Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong công ty cổ phần ở việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.39 MB, 108 trang )

4M s VJ *
i

7-100

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUÂT

NGUYỄN VĂN NHƯỜNG

TÁCH BẠCH GIỮA SỞ HỮU VÀ ĐIỀU HÀNH
TRONG CÔNG TY c ổ PHẦN Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ
: 60.38.50

LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC

NGUỜI HUỐNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

, ĐẠI HỌC QUỐ C GIA HÀ NỘ!
ị 'RƯNG TAM ÍHỒNG TIN ĨHƯ VIỆN

' V -U O / z f o ^
HẢ NỘI - NĂM 2006

1



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa

1

Lời cam đoan

2

Mục lục

3

Danh mục các chữ viết tắt

6

Danh mục các bảng

6

Danh mục các hình

6

MỞ ĐẦU

7


Chương 1. LÝ LUẬN VỀ TÁCH BẠCH GIỮA SỞ HŨU VÀ ĐIỀU HÀNH
TRONG CÔNG TY c ổ PHAN

13

1.1. Sơ lược những đặc trưng và sự cần thiết phải tách bạch giữa sở hữu và
điều hành trong CTCP

13

1.1.1. Đặc trưng của CTCP

13

1.1.2. Sự cần thiết phải tách bạch giữa sở hĩru và điều hànhtrong CTCP
1.2. Sở hữu và điều hành trong công ty cổ phần

17
19

1.2.1. Khái niệm

19

1.2.2. Chủ sờ hữu công ty cổ phần

22

1.2.3. Hội đổng quản trị


26

1.2.5. Tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP ở một sổ nước
trên thế giới

32

1.2.5.1. Các mô hình sờ hữu và điều hành CTCP điển hình

32

1.2.5.2. Xu hướng thay đổi sở hữu và điều hành

41

trongCTCP

1.2.5.3. Những vấn đề cơ bản ảnh hưởng tới tách bạch giữa sở hữu
và điều hành trong CTCP

44

Chương 2. THỤC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHÌNH TÁCH BẠCH GIỮA
SỞ HỦU VÀ Đ Ể U HÀNH TRONG CÔNG TY c ổ PHẦN ở VIỆT NAM

48

2.1. Thực trạng quy định pháp luật vế tách bạch giữa sở hữu và điều hành
trong CTCP ở Việt Nam


48

3


2.1.1. Giai đoạn trước khi LCT 1990 ra đời

48

2.1.2. Sờ hữu và điều hành trong CTCP theo LCT 1990 và thực tiễn thi
hành

49
2.1.2.1. Mô hình sở hữu và điểu hành

49

2.1.2.2. Thực tiễn thực thi tách bạch giữa sở hữu và điều hành

51

2.1.3. Sở hữu và điều hành trong CTCP theo LDN 1999

52

2.1.3.1. Quyển của chủ sờ hữu công ty

52


2.1.3.2. Cơ quan kiểm soát của CTCP

54

2.1.3.3. Hội đổng quản trị

55

2.1.3.4. Người điểu hành

57

2.1.4. Những quy định mới về sở hữu và điều hành trong CTCP theo
LDN 2005 so với LDN 1999

57

2.2. Thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về tách bạch giữa sờ hữu
và điều hành trong CTCP theo LDN 1999

61

2.2.1. Hạn chế quyền của chủ sờ hữu công ty

61

2.2.2. Thực hiện quyền quản lý công ty

66


2.2.3. Thực hiện quyển giám sát công ty

70

2.2.4. Quyên của người điều hành trong CTCP

71

2.3. Các yếu tô' tác động đến thực tiễn tách bạch giữa sờ hữu và điều hành
trong CTCP ờ Việt Nam hiện nay

73

2.3.1. Tác động của truyền thống kinh doanh tới thực tiễn tách bạch
giữa sở hữu và điều hành trong CTCP theo LDN 1999

73

2.3.2. Tác động của cơ cấu phân bổ quyển lực tới thực tiễn tách bạch
giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP

74

2.3.3. Tác động của các thể chế hỗ trợ tới thực tiễn tách bạch giữa sờ
hữu và điểu hành trong CTCP

78

2.3.4. Tác động của cơ cấu CSHCT tới thực tiễn tách bạch giữa sờ hữu
và điều hành trong CTCP


79

2.3.4.1. Tác động chung của cơ cấusở hữu trong CTCP

79

2.3.4.2. Tác động của chế độNhà nước sờ hữu cổ phần

80

*

4


2.3.4.3. Tác động của chế độ người lao động sở hữucổ phần

81

2.3.5. Nhận thức của CSHCT và ảnh hưởng của nó tới thựctiễn tách
bạch giữa sờ hữu và điều hành trong CTCP

82

2.3.6. Tác động của việc công khai, minh bạch tới thực tiễn tách bạch
giữa sở hữu và điều hành trong CTCP

84


Chương 3. MỘT s ố KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỤC
THI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÁCH BẠCH GIỮA s ở HŨU VÀ
ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY c ổ PHẦN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

87

3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về sở hữu và điều hành trong CTCP ở
Việt Nam hiện nay

87

3.1.1. Định hướng của Đảng vể việc hoàn thiện pháp luật sở hữu và
điều hành trong CTCP

87

3 .1.2. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về sở hữu và điều hành trong CTCP
từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
3.2. Các khuyến nghị vể sở hữu và điểu hànhtrong CTCP của OECD
3.2.1. Ọuyẻn của các CSHCT

88
91
91

3.2.3. Công khai và minh bạch

92

3.2.4. Trách nhiệm của HĐQT


92

3.3. Một số kiến nghị của tác giả vé việc hoàn thiện tách bạch giữa sở hữu
và điều hành trong các CTCP ở Việt Nam hiện nay

93

3.3.1. Đối với các vấn để chung ảnh hưởng đến tách bạch giữa sờ hữu
và điều hành trong CTCP hiện nay

93

3.3.2. Đối với các quy định của pháp luật vé tách bạch giữa sờ hữu và
điều hành trong CTCP hiện nay

94

3.3.3. Đối với vấn đê tách bạch giữa sờ hữu và điéu hành trong các
CTCP được CPH từ DNNN

99

KẾT LUẬN

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

103


5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮ T
BKS

Ban Kiểm soát

CIEM

Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

CSHCT

Chủ sờ hữu công ty

CTCP

Công ty cổ phần

CTTNHH

cỏng ty trách nhiệm hữu hạn

CPH

Cổ phần hóa

DNNN


Doanh nghiệp Nhà nước

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

Hội đồng quản trị

LCT

Luật công ty

LDN

Luật doanh nghiệp

NXB

Nhà xuất bản

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1.


