oa trữ trong khu
vực kiểm soát của Hải quan do Hội đồng Bộ trưởng quy định; khi cần thiết,

trưng cầu giám định, khởi tố bị can; hoàn thành và chuyển hồ sơ vụ án cho
Viện Kiểm sát trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
b) Đối với hành vi thuộc loại tội nghiêm trọng, phức tạp thì ra quyết
định khởi tố vụ án, lấy lời khai, thu giữ, bảo quản vật chứng và tài liệu liên
quan trực tiếp đến vụ án, khi xét cần ngăn chặn ngay việc người có hành vi
phạm tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin ngay lệnh bắt khẩn cấp
của cơ quan có thẩm quyền; khám xét người, khám nơi oa trữ trong khu vực
kiểm soát của Hải quan do Hội đồng Bộ trưởng quy định; chuyển hồ sơ vụ án

11


cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án.".
Ngày 28 tháng 12 năm 1989, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự, theo đó hành vi buôn bán, vận chuyển
trái phép ma tuý qua biên giới được quy định trong Điều 96a. Do vậy, kể từ
thời điểm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985 có
hiệu lực thì cơ quan Hải quan không có quyền khởi tố vụ án, điều tra đối với
hành vi mua bán, vận chuyển trái phép ma tuý qua biên giới.
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì một số hành vi buôn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, nhưng do có tính chất quản
lý nhà nước đối với các mặt hàng đó, nên đã quy định thành một tội riêng,
như: ma tuý, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ, chất độc. Vì vậy, Hải
quan cũng không có thẩm quyền khởi tố vụ án và tiến hành hoạt động điều tra
đối với các tội danh này.
Ngày 29 tháng 6 năm 2001, Quốc hội khoá X thông qua Luật Hải quan,
quy định Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng
hóa, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải
quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Nhằm thể chế hoá các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, nâng
cao hơn nữa chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, đồng thời nêu cao trách
nhiệm của cơ quan Nhà nước đối với công dân, bảo đảm tốt hơn quyền tự do
dân chủ của công dân. Năm 2003, Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và các Luật sửa đổi, bổ sung một

12


số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, thì thẩm quyền điều tra của Hải quan
được quy định cụ thể tại Điều 111. Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì cơ
quan Hải quan có thẩm quyền: đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường
hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án; đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra
quyết định khởi tố vụ án, tiến hành hoặc hoạt động điều tra ban đầu và chuyển
hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Ngày 20/8/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số
23/2004/PL-UBTVQH11 về tổ chức hoạt động điều tra hình sự. Điều 20 của
Pháp lệnh quy định, cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực
quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154
của Bộ luật hình sự thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng

Cục kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu có
quyền:
“a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả
tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ
án, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực
tiếp đến vụ án, khám người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải
quan, trưng cầu giám định khi cần thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện
pháp điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra

13


và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai
mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố
vụ án, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan
trực tiếp đến vụ án, khám người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của
Hải quan, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án”.
Như vậy, từ khi thành lập đến nay, Hải quan đều có thẩm quyền tiến
hành một số hoạt động điều tra hình sự đối với hành vi buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới, nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế.
Từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của ngành Hải quan
cho thấy cơ quan Hải quan chiếm vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, có
thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra để đấu tranh với các tội phạm
liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. Tầm quan trọng của nó
được thể hiện:
Thứ nhất, cơ quan Hải quan, mặc dù tên gọi, tổ chức bộ máy có thể thay

đổi cho phù hợp với từng điều kiện lịch sử của đất nước, nhưng là cơ quan
duy nhất trong bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện
vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam; thu thuế và các khoản khác
đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ hai, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương
mại, vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá
quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá được Nhà nước giao cho cơ quan
Hải quan từ những ngày đầu thành lập, nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh
tế, trật tự trong lĩnh vực Hải quản quản lý.

