Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã theo luật hợp tác xã năm 2003 luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 78 trang )

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

-

HTX: Hợp tác xã
DN: Doanh nghiệp
BHXH: bảo hiểm xã hội
NXB: Nhà xuất bản
ICA: Liên minh Hợp tác xã quốc tế

2


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

4

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
XÃ VIÊN HTX

8

1.1. Khái niệm xã viên HTX. So sánh xã viên HTX với thành viên các loại
hình doanh nghiệp khác
1.1.1. Khái niệm xã viên HTX
1.1.2. So sánh xã viên HTX với thành viên các loại hình doanh nghiệp khác

8
8


14

1.2. Sự phát triển của chế định quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
1.2.1. Chế định quyền và nghĩa vụ xã viên HTX trong giai đoạn từ 1945 đến
1958
1.2.2. Chế định quyền và nghĩa vụ xã viên HTX trong giai đoạn từ 1958 đến
1988
1.2.3. Chế định quyền và nghĩa vụ xã viên HTX trong giai đoạn từ 1988 đến
nay
1.3. Khái quát về các quy định pháp lý về quyền và nghĩa vụ của thành viên
HTX ở một số nước trên thế giới

17
17
18
22

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
XÃ VIÊN HTX

29

2.1. Quyền của xã viên HTX
2.1.1. Quyền của xã viên theo Điều 18 Luật HTX 2003
2.1.2. Các quyền quan trọng khác của xã viên trong Luật HTX 2003 (ngoài
Điều 18)

29
29
56


2.2. Nghĩa vụ của xã viên HTX
2.3. Thực trạng thi hành pháp luật về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX

61
76

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA XÃ VIÊN HTX

80

26

3.1. Phương hướng chung nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của xã viên HTX
3.2. Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của xã viên HTX

80
85
91

KẾT LUẬN

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã được tiến hành gần 20 năm. Tiến
trình này đã đặt ra những vấn đề mới, mang đến những nhận thức mới, đòi hỏi
sự hoàn thiện không ngừng của hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật kinh
tế. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung các đạo luật về doanh nghiệp (Luật Doanh
nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước), Luật HTX 1996 cũng đã được sửa đổi,
bổ sung một cách cơ bản, trở thành một đạo luật mới, Luật HTX 2003 (có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/7/2004).
Tại đạo luật này, nhiều tư tưởng mới, nhận thức mới về HTX đã được
thể chế hoá, trong đó có chế định về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX. Đây
là một bước phát triển mới trong tư duy lý luận và pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của xã viên HTX. Việc tìm hiểu để thống nhất nhận thức và thi hành các
quy định về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX là cần thiết không những
trong công tác nghiên cứu, lý luận mà còn hữu ích đối với cơ quan quản lý nhà
nước các cấp, cán bộ quản lý HTX và đối với từng xã viên. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài Quyền và nghĩa vụ của thành viên HTX theo Luật HTX 2003 là
cấp thiết, có tính thời sự, đáp ứng yêu cầu của việc thi hành đạo luật này trong
cuộc sống.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
HTX đã xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam trong suốt hơn 50 năm qua.
Thực tế đã cho thấy HTX hàm chứa và phản ánh các vấn đề lịch sử, chính trị,
kinh tế và xã hội. Chính điều đó khiến cho HTX trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học dưới những góc độ khác nhau.
Tình hình phát triển của khu vực kinh tế HTX trong những năm qua và
quá trình xây dựng, ban hành Luật HTX đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều người, trong đó có các nhà nghiên cứu với một số các đề tài khoa học
như:


4


- Luận cứ khoa học về đổi mới tổ chức, hoạt động và quản lí HTX trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta - Hà nội 1995 (Đề tài KX.03.15 do Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Quýnh chủ nhiệm đề tài);
- Phát triển và đổi mới quản lí HTX theo Luật HTX - Hà nội, 1997 (Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Bích - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu
quản lí kinh tế Trung ương);
- Kinh tế hợp tác - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn - Hà nội - 1998 (Hội
đồng Trung ương Liên minh các HTX Việt Nam)...
Trong nghiên cứu chuyên ngành, những năm gần đây đã có một số luận
văn thạc sĩ luật học và một số ít luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu về HTX từ
nhiều góc độ khác nhau, ví dụ:
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Ngọc Hà, 1997 “Chế độ pháp
lí xã viên hợp tác xã - Những vấn đề lí luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sĩ
luật học của Phan Hùng Dũng, 1997 “So sánh Luật Hợp tác xã ở một số nước
trên thế giới”; Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Thị Vịnh, 1999 “Một số
vấn đề pháp lí cơ bản trong quá trình chuyển đổi hợp tác xã”; Luận văn thạc
sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh Lê, 2000 “Pháp luật về hợp tác xã - thực
trạng và phương hướng hoàn thiện”; Luận án tiến sĩ luật học của Trần Thị
Thơ, 2001 “Những vấn đề pháp lí về đổi mới tổ chức và quản lí các hợp tác
xã”.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy:
Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều chuyên gia nghiên cứu về HTX từ
nhiều góc độ khác nhau, song còn rất ít chuyên gia nghiên cứu về quyền và
nghĩa vụ của xã viên HTX. Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu cũng
như các bài viết về vấn đề này vừa ít, vừa thiếu tính chuyên sâu.
Đặc biệt, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu

sắc, toàn diện và có hệ thống về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX theo Luật
HTX 2003.

5


Do đó, việc nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX theo
Luật HTX năm 2003 và trong tổng thể pháp luật về HTX ở Việt Nam là một
vấn đề mới trong khoa học pháp lý.
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm chứng minh và khẳng định
quyền và nghĩa vụ của thành viên HTX theo Luật HTX 2003 là một bước phát
triển mới về chất địa vị pháp lý của xã viên HTX; đồng thời, luận văn cũng
đóng góp một số ý kiến để pháp luật về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
ngày càng được hoàn thiện hơn và được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là chế định quyền và nghĩa vụ
của thành viên HTX theo Luật HTX 2003 và các văn bản dưới luật.
Về phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung
mới của chế định quyền và nghĩa vụ của thành viên HTX theo Luật HTX 2003
trên cơ sở so sánh với các quy định trước đó; đồng thời nghiên cứu những
điểm tương đồng cũng như khác biệt trong quyền và nghĩa vụ giữa xã viên
HTX với thành viên trong các loại hình doanh nghiệp khác; giữa xã viên HTX
của Việt Nam và xã viên HTX của một số nước.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
củng cố và phát triển HTX, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp
so sánh đối chiếu; phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn.