So sánh sở hữu và điều hành trong CTCP với sở hữu và điều hành
trong một số loại hình doanh nghiệp phổ biến.

Bảng 2.1.

So sánh thẩm quyền của ĐHĐCĐ và HĐQT.

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1.

Mô hình sở hCai và điều

hành trong công ty cổ phần ở Mỹ

Hình 1.2.

Mô hình sở hữu và điều

hành trong công ty cổ phẩn ở Nhật

Hình 1.3.

Mô hình sở hữu và điều

hành trong công ty cổ phần ở Đức

6


MỞ ĐẦU


Tính cấp thiết của đề tài
Công ty cổ phần (CTCP) xuất hiện và phát triển trên thế giới cách đây hàng
trăm năm, đã khẳng định được vị thế, tính ưu việt so với các loại hình doanh nghiệp
khác. Trong sô' các loại hình doanh nghiệp, thì CTCP là tổ chức kinh doanh huy
động vốn có cơ chế mờ và linh hoạt nhất, có khả nãng huy động vốn một cách rộng
rãi nhất, có khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô lớn nhất, đã tạo điều kiện
và môi trường thúc đẩy vốn luân chuyển linh hoạt trong nển kinh tế, làm cho nguồn
lực được phân bổ, sử dụng hợp lý và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, số cổ đông của CTCP
càng nhiều và tồn tại nhiều quan hệ phức tạp thì yêu cầu đối với quy định của pháp
luật trong việc bảo vệ lợi ích của các bên có liên quan, lợi ích giữa chủ sở hữu và
người điểu hành phải rõ ràng, cụ thể, đầy đù và phù hợp.
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình - người sờ hữu cũng là
người điểu hành hoặc có thể can thiệp trực tiếp hoạt đông điểu hành một cách dễ
dàng. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển đến một mức độ nhất định thì
mô hình này không còn phù hợp do sự hạn chế vể quy mô vốn và năng lực quản lý
của một cá nhân. Vì vậy, hình thức CTCP xuất hiện nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư
của xã hội và được vận hành bời cơ cấu quản lý chuyên nghiệp. Ở đó, tính đa sờ hữu
và phân tán, quy mô vốn lớn tỷ lệ thuận với mức độ tách bạch giữa sờ hữu và điều
hành. Tất cả những quy định về sự tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP
vừa tạo ra một thực thể thuộc đa sở hữu và phân tán lại được điểu hành một cách tập
trung, chuyên nghiệp vừa giảm các nguy cơ sai lầm, gây tổn hại đến lợi ích của các
chù sờ hữu nhưng không mất đi tính hiệu quả kinh tế trong việc ra quyết định, bảo
vệ thoả đáng cho các bên liên quan.
Mô hình CTCP được du nhập vào nước ta vào đầu thập kỷ 90, nhưng do
những hạn chế nhất định mà cho tới nay khái niệm vể sở hữu CTCP, điều hành
CTCP, ranh giới quyền lực giữa sở hữu và điều hành trong CTCP...còn khá mới mẻ
và lạ lẫm với truyền thống kinh doanh theo kiểu gia đình, bị ràng buộc bởi nhiều
mối quan hộ gia đình và xã hội Việt Nam. Vấn đề trờ nên cần thiết, khi nước ta bước


7


vào quá trình hội nhập, mặc dù pháp luật đã được hoàn thiện ở mức độ nhất định
nhưng CTCP chưa trở thành loại hình doanh nghiệp có khả nâng huy động có hiệu
quả nguồn vốn nhàn rỗi lớn trong dân. Bởi vậy, các quy định pháp luật nói chung
trong đó có quy định về sở hữu và điều hành trong CTCP cần phải vừa tương thích
với các thông lệ quốc tế, vừa phải phù hợp với tình hình thực tế ờ nước ta để khuyến
khích nhiểu nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài có xu hướng bỏ vốn mua cổ
phần.
Trong bối cảnh đó, nhằm tìm hiểu vấn đề tách bạch giữa sở hữu và điều hành
trong CTCP, thực trạng tách bạch giữa sở hữu và điêu hành trong CTCP ở Việt Nam
hiện nay, từ đó đưa ra những kiến nghị cần thiết hoàn thiện và bảo đảm thực thi các
quy định pháp luật về tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP ở Việt Nam.
Tôi mạnh dạn chọn để tài “Tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP ở

Việt Nam" làm Luận vãn tốt nghiệp cao học Luật.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích: Việc nghiên cứu đề tài "Tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong
CTCP ở Việt Nam" có mục đích góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP ở Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm, nội dung, mô hình, xu hướng, và những vấn đề
phát sinh từ thực tiễn tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP của các nước
trên thế giới; Nội dung và thực tiễn quá trình thực hiện tách bạch giữa sở hữu và
điều hành trong CTCP ở Việt Nam, qua đó phân tích một số nguyên nhân hạn chế
việc thực thi các quy định của pháp luật về tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong
CTCP ở Việt Nam. Phần cuối, đưa ra một số kiến nghị mang tính định hướng nhằm
hoàn thiện đảm bảo thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật về tách bạch
giữa sở hữu và điều hành trong CTCP ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về đặc điểm, nguồn

gốc, ý nghĩa, đặc trưng, nội đung, mô hình, xu hướng và các yếu tô' phát sinh ảnh
hưởng tới việc phân định rạch ròi giữa sở hữu và điều hành trong CTCP trong pháp
luật của một số nước trên thế giới; Phân tích đánh giá những tồn tại, hạn chế, bất

8


cộp, không đồng bộ trong các quy định pháp luật nước ta vể sở hữu và điều hành
khỏng phù hợp với nội dung, yêu cầu tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong
CTCP; Phân tích, đánh giá những hạn chế trong việc thực hiện tách bạch giữa sở hữu
và điều hành trong CTCP ở nước ta.
Trên cơ sở đó, đưa ra một sô' kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm định hướng
cho việc hoàn thiện, bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật kinh tế về tách
bạch giữa sờ hữu và điều hành trong CTCP ở nước ta; bảo đảm cho sự tách bạch giữa
sở hữu và điều hành trong CTCP gắn với điều kiện thực tế Việt Nam, khắc phục các
khiếm khuyết, hạn chế vể tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP trong điểu
kiện kinh tế - xã hội nước ta. Phục vụ công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường,
đáp ứng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ờ nước ta hiện nay.