14


1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về quy định thẩm quyền điều tra hình
sự của Hải quan Việt Nam
1.2.1. Cơ sở lý luận
Bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia là ưu tiên hàng đầu của bất
kỳ quốc gia nào. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia mà các lĩnh vực
quản lý nhà nước có khác nhau. Tuy nhiên, ở những lĩnh vực quản lý quan
trọng thì quốc gia nào cũng giao cho những cơ quan quản lý có những thẩm
quyền và được thực hiện những biện pháp nhất định để thực thi nhiệm vụ, đặc
biệt là bảo vệ lợi ích quốc gia. Trong lĩnh vực an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích
quốc gia được thể hiện ở việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá sự bền vững của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, trong lĩnh vực này, Nhà nước ta giao
cho các cơ quan chuyên trách của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại
giao thực hiện các biện pháp đặc biệt để bảo vệ an ninh quốc gia (như áp
dụng các biện pháp tình báo, trinh sát, các biện pháp tạm giữ người...). Tương
tự, trong lĩnh vực Hải quan, bảo vệ lợi ích quốc gia được thể hiện ở việc bảo

vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải, đấu tranh
có hiệu quả đối với các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển
trái phép hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch
sử, văn hoá qua biên giới, Nhà nước cũng giao cho lực lượng Hải quan những
thẩm quyền và được thực hiện những biện pháp để đấu tranh đối với hành vi
xâm phạm trật tự quản lý nhà nước về hải quan, như xử phạt vi phạm hành
chính, điều tra hình sự...
Quản lý nhà nước là chức năng của cơ quan pháp hành pháp (Chính
phủ) chứ không phải của cơ quan tư pháp. Nếu như các cơ quan tư pháp là
những cơ quan giải quyết các tranh chấp xẩy ra trong xã hội liên quan đến

15


quyền lợi của nhà nước, các tổ chức và công dân thì cơ quan hành pháp chỉ có
chức năng quản lý nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc
sống, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật và xử lý theo quy định của
pháp luật hành chính. Tuy nhiên, những biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong nhiều trường hợp chưa đủ mạnh để nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước. Do vậy, pháp luật giao cho các cơ quan quản lý nhà nước
trong từng lĩnh vực nhất định có một số biện pháp để nâng cao hiệu quả quản
lý và hỗ trợ cho các cơ quan tư pháp đối với những hành vi vi phạm pháp luật
đến mức phải bị xử lý về hình sự. Sự hỗ trợ này thể hiện ở việc, Nhà nước
giao cho các cơ quan quản lý nhà nước này được quyền tiến hành một số hoạt
động điều tra hình sự, sau đó chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý
theo thủ tục tố tụng hình sự.
Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
hình sự không phải là cơ quan điều tra, mà là những cơ quan thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính nhà nước trong một số địa bàn, lĩnh vực nhất định.

Pháp luật tố tụng hình sự giao cho các cơ quan này được quyền tiến hành một
số hoạt động điều tra là vì tại các địa bàn, lĩnh vực đó thường xuyên xảy ra tội
phạm, Nhà nước đòi hỏi phải có phản ứng kịp thời xử lý theo pháp luật đối
với những hành vi phạm tội đó, vì vậy, cần phải giao cho các cơ quan quản lý
nhà nước được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra. Ví dụ, trong lĩnh
vực Hải quan, tình trạng buôn lậu, trốn thuế đối với các loại hàng hoá nhập
khẩu, xuất khẩu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới xẩy
ra thường xuyên. Trong những trường hợp này, cần thiết phải giao cho Hải
quan thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra để xử lý kịp thời đối với
các hành vi phạm tội xảy ra trong lĩnh vực này. Tương tự, đối với cơ quan
Kiểm lâm (trong quản lý bảo vệ rừng), Bộ đội biên phòng (trong quản lý biên

16


giới quốc gia), Cảnh sát biển (trong bảo vệ an ninh trật tư trên các vùng biển
của quốc gia).
Do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra không phải là cơ quan điều tra, mà là cơ quan quản lý hành chính nhà
nước, nên thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được giao cho Thủ
trưởng cơ quan để hoạt động điều tra có hiệu quả, không để lọt tội phạm, làm
oan người vô tội, tránh việc lạm quyền. Thủ trưởng các cơ quan này hoặc là
tự mình tiến hành, hoặc là phân công, uỷ nhiệm cho cấp phó thực hiện nhiệm
vụ điều tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động điều tra của
mình. Tuỳ theo tính chất, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc của đơn vị vũ trang mà thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra
được giao cho Thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ liên quan, ví dụ, đối với Bộ
đội biên phòng, thẩm quyền này được giao cho Cục trưởng Cục trinh sát biên
phòng; Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh; Trưởng đồn biên phòng
hoặc cấp phó của những người nêu trên được uỷ nhiệm khi Thủ trưởng vắng