6. Điểm mới của luận văn
Những đóng góp mới của luận văn là:
Phân tích những nội dung mới của quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
theo Luật HTX 2003 và các văn bản dưới luật.
6


So sánh giữa quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX với quyền và nghĩa vụ
của thành viên trong các loại hình doanh nghiệp khác; với quyền và nghĩa vụ
của xã viên HTX của một số nước.
Phát hiện những điểm còn bất cập trong các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX và đề xuất phướng hướng hoàn thiện các
quy định pháp luật này.

7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của xã
viên HTX

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA XÃ VIÊN HỢP TÁC XÃ
1.1. Khái niệm xã viên HTX. So sánh xã viên HTX với thành viên của các
loại hình doanh nghiệp khác

1.1.1. Khái niệm xã viên HTX:
Trong suốt hơn 50 năm hình thành và phát triển HTX, từ “xã viên” luôn
được sử dụng để chỉ các đối tượng tham gia HTX với tư cách là thành viên.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thực tế và nhận thức, nội hàm của khái
niệm “xã viên” trong Luật HTX 2003 đã có sự mở rộng và phát triển đáng kể
so với khái niệm “xã viên” được dùng trước 1/7/2003. Cho đến trước Luật
HTX 2003, xã viên HTX bao gồm 2 đối tượng: cá nhân hoặc hộ gia đình.
Trong Luật HTX 1996, khái niệm này cũng vẫn còn được sử dụng chưa nhất
quán: Điều 1 quy định đối tượng tham gia HTX là “những người lao động”
(tức là những cá nhân) trong khi Điều 22 quy định “công dân” hoặc “hộ gia
đình” có thể trở thành xã viên HTX.
Để có thể hiểu được một cách đầy đủ và chính xác khái niệm “xã viên
HTX”, cần xem xét vấn đề này từ ba góc độ sau: đối tượng tham gia HTX,
động cơ, mục đích tham gia HTX của họ và các điều kiện mà họ phải thoả mãn
để có thể tham gia HTX:
a/ Đối tượng tham gia HTX:
Quán triệt chủ trương mở rộng đối tượng tham gia HTX, Điều 1 Luật
HTX 2003 đã bổ sung: đối tượng được tham gia HTX bao gồm “cá nhân, hộ
gia đình, pháp nhân”.
Đối tượng là cá nhân được tham gia HTX theo Điều 17 Luật HTX bao
gồm cả “cán bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là xã viên
theo quy định của Điều lệ hợp tác xã”. Như vậy, đây là đối tượng mới được
tham gia HTX. Việc mở rộng đối tượng tham gia HTX cho cán bộ công chức
8


như vậy là phù hợp với Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998. Tuy nhiên, để
tránh hiện tượng các cán bộ, công chức không chuyên tâm đến công việc nhà
nước mà chuyển sang chủ yếu làm việc cho HTX, gây ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước, Điều 17 Luật HTX đã giới hạn quyền tham

gia của họ “không trực tiếp quản lý và điều hành HTX”. Giới hạn này đã được
cụ thể và chi tiết hoá trong Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12/10/2004
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HTX, bao gồm
“không được giữ các chức danh: Trưởng Ban quản trị và thành viên Ban quản
trị; Trưởng Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát; Chủ nhiệm, Phó chủ
nhiệm HTX; kế toán trưởng hoặc kế toán viên và các cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ của HTX”. Như vậy, cán bộ, công chức chỉ có thể tham gia HTX
như một xã viên bình thường bằng cách “góp vốn theo quy định của Điều lệ
HTX; góp sức dưới hình thức trực tiếp tham gia lao động sản xuất, tư vấn
cung cấp kiến thức, kinh doanh và khoa học kỹ thuật cho HTX” (điểm b,
khoản 2, Điều 10, Nghị định số 177). Ngoài ra, Nghị định số 177 cũng quy
định thêm một số giới hạn đối với đối tượng là cán bộ, công chức như: chỉ
được tham gia HTX khi có sự đồng ý bằng văn bản của thủ trưởng cơ quan
trực tiếp quản lý; các cán bộ, công chức đang làm việc trong các lĩnh vực
thuộc bí mật nhà nước, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong các
đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân không được là xã viên HTX.
Một bước phát triển quan trọng khác của Luật HTX 2003 về phạm vi
đối tượng được tham gia HTX là “pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy
định của Điều lệ hợp tác xã”. Thực tiễn hoạt động kinh tế trong những năm
qua cho thấy tính đa dạng về chủ thể của các tổ chức kinh tế, trong đó có sự
tham gia của pháp nhân trong quá trình hoạt động của HTX. Cụ thể hoá thực
tiễn này, Luật HTX 2003 đã mở rộng đối tượng tham gia HTX bao gồm cả
pháp nhân. Quy định này thực tế tuy vượt quá quy định của Hiến pháp 2001 và
Bộ Luật Dân sự 2004 nhưng do chế độ sở hữu của HTX vừa dựa trên nền tảng
sở hữu tập thể là chủ yếu, vừa dựa trên cả sở hữu của các thành viên, nên việc
khuyến khích pháp nhân tham gia HTX là phù hợp và cần thiết. Theo Nghị
9


định số 177/2004/NĐ-CP, pháp nhân tham gia HTX là “các tổ chức, cơ quan

(trừ quỹ xã hội, quỹ từ thiện) theo quy định của Bộ Luật Dân sự và theo quy
định của Điều lệ Hợp tác xã”, và phải “góp vốn, góp sức theo quy định của
Điều lệ hợp tác xã”. Riêng các cơ quan nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng
vũ trang nhân dân không được sử dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ để
góp vốn vào HTX.
Việc quy định bổ sung hai đối tượng mới được tham gia HTX là cán bộ,
công chức và pháp nhân có ý nghĩa rất lớn, thể hiện một cách nhìn mới đối với
HTX, coi HTX không chỉ là một tổ chức kinh tế tập thể mà còn là một tổ chức
kinh tế “hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”. Việc mở rộng này không
đơn thuần chỉ có ý nghĩa các đối tượng rộng rãi trong xã hội đều có quyền
tham gia HTX, tăng cường tính phổ biến của HTX trong đời sống kinh tế nước
ta mà còn nhằm mục đích thu hút rộng rãi nhân tài, vật lực cũng như những
nguồn lực, điều kiện khác trong xã hội của cả cá nhân và pháp nhân để nâng
cao tiềm lực và phát triển HTX.
b/ Động cơ, mục đích tham gia HTX của các đối tượng:
Động cơ, mục đích tham gia HTX của các xã viên được quy định rõ
trong Điều 1 Luật HTX 2003: “có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn,
góp sức… để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước”. Đây cũng chính là tôn chỉ, mục đích của HTX, nó tạo nên sự khác nhau
cơ bản giữa HTX và các loại hình doanh nghiệp khác.
Nguyên nhân thúc đẩy các đối tượng cùng nhau góp vốn, góp sức để
tham gia HTX, đó là vì họ “có nhu cầu, lợi ích chung”. Nhu cầu, lợi ích chung
này của họ khác với nhu cầu, lợi ích chung của thành viên các loại hình doanh
nghiệp khác ở chỗ họ tham gia HTX không phải với mục đích chính là tìm
kiếm lợi nhuận từ vốn góp mà để “phát huy sức mạnh tập thể,… cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh”. Sở dĩ có mục
đích này vì phần lớn những người tham gia HTX là những người lao động, họ
10