Tình hình nghiên cứu:
Qua tìm hiểu cùa tác giả trong những năm gần đây, có rất nhiều cồng trình
nghiên cứu giá trị, trong đó, nhiều nội dung nghiên cứu về sờ hữu và điểu hành trong
CTCP được công bô' như: (1) "Luật doanh nghiệp - vốn và quản lý vốn trong CTCP

" (2004), của LS Nguyễn Ngọc Bích-NXB Trẻ, phần nghiên cứu về thuộc tính của
CTCP, vốn của CTCP, quản lý công ty, cổ đông, tập tục trên thế giới vé HĐQT, Bản
điều lệ công ty, nhận xét vổ luật doanh nghiệp 1999; (2) "Chuyên khảo luật kinh t ể ”
(2004) của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; (3) "CTCP-

quyển và nghĩa vụ của cổ đông "(2001 ), của Lê Minh Toàn, NXB Chính trị Quốc gia,

nghiên cứu một cách khái quát chung về CTCP, quyển và nghĩa vụ của cổ đông theo
quy định Luật doanh nghiệp 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về CTCP nói chung, vé sờ
hữu và điểu hành trong CTCP nói riêng như tác phẩm rất nổi tiếng của Adolf A.
Berle và Gardinner c . Means, “The Modem Corporation and Private Property”. Về
sở hữu và điểu hành trong CTCP phải kể đến tác phẩm rất nổi tiếng của Eugene F.
Fama và Michael c . Jensen (1983), “Separation of Ownership and Control”; Lucian
Aye Bebchuk, “A Rent-Protection Theory of Corporate Ownership and Control”;
Mark J.Roe, “Corporate Law’s Limits”....

9


Ngoài ra còn một số bài báo, bài viết khác liên quan đến sở hữu và điều hành
trong CTCP được đăng trên Thời báo kinh tế Sài gòn, Tạp chí Nhà quản lý, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Tạp chí chứng khoán và các tạp chí khác. Một sô' luận văn
cao học, tiến sĩ cũng để cập đến phần nào nội dung tách bạch giữa sở hữu và điểu
hành trong CTCP như Luân án tiến sĩ của Lê Thị Châu với đề tài, “Xác lập, thực
hiện và chấm dứt quyển sở hữu tài sản của công ty đối vốn”; “Hợp đồng thành lập
công ty” (2004), Luân án Tiến sỹ Luật học của Ngô Huy Cương, Viện Nhà nước và
Pháp luật; Luận án Tiến sỹ luật học của Nguyễn Thanh Bình “Quản lý Nhà nước
bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam” (2005), Học viện Chính trị Quốc gia Hổ
Chí Minh; Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Đặng Thị cẩm Thuỳ “Một số vấn đề lý luân
về CTCP và vận dụng vào Việt Nam” (1999), Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Xây dựng cơ sở lý luận khoa học và kinh nghiệp thực tiễn cho việc đề xuất
những giải pháp khả thi có tác dụng thúc đẩy quá trình hình thành CTCP ở Việt
Nam; “Quản lý, điẻu hành trong CTCP ở Việt Nam”; Luận vần Thạc sĩ luật học của
Đậu Anh Tuấn (2004), "quản lý, điểu hành trong CTCP ờ Việt Nam", Đại học Ọuốc
gia Hà Nội.


Phạm vi nghiên cứu của đé tài:
Tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP là khái niệm chỉ mối quan
hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành trong CTCP. Liên quan đến mối quan hệ này,
trong CTCP còn dùng đến một cơ chế sử dụng quyền lực thông qua trung gian đại
diện là HĐQT, BKS,... Trong phạm vi luận vãn này, tôi xin chỉ tập trung làm rõ một
số vấn đề về sự tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP và những vấn đề liên
quan đến việc đảm bảo thực hiên tách bach giữa sở hữu và điều hành trong CTCP
như vấn để người đại diện; vấn đề ủy quyển và tác nghiệp trong CTCP; quyền
CSHCT; quyền của người điều hành; mâu thuẫn giữa CSHCT và người điều hành
trong CTCP.

Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận truyển thống của chủ
nghĩa Mác Lênin; Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử và

10


các phương pháp khác như: Đọc tư liệu, phỏng vấn chuyên gia, xây dựng mô hình,
phương pháp đối chiếu so sánh (Được sử dụng dể so sánh sờ hữu và điều hành giữa
các mô hình sở hữu và điều hành CTCP điển hình trên thế giới; so sánh kinh nghiệm
tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP một số nước trên thế giới với thực
trạng ỡ Việt Nam...), phương pháp phân tích-tổng hợp, thống kê, xã hội học.

Kết cấu của luận văn:
Chương 1. Lý luận vế tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP.
Chương 2. Thực trạng pháp luật điểu chỉnh tách bạch giữa sờ hữu và điều hành trong
CTCP ở Việt Nam.
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm thực thi các quy định pháp luật
về tách bạch giữa sở hữu và điểu hành trong CTCP ờ Việt Nam hiện nay.


11


LỜI CÁM ƠN
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn
Thị Lan Hương cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, bạn bè, gia đình và đồng
nghiệp trong quá trình thu thập tài liệu, cũng như động viên tinh thần, góp ý kiến
cho nội dung và hình thức của bản luận văn. Tác giả xin chân trọng cảm ơn sự giúp
đỡ tận tình và quý báu đó. Kính mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo và các bạn quan tâm để tác giả tiếp tục sửa chữa, bổ sung những nội
dung còn khiếm khuyết và hoàn thiên hơn nữa nội dung của luận vãn.