mặt. Tương tự, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra
trong cơ quan Hải quan là Cục trưởng cục điều tra chống buôn lậu; Cục
trưởng cục kiểm tra sau thông quan; Cục trưởng Cục Hải quan cấp tỉnh; Chi
cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu; hoặc cấp phó của những người nêu
trên khi được phân công hoặc được uỷ nhiệm khi Thủ trưởng vắng mặt.
Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hải quan là
một trong những vấn đề được các Nhà nước quan tâm và tiến hành cải cách
thủ tục hành chính, xem đó như là một biện pháp để thúc đẩy hoạt động kinh
tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho doanh nghiệp.
Thủ tục hải quan ngày càng đơn giản hoá, thông thoáng hơn nhằm tạo điều
kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Lợi dụng các thủ tục thông thoáng về Hải
quan trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, những đối tượng buôn lậu luôn

17


tìm mọi cách để trốn thuế, vận chuyển hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
qua biên giới, bằng nhiều phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi gây thiệt
hại nghiêm trọng cho lợi ích của Nhà nước và ảnh hưởng đến đời sống nhân
dân. Khi lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã thông quan thì việc phát hiện, điều
tra các hành vi phạm tội gặp nhiều khó khăn, như hàng hoá đã qua biên giới
không thể bắt giữ, kiểm tra, đối chiếu... Vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc nhanh
chóng, kịp thời trong việc phát hiện, ngăn chặn hành vi phạm tội, tất cả các
nước trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng đều giao cho cơ quan Hải
quan có quyền khởi tố, điều tra, xử lý các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá qua biên giới.
Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan, cơ quan Hải
quan phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật như nhập khẩu hàng hoá không
khai báo, nhập khẩu hàng hoá không có giấy phép quản lý chuyên ngành theo
quy định của pháp luật.... Việc quy định cơ quan Hải quan có thẩm quyền

khởi tố vụ án thì cơ quan Hải quan cũng có trách nhiệm xem xét hành vi vi
phạm pháp luật hải quan có phải là tội phạm hay không. Nếu không phải là tội
phạm thì tiến hành xử lý vi phạm hành chính và thông quan hàng hoá. Như
vậy, Nhà nước giao thẩm quyền điều tra hình sự cho Hải quan, đồng thời gắn
liền trách nhiệm của Hải quan trong việc thông quan nhanh chóng tạo điều
kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Như vậy, cơ sở lý luận của quy định về thẩm quyền điều tra hình sự của
Hải quan Việt Nam được thể hiện rất rõ ở chỗ xuất phát từ bản chất hoạt động
của cơ quan Hải quan là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải; yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các hành vi buôn lậu,
gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá
quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá qua biên giới để bảo vệ an ninh

18


kinh tế, trật tự an toàn xã hội thì Nhà nước phải quy định cho cơ quan Hải
quan, công chức Hải quan có những quyền và nghĩa vụ nhất định, trong đó có
quyền tiến hành các hoạt động điều tra hình sự.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh phương tiện vận tải xảy ra thường xuyên ở tất
cả các địa bàn do cơ quan Hải quan quản lý. Trong số những hành vi vi phạm
này có nhiều hành vi cấu thành tội phạm. Các vụ án xảy ra trong lĩnh vực hải
quan như buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, trốn
thuế xuất nhập khẩu ... là những vụ án rất phức tạp, việc phát hiện, điều tra
hành vi phạm tội hết sức khó khăn. Điều đó đòi hỏi người cán bộ điều tra,
nhất là giai đoạn điều tra ban đầu, phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực
kinh tế, ngoại thương, nắm bắt kịp thời các chính sách quản lý nhà nước đối

với hoạt động xuất nhập khẩu, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, các quy định về biên giới quốc gia, các quy định về cửa khẩu quốc
tế, cửa khẩu chính, cửa khẩu phụ, lối mòn, lối mở cho hàng hoá, phương tiện
và người qua lại biên giới .
Điều 6 Luật Hải quan quy định địa bàn hoạt động của Hải quan bao gồm:
các cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế,
cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ
tục hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu
vực ưu đãi hải quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu trong lãnh thổ và trên các vùng biển thực hiện quyền chủ
quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông
quan và những địa bàn hoạt động hải quan khác do Chính phủ quy định.
Địa bàn hoạt động hải quan thường là nơi biên giới xa xôi, có địa hình
phức tạp. Một trong những yêu cầu đặt ra trong hoạt động đấu tranh với các