có vốn nhưng không nhiều, họ có sức lao động, mong muốn được làm việc và
tìm kiếm cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống về mọi mặt. Họ thấy rằng làm
ăn cá thể không hiệu quả bằng cùng hợp tác với nhau trong một tổ chức kinh tế
để phát huy sức mạnh tập thể. Chính vì mục đích này mà HTX luôn đề cao các
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và hợp tác trong tổ chức và hoạt động của
mình. Ngay từ ban đầu, khi mới xuất hiện ở Anh và Đức vào nửa cuối thế kỷ
19, HTX “do phần lớn những người có thu nhập thấp thành lập để cải thiện
cuộc sống và tăng sự tự tin” [3, tr.9]. Luật HTX của các nước cũng luôn nhấn
mạnh đến tính hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Luật HTX
của Indonexia định nghĩa HTX “là tổ chức kinh tế của nhân dân mang tính xã
hội… đặt trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”. Luật HTX của Singapore
quy định HTX là một hiệp hội nhằm mục đích thúc đẩy lợi ích của các thành
viên theo nguyên tắc hợp tác xã. Như vậy, đặc trưng của HTX là thông qua
hoạt động kinh tế để “liên kết các thành viên với nhau nhằm hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau tiến hành công việc kinh doanh có hiệu quả theo nguyên tắc hợp tác
xã” [3, tr.24].
Chính vì mục tiêu tham gia HTX để hợp tác, hỗ trợ nhau kinh doanh có
hiệu quả hơn mà HTX có khả năng thu hút được đông đảo các lực lượng lao
động trong xã hội tham gia. Sự phát triển của HTX còn có ý nghĩa to lớn đối
với cộng đồng. Đặc biệt, thông qua HTX, các chính phủ có thể giải quyết các
mục tiêu xã hội cho cộng đồng, như: công ăn việc làm, nhà ở, chữa bệnh, mua
bán hàng hoá... Và ngược lại, từ phía mình, HTX cũng góp phần giúp Chính
phủ giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết yếu của xã hội.
c/ Các điều kiện để trở thành xã viên HTX:
Khoản 1 điều 17 Luật HTX 2003 quy định bảy điều kiện để một cá nhân
có thể trở thành xã viên HTX:
1) Công dân Việt Nam. Quy định này của Luật HTX Việt Nam cũng giống
với quy định của hầu hết các nước.


11


2) Mười tám tuổi trở lên. Một số nước quy định độ tuổi tham gia HTX thấp
hơn đối với một số loại hình HTX, như Singapore cho phép học sinh từ
12 tuổi trở lên có thể là xã viên HTX trường học.
3) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ là người có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên)
đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ những người bị Toà án ra
quyết định tuyên bố mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Ngoài ra, Nghị định số 177/NĐ-CP còn quy định các đối tượng bị pháp
luật hạn chế năng lực hành vi dân sự và không được là xã viên HTX: cá
nhân đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cá nhân đang phải chấp hành
hình phạt tù, cá nhân bị Toà án tước quyền hành nghề do phạm các tội
theo quy định của pháp luật và cá nhân đang trong thời gian chấp hành
quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
4) Góp vốn. Vốn góp có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, tài sản, quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy tờ có giá khác. Mức vốn
góp theo quy định của Điều lệ HTX.
5) Góp sức. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng người và tuỳ theo yêu cầu
của HTX. Có thể góp sức dưới nhiều hình thức khác nhau, như trực tiếp
quản lý, trực tiếp tham gia lao động sản xuất, tư vấn cung cấp kiến thức
kinh doanh và khoa học kỹ thuật cho HTX…
6) Tán thành Điều lệ HTX, nghĩa là thừa nhận các nguyên tắc HTX, các
nội dung đã ghi trong Điều lệ của HTX mà cá nhân đó định tham gia, có
nghĩa vụ thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc và quy định khi đã trở
thành xã viên HTX.
7) Tự nguyện xin gia nhập HTX. Người muốn tham gia HTX phải viết đơn

xin gia nhập HTX để Ban Quản trị xét kết nạp và báo cáo Đại hội xã
viên thông qua, đảm bảo việc gia nhập HTX hoàn toàn không có sự ép
buộc nào. Tự nguyện chính là nguyên tắc hàng đầu của HTX. Ngay từ
những ngày đầu hình thành và phát triển các tổ đổi công – hình thức sơ
12


khai của HTX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Nguyên tắc tổ đổi
công: không được cưỡng ép ai hết… ai muốn vào thì vào, tuyệt đối
không được ép buộc ai…” [2, tr.35].
“Tự nguyện xin gia nhập hợp tác xã” là kết quả của việc “tán thành Điều
lệ hợp tác xã”. Chính vì thế mà hai điều kiện này luôn gắn liền nhau.
Nguyên nhân xuất phát từ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động, phân chia
lợi nhuận… của HTX: lãi chia theo vốn góp thường hạn chế; xã viên
được hưởng lãi không chỉ theo vốn góp mà còn theo công sức đóng góp
và mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; mỗi xã viên chỉ có một phiếu biểu
quyết, không phụ thuộc vào số vốn góp… Người muốn tham gia HTX
cần hiểu rõ các nguyên tắc trên để đảm bảo họ không nhầm lẫn rằng
tham gia HTX, họ cũng đạt được mục đích về lợi nhuận như tham gia
bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác. Chỉ khi nào hiểu rõ và tán thành
Điều lệ HTX thì sự tham gia của cá nhân vào HTX mới thực sự là tự
nguyện.
Điểm mới của Luật HTX 2003 là quy định về điều kiện tham gia HTX
của hộ gia đình và pháp nhân. Đó là: “hộ gia đình, pháp nhân phải cử người
đại diện” và người đại diện cũng phải “có đủ điều kiện như đối với cá nhân”
được trình bầy ở trên. Như vậy, về bản chất, điều kiện tham gia HTX đối với
cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật HTX được áp dụng chung cho cả
ba đối tượng là cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân.
Luật HTX 1996 tuy quy định hộ gia đình có thể trở thành xã viên HTX,
song lại không quy định về điều kiện hộ gia đình phải cử người đại diện. Do