12


Chương 1
LÝ LUẬN VÊ TÁCH BẠCH
GIỮA SỞ H ữ lỉ VÀ ĐIỂU HÀNH TRONG CÔNG TY c ổ PHẨN
1.1.

Sơ lược những đặc trưng và sự cần thiết phải tách bạch giữa sở hữu và

điều hành trong CTCP
1.1.1. Đặc trưng của CTCP
Tính trách nhiệm hữu hạn:
Sự giới hạn về trách nhiộm tài sản của các CSHCT đối với các khoán nợ của
công ty là một đặc trưng phân biệt các công ty đối vốn nói chung với các doanh
nghiệp khác như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân... Tính trách nhiệm hữu
hạn của các CSHCT đối với các hợp đồng giữa công ty và những người cho vay, qua

đó giới hạn quyền của người cho vay đối với những tài sản của công ty, chứ không
có quyển đối với những tài sản cá nhân của các CSHCT, người điều hành, hay những
người tham gia khác như người lao động, nhà cung ứng, hay khách hàng của công
ty, chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số tiền đã góp vào công ty trước
các khoản nợ của công ty và công ty đương nhiên vẫn phải chịu trách nhiệm tài sản
vô hạn bằng tài sản của công ty trước các khoản nợ của công ty.
Trong khi tư cách pháp nhân cho phép công ty được sở hữu tài sản, và do vậy,
đóng vai trò như một bảo đảm dành cho chủ nợ của công ty; thì trách nhiệm hữu hạn
bảo đảm bảo toàn tài sản cá nhân của các CSHCT trước những rủi ro mà công ty có
thể găp phải. Như vậy, tư cách pháp nhân và tính trách nhiệm hữu hạn của CSHCT
trong CTCP tạo nên một đặc trưng pháp lý trong CTCP đó là tài sản riêng của cá
nhân nhà đầu tư được bảo toàn, trong khi tài sản của công ty được bảo đảm ưu tiên
cho các khoản nợ của các chủ nợ của công ty.
Trong lịch sử, trách nhiệm hữu hạn không phải luôn luôn gắn liền với hình
thức CTCP. Lịch sử đã từng tồn tại một số hệ thống pháp luật qui định trách nhiệm
vô hạn của CSHCT đối với các khoản nợ của công ty. Tuy nhiên, ngày nay trách
nhiệm hữu hạn của các CSHCT cổ phần đã trờ thành một đặc điểm gần như phổ biến

13


mang tính toàn cầu của hình thức CTCP. Tính trách nhiệm hữu hạn ra đời được xem
như là một phát minh trong phát triển kinh tế của loài người, đáp ứng được nhu cầu
đầu tư của nhiều người, đáp ứng nhu cầu tích tụ và tập trung vốn lớn phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Ngày nay, CTCP đã trở thành hình thức tổ chức doanh nghiệp mang tính
thống trị với những ưu việt giải quyết nhu cầu vể vốn trên thế giới. Đây là hình thức
huy động vốn trên quy mô lớn một cách hiệu quả nhất. Các CSHCT có thể đầu tư
vào công ty mà không phải chịu rủi ro vể trách nhiệm cá nhân và không phải lệ
thuộc vào uy tín hay độ tin cậy cùa những người cùng đầu tư như trong hình thức

hợp danh. Họ có thể phân tán rủi ro thông qua đầu tư vào nhiều công ty khác nhau.
Đúng ra tính trách nhiệm hữu hạn trong CTCP phải gọi là sự tách bạch vể tài sản và
trách nhiệm trả nợ giữa CTCP và các CSHCT, nhưng vì chữ trách nhiệm hữu hạn đã
quen dùng với thế giới từ năm thế kỷ nay, nên khi nói đến tính trách nhiệm hĩru hạn,
giới kinh doanh và luật học trên thế giới đều hiểu như vậy[30, tr257].

Tư cách pháp nhân của CTCP:
Pháp nhân là một khái niệm mà luật pháp tạo ra nhằm giảm trách nhiệm cho
người bỏ vốn kinh doanh, phân biệt với thể nhân, nó có đời sống pháp lý hoàn toàn
tách biệt với người đã thành lập ra nó và có thể tồn tại lâu dài. Ở Việt Nam, LDN
2005 quy định CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (Điều 51 khoản 3 LDN 2005). Tuy nhiên, Bộ Luật dân sự 2005
không định nghĩa pháp nhân mà chỉ đưa ra các điều kiện của pháp nhân. Trên thế
giới, người ta cũng quan niệm pháp nhân là thực thể độc lập, do pháp luật tạo ra, có
đời sống pháp lý riêng, có trách nhiệm và quyển lợi. Ví dụ như ờ Mỹ, người ta định
nghĩa nó như một thứ, một cái gì đó do pháp luật đặt ra; khỏng nhìn nhận được,
cũng chẳng sờ thấy được; tuy nhiên nó được làm một số việc giống như một con
người bình thường, và có trách nhiệm lẫn quyển lợi; do vây CTCP có quyền đi kiện
người khác (cả thể nhân lẫn pháp nhân) và có thể bị người khác kiện[10, tr 34],
Trong khi tính trách nhiệm hữu hạn bảo đảm bảo toàn tài sản cá nhân của các
CSHCT trước những rủi ro công ty có thể gặp phải thì tư cách pháp nhân cho phép

14


công ty được sờ hữu tài sản một cách độc lập, và do vậy, đóng vai trò như một bảo
đảm đến cùng dành cho chủ nợ của công ty khi quan hệ với nó. Sự tồn tại độc lập,
tách ra khỏi những người đã bỏ tài sản ra để lập ra nó là tính chất quan trọng nhất
của pháp nhân. Những nhà đầu tư vốn khi cam kết tách một phần tài sản thuộc sở
hữu của mình thành một phần độc lập để hình thành nên CTCP thì cũng là lúc nhà