19


loại tội phạm trong lĩnh vực hải quan là nhanh chóng và kịp thời vì tội phạm
thường xảy ra tại các khu vực biên giới, cửa khẩu, do vậy nếu chậm trễ thì chỉ
cần thời gian rất ngắn bọn tội phạm sẽ ra khỏi Việt Nam và thoát khỏi tầm
kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong địa bàn hoạt động hải quan, cơ
quan Hải quan phải thường xuyên tuần tra, kiểm soát để phòng chống buôn
lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, Nhà nước phải trao cho cơ quan Hải quan “cây gậy pháp lý”, đó là được
quyền tiến hành các hoạt động điều tra hình sự để trấn áp bọn tội phạm.
Thực tế cho thấy từ ngày thành lập đến nay, tuỳ từng giai đoạn lịch sử,
ngành Hải quan có các tên gọi khác nhau, nhưng cơ quan Hải quan đều có
thẩm quyền khởi tố, điều tra các vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hoá qua biên giới, góp phần bảo vệ an ninh kinh tế của đất nước, tạo môi

trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo số
liệu thống kê từ 1998 đến năm 2006, Hải quan Việt Nam đã khởi tố 362 vụ,
chuyển cho cơ quan điều tra hàng trăm vụ để xem xét khởi tố vụ án. Các vụ
án do Hải quan khởi tố đã góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
hải quan nói chung, hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên
giới nói riêng.
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế thì hoạt động buôn lậu,
gian lận thương mại gia tăng. Các nước trên thế giới đều tăng cường hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực hải quan và ký kết các công ước quốc tế song phương,
cũng như đa phương để đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại. Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) đã tổ chức nhiều hội nghị về chống
buôn lậu và gian lận thương mại tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới để
trao đổi kinh nghiệm, cũng như cảnh báo các phương thức gian lận mới. Mặt
khác, qua nghiên cứu pháp luật các nước trên thế giới, cơ quan Hải quan các
nước đều được giao thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự đối với tội buôn

20


lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới ở các cấp độ khác nhau.
Do vậy, việc quy định thẩm quyền điều tra hình sự của Hải quan Việt
Nam phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay ở Việt
Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc quy định cho phép cơ quan Hải
quan có quyền tiến hành các hoạt động điều tra hình sự, khởi tố vụ án để áp
dụng các biện pháp cần thiết ngăn chặn đối tượng vi phạm xuất cảnh, nhập
cảnh là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia trong
lĩnh vực đối ngoại, ngoại thương để bảo vệ lợi ích quốc gia.
1.2.3. Thẩm quyền điều tra của Hải quan một số nước trên thế giới
Nhằm mục đích phòng, chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng
hoá, tiền tệ qua biên giới, pháp luật của các nước trên thế giới đều giao cho cơ

quan hải quan nhiều quyền hạn phù hợp với chức năng của mình để kiểm tra,
kiểm soát, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, trong đó
có thẩm quyền điều tra hình sự.
Qua nghiên cứu pháp luật các nước trên thế giới, để đấu tranh với tội
phạm phát sinh trong lĩnh vực hải quan, cơ quan Hải quan các nước đều được
giao thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự đối với tội buôn lậu và vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới ở các cấp độ khác nhau.
Theo Điều 112 Luật Hải quan Indonesia thì nhân viên hải quan được chỉ
định sẽ được trao thẩm quyền đặc biệt của nhân viên điều tra theo quy định
của Luật tố tụng hình sự năm 1981 để điều tra các tội phạm trong lĩnh vực hải
quan. Nhân viên điều tra có quyền: nhận báo cáo và thông tin của bất cứ
người nào liên quan đến việc phạm tội hải quan; triệu tập bất cứ người nào để
nghe với tư cách là nhân chứng hay để điều tra với tư cách là bị can; bắt giữ
và bắt người tình nghi đã thực hiện việc phạm tội hải quan; khám nơi ở, quần
áo hay kiểm thể. Nhân viên điều tra của cơ quan Hải quan Indonexia phải
thông báo việc bắt đầu điều tra và chuyển kết quả điều tra cho Viện trưởng