Luật không quy định việc cử người đại diện nên hộ gia đình tham gia HTX và
các giao lưu dân sự thông qua chủ hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tuy
nhiên, trong thực tế có nhiều hộ gia đình mà các thành viên (thường là anh chị
em hoặc con cái đã thành niên và đã có gia đình riêng, đã đăng ký hộ khẩu
theo gia đình riêng của mình) tuy có tài sản chung để hoạt động kinh tế (ví dụ
ruộng đất, cửa hàng, cơ sở sản xuất…) nhưng lại không trong cùng một hộ
theo quy định về hộ khẩu hộ tịch. Như vậy sẽ không có một “chủ hộ” cho các
13


thành viên đó. Việc quy định hộ gia đình phải cử người đại diện khi tham gia
HTX của Luật Hợp tác xã 2003 đã giải quyết được bất cập trên và mở rộng
hơn khả năng tham gia HTX của các hộ gia đình. Ngoài ra, để đảm bảo rằng
các thành viên khác của hộ gia đình đều nhất trí cử một người làm đại diện,
Nghị định số 177/2004/NĐ-CP quy định việc cử người đại diện của hộ gia
đình phải “bằng giấy uỷ quyền”.
Đối với pháp nhân, Nghị định số 177/2004/NĐ quy định người đứng tên
trong đơn (xin gia nhập HTX) phải là đại diện theo pháp luật của pháp nhân
hoặc người được uỷ quyền. Người được uỷ quyền phải là người trong bộ máy
lãnh đạo của pháp nhân. Việc quy định người đại diện của pháp nhân như vậy
là để đảm bảo sự tham gia chắc chắn, có trách nhiệm, có hiệu quả của pháp
nhân vào HTX.
Có thể nói, bằng việc quy định về người đại diện được uỷ quyền của hộ
gia đình và người đại diện theo pháp luật (hoặc người được uỷ quyền hợp
pháp) của pháp nhân, Luật HTX 2003 đã xác định được cầu nối giữa HTX với
hộ gia đình và pháp nhân; hay nói cách khác, xác định cụ thể cơ chế tham gia
HTX của hai đối tượng này. Sự tham gia của hộ gia đình và pháp nhân vào
HTX, trên thực tế được thực hiện thông qua các cá nhân cụ thể. Luật HTX
2003 đã chỉ rõ người thay mặt cho hộ gia đình và pháp nhân phải chịu trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với HTX.

1.1.2. So sánh xã viên HTX với thành viên của các loại hình doanh nghiệp
khác:
Để so sánh xã viên HTX với thành viên các loại hình DN khác, cần phân
tích vấn đề từ hai góc độ: đối tượng tham gia HTX hoặc DN và các điều kiện,
cách thức tham gia HTX hoặc DN của các đối tượng.
a/ Đối tượng tham gia HTX hoặc DN:
Trước hết, khác với HTX, tất cả các loại hình DN đều không có hộ gia
đình tham gia với tư cách là thành viên. Có thể nói, thành viên hộ gia đình là
một nét rất đặc thù của HTX. Việc hộ gia đình có thể là thành viên HTX phản
14


ánh vai trò kinh tế hộ gia đình và tập quán làm ăn theo qui mô và mô hình gia
đình đã tồn tại từ lâu đời ở nước ta.
Với đối tượng tham gia là các tổ chức, cũng có sự khác nhau giữa HTX
và các loại hình DN khác. Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân không
có thành viên là tổ chức: “thành viên hợp danh phải là cá nhân” và “doanh
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ”. Công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần đều có thành viên là tổ chức. Nhưng nếu so
với đối tượng tham gia là “pháp nhân” của HTX thì đối tượng tham gia là “tổ
chức” của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phạm vi rộng rãi
hơn. Thậm chí phạm vi này còn được mở rộng tới cả các tổ chức nước ngoài
không thường trú ở Việt Nam đối với quyền góp vốn vào doanh nghiệp. Tổ
chức nước ngoài không thường trú ở Việt Nam chỉ bị hạn chế quyền thành lập
và quyền quản lý doanh nghiệp. Quy định chỉ có “pháp nhân” (và ở đây có thể
hiểu là pháp nhân Việt Nam) mới có thể là xã viên HTX chứ không phải là “tổ
chức” nói chung xuất phát từ quan điểm của các nhà làm luật muốn có một sự
tham gia có đảm bảo hơn vào HTX, khi một tổ chức đã được công nhận là
pháp nhân với đầy đủ các điều kiện theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2004.
Với đối tượng tham gia là cá nhân, có khá nhiều sự khác nhau giữa HTX

với các loại hình DN khác. Trước hết, đối với cán bộ, công chức, Luật HTX
2003 chỉ hạn chế quyền trực tiếp quản lý, điều hành HTX chứ không hạn chế
quyền thành lập HTX. Trong khi đó, Luật DN quy định rất rõ cán bộ, công
chức không được thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Đối với các cá nhân khác, Luật HTX cũng “thông thoáng” hơn Luật DN.
Ví dụ, Luật DN quy định thêm một số đối tượng là cá nhân không được tham
gia thành lập và quản lý doanh nghiệp như: cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ
trong các doanh nghiệp nhà nước; chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành
viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của các doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người
quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ một đến ba năm… Hay như yêu cầu
15


của Luật DN đối với công ty hợp danh là cá nhân “phải có trình độ chuyên
môn và uy tín nghề nghiệp”. Như vậy, phạm vi đối tượng là cá nhân tham gia
DN bị hạn chế hơn so với phạm vi đối tượng là cá nhân gia nhập HTX.
b/ Điều kiện tham gia HTX hoặc DN:
Để trở thành xã viên HTX, trước hết, cá nhân phải là công dân Việt
Nam. Trong khi đó, Luật DN cho phép người nước ngoài thường trú ở Việt
Nam có quyền góp vốn, thành lập và quản lý DN. Quy định về việc chỉ công
dân Việt Nam mới có thể là xã viên HTX xuất phát từ thực tế và từ bản chất
của HTX là một tổ chức kinh tế-xã hội của những người lao động trong cộng
đồng, cùng góp vốn, góp sức để phát huy sức mạnh tập thể nhằm giải quyết
các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội của họ, không phải vì mục đích tối thượng
là lợi nhuận. HTX mang nặng tính tập thể và cộng đồng. Xã viên HTX phải có
sự “góp sức”, tham gia trực tiếp làm việc cho HTX với các hình thức khác
nhau chứ không chỉ “góp vốn” vì mục đích lợi nhuận. Với những đặc trưng đó,
HTX không phù hợp với người nước ngoài. Chính vì thế mà Luật HTX đã quy