đầu tư vốn rút lui khỏi tư cách là chủ sở hữu thực thụ đối với những tài sản mà mình
góp để hình thành nên tài sản của công ty hay vốn điều lệ của công ty. Thay vào đó,
các nhà đầu tư vốn sẽ trở thành CSHCT cổ phần đó và được gọi là các cổ đông
(CSHCT) [49,13]. Điểu này có nghĩa ỉà nếu các CSHCT đã góp vào công ty một
chiếc xe taxi theo một giá trị nhất định thì cổng ty và CSHCT đó phải tuân theo các
nguyên tắc về chuyển quyển sờ hữu tài sản góp vốn từ CSHCT sang công ty. Như
vậy, Những tài sản mà thành viên công ty đóng góp cho công ty sẽ trở thành tài sản
của cỏng ty. Tài sản của công ty do tất cả thành viên góp và được ghi vào Điều lệ
công ty. CSHCT sở hữu các cổ phần hay sở hữu chung công ty, còn công ty với tư
cách pháp lý độc lập sẽ là sở hữu chủ đối với những tài sản đã góp vào công ty.
Chính do đặc điểm độc lập, tách khỏi các CSHCT của nó nên CTCP không bị
ảnh hưởng bởi sự chuyển nhượng vổn của các CSHCT cho nên dù CSHCT có chết đi
thì công ty vẫn tồn tại. Trên thế giới đã có CTCP tồn tại hàng trăm nãm[10, tr 45].

CTCP có nhiều chủ sở hữu:
CTCP được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài
người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế quốc gia phát
triển [10, tr 18Ị. Trên thế giới có những CTCP rất lớn, có số CSHCT lên đến hàng
triệu người với số vốn khổng lổ. Chẳng hạn như công ty IBM, ATT, GMC của Mỹ
có sô' CSHCT (cổ đông) lên đến hàng triệu người. Ngay như ờ Việt Nam số CSHCT
của ngân hàng thương mại cổ phần Sacombank cũng lên tới con số gần 7 nghìn cổ
đông, CTCP cơ khí xăng đầu ở thành phố HCM có số CSHCT cũng lên đến gần 6
nghìn. Theo quy định của pháp luật nước ta sô' lượng CSHCT trong công ty cổ phân
tối thiểu là ba và không có giới hạn về tối đa số lượng CSHCT (Điều 77 khoản I

điểm b LDN 2005). Thâm chí, các nghiên cứu gần đây còn cho rằng việc quy định

15



số lượng CSHCT tối thiểu trong CTCP cũng đã chở nốn lạc hậu, vì luật pháp có thể
quy định CTCP phải có tối thiểu ba CSHCT, nhưng trên thực tế không thể ngãn cản
được cổ phần thực tế chỉ tập trung vào một CSHCT duy nhất [30, tr256].
Khi CTCP thuộc sờ hữu của hàng trăm, hàng triệu CSHCT, phân tán, và
không quen biết nhau. Cùng nhau trực tiếp tham gia điều hành là điếu không tưởng
và phi kinh tế. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một mô hình quản lý, điều hành đại
diện được quyền lợi cho các CSHCT, đáp ứng được nhu cầu của các CSHCT và phải
tạo điều kiện cho các CSHCT giám sát được người điểu hành công ty.

Phần vốn góp vào CTCP có thể chuyển nhượng được dễ dàng:
Công ty tách khỏi những người bỏ vốn tạo lập ra nó để trở thành một thực thể
độc lập. Vì thế, tài sản của CSHCT không còn là của họ khi đã đưa vào công ty mà
trở thành tài sản của công ty. Để giải quyết mối quan hộ giữa CSHCT với công ty,
luật pháp các nước đẻu cho phép các CSHCT có quyền tự do chuyển nhượng cố
phần hoặc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của họ với giá thị trường trừ những hạn
chè và ràng buộc được thỏa thuận trong điều lệ công ty hoặc do luật định. Đây được
coi là những quy định bảo hộ các nhà đầu tư nhỏ cho phép họ hành xử theo cách của
"thị trường chứng khoán Phố Wall", bán các cổ phiếu đi nếu họ không hài lòng với
những gì đang diễn ra trong công ty. Đây có thể được coi là quyền quan trọng nhất
của các CSHCT nhằm chấm dứt quan hệ với cổng ty thể hiện quyền tự định doạt của
nhà đầu tư đối với phần vốn góp vào công ty.
Quyển chuyển nhượng tự do cổ phần tạo điểu kiện và cơ hội thay thế người
quản lý cũ bằng đội ngũ quản lý mới có khả năng kiểm soát và quản lý công ty một
cách hiệu quả hơn. Nhờ đó, quyền chuyển nhượng không hạn chế cho phép thực
hiện các vụ thôn tính cưỡng bức, theo đó những CSHCT đơn lẻ của công ty được
quản lý kém có thể chuyển nhượng cổ phần cho một CSHCT lớn với năng lực quản
lý, điều hành tốt hơn. Những vụ chuyển giao quyền kiểm soát công ty như thế, ngay
cả khi đó chỉ là khả năng có thể xảy ra, cũng sẽ là công cụ có hiệu lực của thị trường
để tăng tính kỷ luật đối với những người quản lý điều hành công ty. Quyền chuyển
nhượng cũng là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường chứng khoán, tăng tính


16


hiệu quả kinh tế trong điều hành công ty, vì lợi ích của công ty[30, tr265].

1.1.2. Sự cần thiết phải tách bạch giữa sở hữu và điều hành trong CTCP
Số lượng CSHCT cổ phần có thể rất đông, do vậy, khó có thể đuy trì hình
thức quản lý theo kiểu thành viên góp vốn đứng ra trực tiếp điều hành, quản lý công
ty như Hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, CTTNHH; hay mọi thành viên trong công
ty đều có quyển tham gia trong hoạt động điều hành và có thể nhân danh công ty
trong mọi giao dịch như các thành viên hợp doanh trong công ty hợp danh. Khó có
thể tưởng tượng một CTCP với hàng triệu CSHCT[10, trl8], mỗi người đều có thể
hành động nhân danh công ty và mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành động của
hàng triệu thành viên còn lại.
Do vậy, ờ loại hình CTCP, thường có sự tách bạch giữa quyền sờ hữu công ty
và quyền điểu hành công ty (30, tr267]. Ông Nguyễn Ngọc Bích đã ví nếu CTCP ỉà
một chiếc xe Taxi thì người chủ của CTCP là người chủ của chiếc xe, còn tài xê
chính là người điều hành công ty đó. Người chủ có thể có rất nhiều xe và không nhất
thiết phải biết lái xe[ 10, trló]. Còn theo Clark, lợi ích kinh tế của sự tách bạch này là
góp phần chuyên môn hóa hoạt động của công ty. Bởi vì, nhà đầu tư không phải và
không nhất thiết phải là người có khả năng trực tiếp điều hành công ty tốt. Sự
chuyên mốn hóa làm giảm chi phí quản lý, điêu hành công ty. Nếu hàng triệu
CSHCT cùng trực tiếp tiếp nhận thông tin, cùng đánh giá, phân tích và thảo luân để
đưa ra được một quyết định tác nghiệp kinh doanh tốt nhất là một quy trình cực kỳ
phức tạp và không hiệu quả.
Với mục đích giảm chi phí, các CSHCT sẽ ủy quyẻn cho các nhà quản lý
chuyên nghiệp điểu hành công ty của mình. Và để đảm bảo rằng các nhà quản lý
không đi ngược lại lợi ích của mình, các CSHCT thành lập ra bộ máy, cơ chế để
quản lý, kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành. Đó là HĐQT, BKS, và các chế