21


Viện Công tố tối cao theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo Điều 4 Luật Hải quan Trung Hoa thì Nhà nước thành lập bộ máy
công an chuyên trách trinh sát chống tội phạm buôn lậu trong Tổng cục Hải
quan. Bộ máy công an trinh sát chống tội phạm buôn lậu của Hải quan tiến
hành trinh sát, bắt giữ, dự thẩm theo quy định của Luật tố tụng hình sự nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Theo quy định tại Điều 5 Luật Hải quan
Trung Hoa thì tội buôn lậu do Cơ quan Công an trinh sát chống buôn lậu Hải
quan tiến hành điều tra. Các vụ án buôn lậu do các ngành chấp pháp hành
chính liên quan bắt được đều phải bàn giao cho cơ quan Hải quan.
Theo Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Nga thì cơ

quan Hải quan là một trong những cơ quan điều tra. Cơ quan Hải quan của
Cộng hòa liên bang Nga điều tra các tội phạm về buôn lậu, các tội phạm vi
phạm pháp luật Hải quan của liên bang Nga, tội trốn thuế hải quan.
Trong Luật Hải quan các nước như Philipin, Malaysia, Đài Loan, Nhật
Bản, Pháp... đều giao cho nhân viên hải quan thẩm quyền khá rộng trong hoạt
động điều tra các tội phạm trong lĩnh vực hải quan. Họ có quyền khám xét,
lục soát và tạm giữ hàng hoá, phưong tiện vi phạm. Điều 107 Luật Hải quan
Malaysia quy định “ Toà án có thể cấp lệnh cho Hải quan khám xét bất cứ lúc
nào, ngày hay đêm khi có căn cứ cho rằng: tại nhà ở, cửa hàng hay các địa
điểm khác có dấu diếm hay lưu giữ hàng hoá cấm hay chưa làm thủ tục hải
quan để tịch thu hàng hoá đó, tịch thu cả sổ sách, tài liệu liên quan. Được bắt
giữ người tại nhà ở, cửa hàng hay các địa điểm khác, nơi phát hiện đang sở
hữu hàng hoá nói trên”. Theo Điều 216 Luật Hải quan Hàn Quốc thì việc điều
tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những tội phạm trong lĩnh vực
hải quan đều do cơ quan hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm.
Như vậy, Hải quan các nước có quyền tiến hành điều tra đối với tất cả
các tội phạm xẩy ra trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, đặc biệt một

22


số nước như Nga, Trung Quốc thì Hải quan có quyền điều tra tất cả các tội
liên quan đến hoạt động hải quan, kết thúc điều tra chuyển cho cơ quan Công
tố để truy tố. Việc Nhà nước ta giao cho cơ quan Hải quan Việt Nam được
quyền tiến hành một số hoạt động điều tra đối với tội buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới, là tương tự với quy định của các quốc gia
trên thế giới và phù hợp với xu hướng quốc tế hiện nay.
1.3. Quy định của pháp luât Việt Nam về thẩm quyền điều tra hình
sự và quan hệ phối hợp trong tổ chức điều tra của cơ quan Hải quan
1.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra

của Hải quan Việt Nam
Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, khi phát
hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong
lĩnh vực quản lý của mình thì Hải quan có thẩm quyền: đối với tội phạm ít
nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người
phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành
điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai
mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng
nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành hoặc hoạt động điều
tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Trên cơ sở quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004 đã quy định Hải quan có quyền khởi tố vụ án
và tiến hành các hoạt động điều tra đối với 2 tội danh: Tội buôn lậu theo Điều
153 và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo Điều 154 Bộ luật
hình sự năm 1999. Theo quy định tại Điều 20 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình
sự, Cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình

23


mà phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự
thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau
thông quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu có quyền, đối với tội
phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai
lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, thu
giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án,
khám người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan, trưng

cầu giám định khi cần thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra
khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra và chuyển hồ
sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng
phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo
quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, khám người, khám nơi
oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án.
Như vậy, thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự thì có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cơ quan Hải quan chỉ có quyền khởi tố và tiến hành một số
hoạt động điều tra hình sự đối với tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới.
Đối với một số hàng hoá có tính chất quản lý đặc biệt như vũ khí, ma
tuý, chất độc... cho nên hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới được quy định thành các tội phạm riêng. Do vậy, cơ quan Hải quan
không có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đối với các tội phạm này.

24


×