định xã viên là “công dân Việt Nam” để phù hợp với thực tế.
Trong các điều kiện để cá nhân có thể trở thành xã viên HTX, điều kiện
“góp sức” là đặc thù nhất. Thành viên của DN có thể chỉ cần góp vốn, không
nhất thiết phải góp sức. Nếu một cá nhân không muốn hoặc không có khả năng
góp sức mà có vốn và muốn có lợi nhuận, cá nhân đó có thể tham gia các loại
hình DN đối vốn. Trong thực tế, những người tham gia sản xuất kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận chắc sẽ không gia nhập HTX - một tổ chức không đặt mục
tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Việc quy định điều kiện người lao động gia nhập
HTX không chỉ góp vốn mà còn phải góp sức một lần nữa khẳng định bản chất
của HTX là tổ chức của những người lao động, những người có vốn nhưng
không nhiều, có sức lao động và muốn được làm việc nhưng họ thấy rằng làm
việc cá thể không hiệu quả, không có lợi bằng làm việc tập thể nên đã tự
nguyện tập hợp lại với nhau trong một tổ chức kinh tế tập thể.
So sánh hai khái niệm xã viên HTX và thành viên DN giúp hiểu rõ hơn
bản chất HTX là một tổ chức kinh tế – xã hội của “đông đảo nhân dân lao
16


động và cộng đồng địa phương tham gia” [3, tr.10], HTX là “tổ chức của
những đối tượng tự nguyện hợp lại với nhau, nhằm giải quyết các vấn đề về
kinh tế, văn hoá, xã hội của họ, dưới một tổ chức kinh tế được sở hữu tập thể
và quản lý dân chủ” [13, tr.7].
1.2. Sự phát triển của chế định quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX
Quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX chỉ phát sinh sau khi cá nhân, hộ
gia đình, pháp nhân gia nhập HTX theo Quyết định của Đại hội xã viên. Có thể
hiểu quyền của xã viên HTX là những điều mà pháp luật hoặc Điều lệ HTX
công nhận cho xã viên được hưởng, được làm, được đòi hỏi HTX. Tương tự
như vậy, nghĩa vụ của xã viên HTX là việc mà pháp luật hay Điều lệ HTX yêu
cầu, bắt buộc xã viên phải làm đối với HTX. Quyền của xã viên HTX luôn đi
liền với nghĩa vụ của họ đối với HTX. Việc thực hiện nghĩa vụ chính là điều

kiện tiên quyết để tạo ra tiền đề vật chất bảo đảm cho việc thực hiện các
quyền. Mỗi quyền của xã viên luôn tương ứng với một nghĩa vụ của HTX và
ngược lại.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX không phải là khái niệm
“bất biến” mà trong suốt hơn 50 năm qua, nó luôn được mở rộng và phát triển
cùng với sự phát triển của HTX.
1.2.1. Chế định quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX trong giai đoạn từ 1945
đến 1958:
Trong giai đoạn này, Nhà nước ta tập trung sức người, sức của cho cuộc
kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp, vì vậy chưa có điều kiện tập trung
vào việc tổ chức và xây dựng kinh tế. Vào cuối giai đoạn này, các doanh
nghiệp tập thể mới được tổ chức với những mô hình đơn giản, trình độ thấp
như tổ đổi công, vần công, HTX bậc thấp trong lĩnh vực nông nghiệp và một
số ngành tiểu thủ công nghiệp. Trong giai đoạn này chưa có các văn bản pháp
luật quy định chi tiết về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các
HTX.

17


Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám, để phục vụ mục đích tuyên truyền,
cổ động cho HTX lúc đó đang còn là một khái niệm rất mới mẻ đối với người
dân, sách báo và công tác tuyên truyền, vận động đều tập trung nhấn mạnh vào
khía cạnh quyền lợi của người dân khi tham gia HTX. Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong “Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam” ngày 11/4/1946 đã viết: “nông
dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có HTX. HTX là gì? Nói
tóm lại, HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc
ít mà ích lợi nhiều. Vì vậy HTX nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà
nông… HTX nông nghiệp là một cách làm cho nhà nông đoàn kết, làm cho nhà
nông thịnh vượng. HTX nông nghiệp giúp cho nhà nông đạt đến mục đích, đã

ích quốc lại lợi dân. Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây
chụm lại nên hòn núi cao” [2, trang 19].
Khái niệm quyền xã viên lúc đó chủ yếu được gắn với các quyền lợi về
kinh tế và được hiểu khá nôm na, đơn giản: tham gia tổ đổi công là để giúp đỡ
lẫn nhau, cùng chung sức, cùng góp tư liệu sản xuất, ai có gì góp nấy, như vậy
ai cũng có điều kiện để sản xuất, ai cũng được giúp đỡ. Ngoài quyền lợi kinh
tế, “nếu tăng gia nhiều nhất trong địa phương, thì Chính phủ còn khen thưởng
nữa. Thế là đã được lợi, lại được danh” [2-tr.42]. Tương tự như vậy, khái
niệm nghĩa vụ cũng rất giản dị, dễ hiểu: phải đoàn kết trong tổ đổi công; tổ
chức thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm để ích nước lợi nhà, khai đúng,
nộp đủ thuế nông nghiệp… Trong điều kiện hơn 90% dân số mù chữ và còn
đói nghèo sau Cách mạng Tháng Tám, khái niệm về HTX và kinh tế tập thể lại
hết sức mới mẻ thì khái niệm quyền và nghĩa vụ còn đơn giản, mộc mạc, chủ
yếu gắn liền với quyền lợi và nghĩa vụ vật chất là điều dễ hiểu. Trong suốt giai
đoạn này không có các quy định pháp lý mang tính hệ thống về HTX cũng như
về quyền và nghĩa vụ của xã viên. Vấn đề HTX và xã viên chỉ được quy định
rải rác, lẻ tẻ trong các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện… của Đảng và một số
chính sách của Nhà nước.
1.2.2. Chế định quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX trong giai đoạn từ 1958
đến 1988:
18