định và thủ tục khác. CSHCT chỉ duy trì một số quyết định quan trọng liên quan đến
định hướng quan trọng đối với công ty như giải thể, tách, nhập, sửa đổi điều lệ,
thông qua quyền bỏ phiếu của mình tại ĐHĐCĐ.
Có nhiều cách để các CSHCT thể hiện sự không nhất trí với cách thức điều

17

Ị OẠI HỌC Q U Ố C G IA H Á~N Ô l
ị_ ^ U N G TẦM THÒNG TIN ĨHƯ VIỀN


hành công ty. Đối với các CSHCT nắm đa số cổ phần hay có thể tập hợp, liên kết lại
thành nhóm nắm đa số vốn cổ phần, các CSHCT có thể bãi miễn bộ máy quản lý cũ,
bầu ra bộ máy quản ỉý mới và như vậy khi mà bộ máy quản lý cũ thay đổi thì đương
nhiên người điều hành cũng phải thay đổi theo. Đối với các CSHCT thiểu số, cách
đơn giản là bán cổ phiếu của mình đi. Khi nhiểu CSHCT cùng bán ra thì giá cổ
phiếu của công ty trên thị trường sẽ giảm, bộ máy điều hành công ty sẽ chịu sức ép
phải cải tổ, thay đổi. Hoăc các CSHCT có thể liên kết với nhau, để bỏ phiếu thay đổi
bộ máy quản lý, tiến đến bộ máy quản lý mới sẽ phải lựa chọn người điều hành mới
đáp ứng yêu cầu của các CSHCT nếu như không muốn như bộ máy quản lý tiền
nhiệm.
Vai trò cùa các CSHCT và người điểu hành trong CTCP là khác nhau. Theo
cách nghĩ truyển thống, cổ dông là CSHCT không phải là người điểu hành công ty;
quyển điều hành công ty được trao vào tay người khác gọi là người điều hành, người
điều hành sẽ điều hành công ty vì lợi ích của của công ty mà xét cho cùng là vì lợi
ích của các CSHCT. Trong LCT của nhiều quốc gia theo luật tập tục đều quy định
việc điểu hành công ty hàng ngày sẽ được trao cho người điều hành công ty. Các
CSHCT nói chung có rất ít quyền quyết định trong việc điều hành công ty, ranh giới
giữa quyền điểu hành của người điều hành và quyền sờ hữu của các CSHCT được
phân định một cách rõ ràng trong các CTCP đại chúng, quy mô lớn. Những quyết

định quan trong như phát hành thêm cổ phiếu hay chia cổ tức sẽ được các CSHCT
quyết định tại ĐHĐCĐ. Dù vậy, nói chung, các CSHCT thụ động hơn nhiều so với
người điểu hành công ty. Sự tách bạch giữa sở hữu và điểu hành công ty luôn luôn là
mối quan tâm của các CSHCT do có xung đột lợi ích, nhĩmg người điều hành công
ty có khuynh hướng hành động vì quyển lợi của riêng họ chứ không vì lợi ích tối đa
của các CSHCT.
Có người còn cho rằng, tách bạch giữa sở hữu và điều hành là một hiện tượng
trong CTCP, cứ là CTCP thì có sự tách bạch giữa sờ hưu và điểu hành, đây là hiện
tượng hiển nhiên không cần phải chứng minh. Tuy nhiên, cũng chính vì hiện tượng
này mà lý luận cũng như thực tiễn pháp lý đã tốn không biêt bao nhiêu giấy mực để
tìm cách giải quyết các vấn để mâu thuẫn lợi ích có nguyên nhân từ việc tách bạch

18


giữa sở hữu và điểu hành, và cũng chính vì thế mà quản trị CTCP mới trở nên cần
thiết.

1.2.

Sở hữu và điểu hành trong công ty cổ phần

1.2.1. Khái niệm
Sở hữu và điều hành trong một sô loại hình doanh nghiệp:
Bảng 1.1. So sánh sở hữu và điều hành trong CTCP với sở hữu và điều
hành trong một sô loại hình doanh nghiệp phổ biến.
Thuộc tính

Loại


\

hình DN

Trách
nhiệm của
chủ sờ hữu

Chủ sở

Chi phí đại

Người điều

Sở hữu và

hữu

diện

hành

điều hành

DN tư nhân
(Sole

Vô hạn

proprietorshi)


Hợp danh

Vô hạn,

(Partnership)

liên đới.

Một cá
nhân

Thấp, gần
như bằng
không

Quen biết,
tin tường

(Limited liability

hạn số

Thấp

(Corporation)

tách biệt

hữu thuê.