Trong giai đoạn này có các phong trào tập thể hoá ở Miền Bắc (19591960) và ở Miền Nam (1975-1985). Tổ chức và hoạt động của các HTX trong
giai đoạn này có những đặc điểm:
- Tập thể hoá triệt để các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã viên HTX
- Tập trung hoá cao độ trong sản xuất, kinh doanh
- Nhà nước giao nhiều chỉ tiêu pháp lệnh cho các HTX
- Phân công lao động theo phương thức chuyên môn hoá cho từng đơn vị,
cá nhân. HTX trong một số ngành, nghề dùng công điểm để làm cơ sở

cho việc phân phối thu nhập
- Các HTX phải trợ cấp cho nhiều đối tượng thuộc diện chính sách được
ưu tiên. Có lúc, có nơi HTX bị coi như một tổ chức xã hội.
Trong giai đoạn này, các HTX đã tập hợp được hàng chục triệu lao
động, tạo ra khối lượng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập quốc dân.
Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước đã từng bước ban hành những văn
bản pháp luật quy định tương đối đầy đủ, chi tiết và cụ thể về địa vị pháp lý,
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, các quyền và nghĩa vụ của xã
viên HTX. Trước thực tế phát triển nhanh và mạnh cả về số lượng cũng như
qui mô HTX, nhu cầu phải hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý HTX đã đặt
ra yêu cầu phải xây dựng và hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
xã viên. Khái niệm quyền và nghĩa vụ đã được mở rộng, nâng cao và cụ thể
hoá hơn. Ngoài quyền lợi về kinh tế, xã viên đã được quan tâm đến những
quyền lợi chính trị, xã hội, văn hoá khác như: được giáo dục chính trị tư tưởng
để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa; được lựa chọn và
bầu ra Ban quản trị HTX; được dân chủ bàn bạc và được hỏi ý kiến về công
việc trong HTX; được công khai tài chính thu chi của HTX; được phân phối
theo lao động và được hưởng các phúc lợi như nhà trẻ, người già yếu cô đơn,
thương binh, gia đình liệt sĩ được HTX chăm sóc… Có thể nói, trong giai đoạn
này, khái niệm quyền của thành viên HTX đã có một bước phát triển rất đáng
kể, nội hàm của nó được mở rộng và đặc biệt ý nghĩa của các quyền đối với
19


người tham gia HTX được nâng lên tầm cao hơn, không chỉ còn đơn thuần là
các quyền lợi về kinh tế.
So với giai đoạn trước 1958, các quy định pháp lý về quyền và nghĩa vụ
của thành viên HTX đã có bước phát triển rất đáng kể. Các đường lối, chính
sách, văn kiện của Đảng và Nhà nước tuy vẫn là cơ sở lý luận về HTX, song

chúng ta cũng đã ban hành được Điều lệ HTX vào năm 1959 (Điều lệ HTX
bậc thấp) và năm 1969 (Điều lệ tóm tắt của HTX sản xuất nông nghiệp bậc
cao) và một dự thảo Điều lệ HTX nông nghiệp bậc cao vào năm 1974 (mặc dù
sau đó không được ban hành chính thức do bối cảnh lịch sử có nhiều thay đổi).
Điều lệ tóm tắt của HTX sản xuất nông nghiệp 1969 được Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết lời mở đầu. Ngay trong phần đầu tiên của lời mở đầu, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh tới ý nghĩa của Điều lệ đối với quyền lợi của thành
viên HTX: “Điều lệ này của HTX sản xuất nông nghiệp rất quan trọng. Nó
nhằm đảm bảo quyền làm chủ tập thể của các xã viên”. So với giai đoạn trước
1958, các quyền và nghĩa vụ của xã viên đầy đủ hơn và các quy định đã bắt
đầu đi vào những vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, vẫn có thể dễ dàng nhận thấy
những hạn chế của Điều lệ tóm tắt 1969 trong những quy định liên quan đến
quyền và nghĩa vụ xã viên như:
- Chưa đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Ví dụ Điều lệ không đề cập đến
quyền ra HTX, quyền chuyển vốn góp hoặc được trả lại vốn góp, quyền
được hưởng lãi theo vốn góp và công sức đóng góp, quyền được HTX
đào tạo bồi dưỡng… Toàn bộ quyền và nghĩa vụ của xã viên trong
Chương 2 của Điều lệ chỉ vỏn vẹn trong ba câu với chưa đến 200 từ.
- Nhiều quyền và nghĩa vụ còn được quy định khá chung chung, đặc biệt
là các nghĩa vụ còn mang tính “khẩu hiệu”, nặng về giáo dục như: “ra
sức lao động sản xuất, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau như con một nhà,
làm đúng các chính sách của Đảng, Chính phủ và pháp luật của Nhà
nước”, “HTX phải quản lý theo đúng nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”,
“tất cả các cán bộ HTX … phải có công tâm, có ý thức tiết kiệm, phát
triển sản xuất”…
20


- Xã viên có nghĩa vụ phải góp toàn bộ tư liệu sản xuất: ruộng đất, trâu
bò, các công cụ chủ yếu như cày, bừa, guồng nước… cho HTX. HTX

không được đem ruộng đất và các công cụ chủ yếu giao khoán cho hộ xã
viên. Việc công hữu hoá toàn bộ tư liệu sản xuất và biến nông dân thành
“công nhân nông nghiệp” làm thuê cho HTX như vậy thực chất đã đi
ngược lại với tôn chỉ, mục đích, bản chất của HTX.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, do những điều kiện lịch sử nhất định, việc
thực thi các quy định về quyền và nghĩa vụ thành viên HTX trong thực tế tồn
tại khá nhiều bất cập. Một số quyền cơ bản của xã viên, có lúc, có nơi đã bị vi
phạm nghiêm trọng như: thúc ép, cưỡng bức nông dân vào HTX, vi phạm
nguyên tắc tự nguyện tham gia HTX; phân phối theo nguyên tắc “bình công
chấm điểm”, không có khái niệm hưởng theo vốn góp… Mặt khác, cũng do
cách thức quản lý tập trung bao cấp đã khiến cho không ít xã viên coi HTX là
của Nhà nước, của chính quyền mà chưa thấy hết được trách nhiệm, nghĩa vụ
xây dựng HTX của mình.
Dự thảo Điều lệ HTX sản xuất nông nghiệp (bậc cao) 1974 đã kế thừa
và phát triển bản Điều lệ tóm tắt của HTX sản xuất nông nghiệp 1969 trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Bắc. So
với Điều lệ tóm tắt 1969 thì Dự thảo Điều lệ 1974 đã có sự phát triển rõ rệt cả
về nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp. Toàn bộ Chương 2 từ Điều 4 đến
Điều 7 quy định về điều kiện gia nhập HTX, về nghĩa vụ và quyền lợi của xã
viên và về các trường hợp xã viên ra HTX. Trước hết, Dự thảo Điều lệ HTX
năm 1974 đã lần đầu tiên thể chế hoá các điều kiện gia nhập HTX và các
trường hợp ra HTX. Các quyền của xã viên trong Điều lệ đã được phân tách rõ
ràng, cụ thể thành 5 quyền cơ bản: quyền được lao động theo khả năng và
được trả công; quyền được bầu cử ứng cử; quyền được phê bình, khiếu nại, tố
cáo; quyền được hưởng các phúc lợi của HTX và quyền được làm kinh tế phụ
gia đình. Tuy nhiên, một số quyền của xã viên vẫn bị hạn chế như: xã viên
không được hoàn trả vốn góp trong trường hợp thoát ly khỏi địa phương đi làm
cán bộ, công nhân, bộ đội hoặc xã viên chết thì gia đình không được rút phần
21



vốn góp của xã viên đó. Ngược lại, một số quyền lại được coi như “cha truyền
con nối” mà về thực chất là không đúng với tính chất của HTX như: con xã
viên đến tuổi lao động được kết nạp làm xã viên thì không phải đóng góp vốn
cổ phần. Điều 3 Dự thảo Điều lệ HTX 1974 quy định nhiệm vụ của HTX,
trong đó có những nhiệm vụ cụ thể tương ứng với quyền của xã viên như: đảm
bảo thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, mở rộng phúc lợi tập thể,
không ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ và xã viên… Dự thảo Điều lệ HTX
sản xuất nông nghiệp (bậc cao) 1974 tuy không được chính thức ban hành,
song trong thực tế nó đã được nhiều HTX vận dụng và quan trọng hơn cả là nó
đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy và kỹ thuật lập pháp, tạo tiền
đề cho sự phát triển và hoàn thiện pháp luật về HTX sau này.
Như vậy, trong giai đoạn từ 1958 đến 1988, cùng với các chính sách của
Đảng và Nhà nước, Điều lệ HTX bậc thấp và Điều lệ tóm tắt của HTX bậc cao
đã được ban hành cũng như Dự thảo Điều lệ HTX bậc cao năm 1974 đã đánh
dấu một bước phát triển rất quan trọng của chế định quyền và nghĩa vụ thành
viên HTX cũng như của bản thân nội hàm hai khái niệm này.
Tuy nhiên, vào cuối giai đoạn 1958-1988, trên phạm vi cả nước, mô
hình HTX theo kiểu tập trung, qui mô lớn đã không phù hợp dẫn đến sự khủng
hoảng không chỉ diễn ra trong các HTX mà ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
của nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải có sự đổi mới cơ chế quản lý đối với
HTX. Có thể nói đây cũng là một thời kỳ khủng hoảng về quan điểm, đường
lối, chính sách về HTX. Trong suốt gần 15 năm kể từ khi Dự thảo Điều lệ
HTX sản xuất nông nghiệp bậc cao năm 1974 ra đời (nhưng không được ban
hành), không có văn bản pháp lý tương đương nào được ban hành để điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của các HTX. Khu vực kinh tế HTX trong thời kỳ
này được điều chỉnh bởi các đường lối, chính sách của Đảng thông qua các
Nghị quyết, Chỉ thị… của Đảng như: Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá V tháng 9/1979, Chỉ thị số 100/TW của Ban Bí
thư…


22


1.2.3. Chế định quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX trong giai đoạn từ 1988
đến nay:
Với việc Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam ban hành Nghị quyết số 10 ngày 5/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp và Nghị quyết số 16 ngày 15/7/1988 về đổi mới quản lý các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các HTX trong giai đoạn này có địa vị pháp
lý, chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động thay đổi về chất so với
những giai đoạn trước đó. Những văn bản pháp luật quan trọng nhất thể hiện
việc thể chế hoá đường lối trên của Đảng là Hiến pháp 1992 và 2001, Bộ luật
Dân sự 1995 và 2004, Luật HTX 1996 và 2003, các Điều lệ mẫu của các HTX
1997…
Những thay đổi quan trọng nhất trong quyền của xã viên HTX được thể
hiện trong các quy định sau:
Về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng
đất ổn định dài hạn trong khoảng 10-15 năm và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho các hộ xã viên HTX; luật pháp quy định cụ thể về việc thừa kế và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tài sản cố định, tư liệu sản xuất mà HTX
quản lý sử dụng kém hiệu quả có thể được chuyển nhượng, bán hoá giá cho hộ
xã viên. Những tài sản do người lao động góp vào HTX được định giá để xác
định phần lãi mà xã viên sẽ được hưởng, được chuyển nhượng hoặc được trả
lại cho xã viên khi họ ra HTX. Mặc dù ruộng đất, về nguyên tắc vẫn thuộc sở
hữu toàn dân, song các quyền đối với ruộng đất mà Nhà nước trao cho nông
dân như: sử dụng lâu dài, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng
đất… cũng rất gần với quyền sở hữu đất đai của xã viên.
Về quan hệ quản lý, Nghị quyết số 10 và Nghị quyết số 16 khẳng định
vai trò tự chủ của hộ xã viên, xoá bỏ chế độ kế hoạch hoá tập trung; chuyển

chức năng của HTX sang làm dịch vụ “đầu ra, đầu vào” cho hộ xã viên. Tập
thể xã viên HTX có quyền tự chủ hoàn toàn trong việc tổ chức và hoạt động
của HTX theo quy định của pháp luật. Nhà nước và các cơ quan quản lý không
can thiệp sâu vào công tác tổ chức và điều hành hoạt động của HTX.
23