Không

hữu

tách bạch

bình, tổ

CSHCT tự
phân công
hoăc thuê

Tách bạch
tương đối

*

chẽ

Không
CTCP

do chủ sở

Không

Các
Trung

chức chặt


lượng

company)

hoặc

nhau

nhau, giới
Hữu hạn

hữu

Là chủ sở

Quen biết
CTTNHH

Là chủ sở

Hữu hạn

quen biết,
phân tán

Cao, tổ

Làm thuê,


chức phức

do HĐQT

tạp, chặt

lựa chọn, sa

chẽ.

thải

Tách bạch

Từ bảng 1.1. trên ta thấy, tính đa sở hữu và phân tán của các chủ sở hữu tỷ lệ

19


thuận với tính tách bạch giữa sở hữu và điểu hành, tính trách nhiệm hữu hạn của chủ
sở hrru với các khoản nợ của doanh nghiệp, chi phí đại điện trong doanh nghiêp. Nếu
như trong doanh nghiệp tư nhân, chỉ có duy nhất một chủ sở hữu và thường làm luôn
vai trò của người điều hành, chi phí người đại diện là bằng không, sở hữu và điểu
hành không có sự tách biệt. Thì ngược lại, trong CTCP, các chủ sở hữu lên đến hàng
vạn, thậm chí hàng triệu người, phân tán, các CSHCT không phải là người điều hành
công ty, mà phải thông qua HĐQT lựa chọn và giám sát người điểu hành, và vì vây,
chi phí đại diện rất cao. Nhưng đổi lại, các chủ sở hữu CTCP chỉ phải chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phạm vi giá trị cổ phần mà họ đã góp vào công ty thay vì phải
chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của cá nhân mình như các chủ sờ hữu
DNTN. Nhiều người cho rằng, đây là cái giá mà các chủ sờ hữu CTCP trả, họ sẵn

sàng từ bỏ quyển kiểm soát, quyển điều hành công ty cho người khác để đổi lấy tính
trách nhiệm hữu hạn đối với phẩn vớn góp vào công ty. Thậm chí ngay cả trong
trường hợp xấu nhất, các CSHCT cổ phần vẫn có thể bán cổ phần của mình đi nếu
vẫn còn kịp, cùng lắm thì họ cũng chỉ chịu rủi ro trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty mà thôi.
Nếu trong công ty hợp danh các thành viên hợp danh có quyền nhân danh
cồng ty, điểu hành công ty và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn trước các chủ
nợ của công ty thì ngược lại, trong CTCP, các CSHCT không có quyền gì đáng kể
đối với hoạt động điều hành của công ty, ngoài quyền yêu cầu công ty mua lại cổ
phẩn hoặc bán cổ phần của mình cho người khác nếu không hài lòng với cách thức
điểu hành công ty.
CTTNHH được xem là cầu nối giữa công ty hợp danh và CTCP, kết hợp được
ưu điểm của CTCP và công ty hợp danh, khắc phục được nhược điểm pháp lý phức
tạp vể sở hữu và điểu hành, chi phí đại diện cao trong CTCP và không phân chia rủi
ro ờ công ty hợp danh. Các CSHCT trách nhiệm hữu hạn trên cơ sở quen biết nhau
(không được đặt ờ vị trí hàng đầu như trong công ty hợp danh), phần vốn góp vào
công ty mà tự phân công nhau đảm nhiệm các chức vụ quản lý, điều hành trong
công ty. Đối với CTCP, sở hữu và điều hành phức tạp hơn nhiều, nhiệm vụ quan
trọng của các CSHCT là bầu đại diện của mình vào HĐQT, nhiệm vụ tiếp theo của

20


HĐQT mới là lựa chọn, thuê, giám sát, sa thải người điều hành. Các CSHCT cổ phần
không có quyền can thiệp trực tiếp vào hoạt động tác nghiộp thường nhật của người
điều hành công ty.

Sở hữu và điều hành trong CTCP:
Điều hành (management) trong CTCP được hiểu là một tập hợp các cơ chế
nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt động của công ty. Bộ máy điều hành phân định

rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa các thành viên. Joanna Shelton cho rằng sở hữu và
điều hành CTCP theo một nghĩa hẹp của cách dùng truyền thống pháp lý chính là
“các mối quan hệ giữa người điều hành, HĐQT, các CSHCT. Mối quan hệ này hình
thành nên cấu trúc để đạt được các mục tiêu mà công ty đặt ra, cách thức để đạt
được mục tiêu đó và xác định cơ chế giám sát việc thực hiện của người điều hành.
Giáo sư Kenneth Scott của Trường Luật Stanford cho rằng: “Xét ờ góc độ
toàn diện, sở hữu và điều hành CTCP bao gồm tất cả các ảnh hưởng liên quan đến
quá trình ra quyết định của công ty. Đó là quyền kiểm soát của các CSHCT, là
những hợp đồng giao kèo và quyển đệ đơn phá sản của các chủ nợ, những cam kết
với người lao động, các khách hàng và nhà cung cấp, các quy định của cơ quan quản
lý Nhà nước ban hành, những đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua. Ngoài ra, các
quyết định của công ty còn chịu ảnh hưởng lớn từ sự cạnh tranh ngoài thị trường nơi
nó hoạt động.
Trong CTCP, sờ hữu và điểu hành có sự tách biệt: đây là một đặc thù của loại
hình CTCP. Các CSHCT phân tán, thường không trực tiếp tham gia hoạt động điểu
hành hàng ngày của công ty, do vậy, nguy cơ là những người điều hành có thể điều
hành công ty không vì lợi ích của các CSHCT mà vì lợi ích riêng của họ như theo
đuổi các mục đích tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn, tiến hành các giao dịch bất lợi cho
công ty nhu bán rẻ các tài sản của công ty cho các công ty khác mà mình góp vốn...
Mất cản đối về thông tin giữa các CSHCT và những người trực tiếp điều hành
công ty. Người điều hành hay HĐQT của công ty chịu trách nhiệm quản lý điều
hành công ty hàng ngày, nên rõ ràng họ sẽ có được các thông tin đầy đủ hơn và
chính xác hơn nhiều so với các CSHCT. Sự mất cân đối giữa chất lượng và số lượng

21


thông tin về công ty mà người điểu hành có được so với các CSHCT có được dễ dẫn
đến những thiệt hại cho các CSHCT. Ngày cả những người trực tiếp điều hành công
tv muốn điều hành công ty vì lợi ích của CSHCT thì dù không cố tình họ cũng có

thể thường xuyên đưa ra các quyết định sai lầm nếu như không được giam sát đầy
đủ và chịu sự điều chỉnh thường xuyên của cơ chế giám sát, kiểm tra[30, tr332].
Những công ty được điều hành theo kiểu gia đình tỏ ra không phù hợp với sự
đa dạng hóa, chuyên môn hóa của môi trường hoạt động kinh doanh hiện nay: Việc
điều hành công ty đòi hòi ngày càng phải chuyên nghiệp hơn. Rõ ràng, xung đột về
mặt lợi ích chưa xuất hiện trong các công ty đóng kín [10, tr268]. Hơn nữa, việc mở
rộng quy mô, địa bàn hoạt động để nâng cao sức cạnh tranh của công ty đòi hỏi phải
thu hút vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài: cùng với đó là yêu cầu về tính rõ ràng,
minh bạch của hệ thống điều hành trong công ty để những nhà đầu tư bên ngoài có
thể tin cậy mà "gửi" tiền vào kinh doanh.