Về quan hệ phân phối: thay thế chế độ phân phối theo công điểm bằng
việc thực hiện phân phối theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ sử dụng
dịch vụ của HTX. Xã viên chỉ có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và đóng
góp xây dựng quỹ của HTX. Các hoạt động dịch vụ sản xuất giữa HTX với xã
viên đều thông qua quan hệ hợp đồng.
Có thể nói, đến Nghị quyết số 10 và Nghị quyết số 16 của Bộ Chính trị,
các quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX đã được phát triển và đổi mới cả về
chất và lượng so với cả giai đoạn mấy chục năm trước đó, đặc biệt là đối với
những quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất trong mối quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Sự phát triển này tạo tiền đề vững
chắc cho công tác pháp điển hoá quyền và nghĩa vụ thành viên HTX trong giai
đoạn sau này.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế tập thể trong
thực tế đã gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc mà một trong những nguyên
nhân cơ bản là tình trạng lạc hậu, không đồng bộ và thiếu các văn bản pháp
luật về HTX, trong đó có các quy định về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX.
Trong điều kiện cả nước bước vào công cuộc đổi mới đất nước và nền kinh tế
đang chuyển hướng sang kinh tế thị trường thì các HTX lại chậm được hướng
dẫn chuyển đổi nên từ cuối những năm tám mươi, phong trào HTX lâm vào
tình trạng khủng hoảng.
Ngày 20/3/1996, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật HTX. Luật HTX
được áp dụng chung cho tất cả các loại hình HTX ở Việt Nam. Luật đã dành
toàn bộ Chương III với 4 điều để quy định về chế độ xã viên, cụ thể là: điều

kiện trở thành xã viên, quyền của xã viên, nghĩa vụ của xã viên và chấm dứt tư
cách xã viên. Đây là lần đầu tiên, các quyền và nghĩa vụ của xã viên được quy
định một cách đầy đủ bằng một văn bản pháp lý có hiệu lực cao.
Quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX theo Luật HTX 1996 là một sự đổi
mới về chất so với các quyền và nghĩa vụ của xã viên đã được xác lập trong
các Điều lệ HTX và các đường lối, chính sách trước đây.

24


Về điều kiện trở thành xã viên, Luật đã quy định một loạt các điểm mới
như: góp vốn, hộ gia đình có thể trở thành xã viên, một người có thể là xã viên
của nhiều HTX.
Về chấm dứt tư cách HTX: ngoài hai trường hợp là xã viên xin ra và xã
viên chết, Luật HTX 1996 bổ sung thêm các trường hợp, như: mất năng lực
hành vi dân sự, chuyển hết vốn góp cho người khác, bị khai trừ.
Luật HTX 1996 quy định xã viên có 11 quyền. Một loạt các quyền mới
của xã viên đã được ghi nhận: quyền được hưởng lãi chia theo vốn góp và mức
độ sử dụng dịch vụ của HTX; quyền được HTX cung cấp thông tin kinh tế kỹ
thuật cần thiết; quyền được HTX thực hiện các cam kết kinh tế và được tham
gia bảo hiểm xã hội theo quy định; quyền được chuyển nhượng hoặc trả lại
vốn góp.
Các nghĩa vụ của xã viên có nhiều nội dung được đổi mới về cơ bản và
được quy định rất cụ thể, không còn những nghĩa vụ có tính hô hào như “đoàn
kết thương yêu lẫn nhau như con một nhà, … không được tham ô, lãng phí, …
gương mẫu thực hiện mọi nghĩa vụ của người công dân” (Điều lệ tóm tắt của
HTX 1969). Luật HTX 1996 tập trung vào các nghĩa vụ cụ thể của xã viên:
góp vốn; hợp tác lẫn nhau; thực hiện cam kết kinh tế với HTX; chịu trách
nhiệm về các khoản lỗ, nợ, rủi ro, thiệt hại của HTX trong phạm vi vốn góp;
bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho HTX.

Luật HTX 1996 ra đời với những quy định rất đầy đủ, cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của xã viên HTX đã góp phần chặn đứng được tình trạng tan rã
hàng loạt của các HTX, tạo hướng đi mới cho các HTX. Sau khi Luật và các
văn bản hướng dẫn thi hành ra đời, đã có hàng ngàn HTX cũ được chuyển đổi
theo mô hình mới và hàng ngàn HTX mới ra đời. Rất nhiều HTX trong số đó
đã thích nghi được với nền kinh tế thị trường và làm ăn có hiệu quả.
Sau hơn 7 năm thực hiện, trước thực tế phát triển đa dạng với tốc độ rất
nhanh của nền kinh tế thị trường Luật HTX 1996 đã bộc lộ những bất cập cần
được sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện cho kinh tế HTX phát triển tương xứng
với các khu vực kinh tế khác. Ngày 26/11/2003 Quốc hội đã thông qua Luật
25


HTX 2003. Chế định về xã viên, trong đó có quyền và nghĩa vụ của xã viên
không có nhiều thay đổi so với Luật HTX 1996. Những thay đổi tập trung vào
các vấn đề sau:
Về điều kiện gia nhập HTX: Luật HTX 2003 quy định thêm đối tượng
có thể gia nhập HTX là cán bộ, công chức và pháp nhân. Pháp nhân và hộ gia
đình khi tham gia HTX phải thông qua người đại diện.
Về việc chấm dứt tư cách xã viên: Luật HTX 2003 quy định thêm
trường hợp hộ gia đình và pháp nhân không có người đại diện đủ điều kiện;
pháp nhân bị giải thể, phá sản.
Về quyền của xã viên: Luật HTX 2003 bớt một quyền so với Luật HTX
1996 là quyền “tham gia bảo hiểm xã hội” do việc đóng bảo hiểm xã hội cho
xã viên và người làm việc thường xuyên cho HTX là nghĩa vụ hiển nhiên của
HTX theo Luật Lao động. Tuy nhiên, Luật HTX 2003 lại quy định rất chi tiết
và đầy đủ hơn so với Luật HTX 1996 về quyền được trả lại vốn góp của xã
viên, một quyền liên quan trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của xã viên.
Quy định về nghĩa vụ của xã viên HTX trong Luật HTX 2003 về cơ bản
giống như quy định về nghĩa vụ của xã viên HTX trong Luật HTX 1996.

Sự phân tích chi tiết về quyền và nghĩa vụ thành viên HTX theo Luật
HTX 2003 sẽ được trình bầy trong Chương 2 của luận văn này.
Xem xét cả quá trình hình thành và phát triển HTX ở Việt Nam trong
suốt hơn 50 năm qua, có thể thấy rất rõ rằng sự phát triển của chế định quyền
và nghĩa vụ của xã viên HTX gắn liền với các giai đoạn phát triển của HTX
nói riêng và của đất nước nói chung, phản ánh rất rõ các biến động về kinh tế,
chính trị, xã hội qua từng giai đoạn lịch sử. Vấn đề quyền và nghĩa vụ của xã
viên HTX, cũng giống như sự phát triển của lịch sử, có lúc thăng, lúc trầm,
xong xu hướng cơ bản là sự phát triển đi lên: từ thiếu tới đủ, từ chung chung
tới cụ thể, từ đơn giản tới đa dạng và hoàn chỉnh, từ không thực tế tới thực tế
và khả thi, từ lạc hậu tới tiên tiến… Nói tóm lại, sự phát triển của chế định
quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX trong hơn nửa thế kỷ qua là một quá trình
phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện, không chỉ phản ánh thực tế lịch sử
26


×