1.2.2. Chủ sở hữu của công ty cổ phần
Thuyết quyền thành viên cho rằng, quyển của CSHCT thể hiện địa vị pháp lý
của các CSHCT dựa vào việc họ là (hành viên của công ty. Quyền CSHCT là quyền
thành viên tương ứng với phần vốn góp của mình trong công ty. Quyền thành viên
gổm hai nhóm quyền: quyển lợi ích riêng và quyển lợi ích chung. Hai nhóm quyền
này không phải là những quyền độc lập với nhau mà là hai quyền năng có nguồn
gốc từ quyển thành viên. Lý thuyết này đã được Nhật Bản, Trung Quốc kế thừa cũng
như đã trở thành lý thuyết chung của hệ thống dân luật (civil law) vé bản chất của
quyền CSHCT. Tuy nhiên, thuyết quyển thành viên dù đã khẳng định quyền CSHCT
gồm tổng thể các nhóm quyền lợi của CSHCT, nhưng về cơ bản, chưa trả lời thỏa
đáng câu hỏi vị trí pháp lý quyển của các CSHCT. Người ta không thể dùng lý
thuyết này để giải thích một cách hợp lý mối quan hệ nội bộ giữa công ty với các
CSHCT và giải thích thỏa đáng những xung đột lợi ích giữa CSHCT và công ty.

Thuyết địa vị CSHCT cho rằng, quyền CSHCT thể hiện địa vị pháp lý của
CSHCT dựa vào phần vốn góp hoặc cổ phần của họ, mà nhờ có địa vị pháp lý này,
các CSHCT thụ hường các quyền lợi đối với công ty. Lý thuyết này thực chất không '

22



có gì khác với thuyết quyền thành viên.

Thuyết trái quyền cho rằng, quyền CSHCT xét về mặt bản chất, mang tính
chất trái quyền với việc lấy yêu cầu phân chia lợi ích của công ty làm mục đích của
CSHCT. Lý thuyết này ghi nhận rằng công ty từ khi có tư cách pháp nhân thì đã là
chủ tài sản của công ty, trong khi CSHCT thì có quyền lợi duy nhất đối với cổng ty
là quyền yêu cầu được thụ hưởng lợi ích của công ty, tức là được phân chia lợi tức và
lợi nhuận của công ty. Khi đóng phần vốn góp vào công ty, CSHCT đã chuyển
quyền sở hữu tài sản của mình cho công ty. Nhưng nếu chỉ mới dựa vào những lý do
nêu trên, sẽ rất khó để tạo được sự tin tưởng rằng: quyền CSHCT vé bản chất là trái
quyền. Trên thực tế, mối quan hệ CSHCT với công ty không phải là mối quan hệ trái
quyển và trái vụ.

Thuyết quyền sở hữu cho rằng, về bản chất quyển của cổ đông là quyền sờ
hữu công ty. Đó là sự tách bạch giữu quyền sở hữu và quyển điều hành trong công
ty. Cổ đỏng hưởng quyén sở hữu đối với công ty trong khi công ty hưởng quyền sở
hữu tài sản của công ty. Đây chính là thuyết “hai quyền sờ hữu song hành”. Thực ra
tài sản của công ty thể hiện mối quan hệ sở hữu chung giữa các CSHCT, là sự biến
dạng của mối quan hệ sờ hữu chung cổ điển trong điều kiện mới.
Tóm tại, bốn lý thuyết về quyển CSHCT nêu trên đều có lý ở một mức độ nào
đó, nhưng chúng vẫn không thể lý giải rõ ràng và hợp iý về quyền CSHCT. Quyẻn
CSHCT không phải là quyền chù sờ hữu cũng không phải là trái quyền. Không một
CSHCT nào có thể nhân danh cá nhân mình để chiếm hữu, sử dụng, hay định đoạt
bất cứ tài sản nào của công ty. Sau khi CSHCT góp phần vốn vào công ty, đối tượng
tài sản mà CSHCT có quyền chi phối đã thay đổi từ dạng tài sản trở thành dạng giá
trị tài sản, tức là cổ phần. Điều đó chứng minh rằng quyền CSHCT khồng còn
“nguyên vẹn" là quyền sở hữu theo nghĩa thông thường nữa.
CSHCT là thành viên của các chủ sờ hữu công ty. Quyền CSHCT thể hiện

mối quan hệ giữa CSHCT với công ty. CSHCT bất kể là cá nhân, pháp nhân hay là
Nhà nước đểu chỉ là thành viên sờ hữu công ty, là các phần tử cấu thành ĐHĐCĐ.
Nếu địa vị CSHCT phụ thuộc vào việc công ty có tư cách pháp nhân thì quyền

23


CSHCT phụ thuộc vào việc công ty có quyền sở hữu tài sản độc lập, tách biệt về mặt
tài sản giữa CSHCT và công ty.
Theo lý luận LCT các nước, sau khi CSHCT đóng góp tài sản vào công ty,
cỊuyền sở hữu tài sản đó của CSHCT đã biến đổi thành quyền sờ hữu cổ phần của

còng ty, tức là cổ đông là chủ sở hữu số cổ phần mà mình nắm giữ. CSHCT không
được quyền định đoạt những tài sản thực tế mà mình đã góp vào công ty nữa, nhưng
có thể bán cổ phiếu tại thị trường chứng khoán. Sự vận hành của tài sản thực tế của
công ty đã tách khỏi sự vận hành giá trị tài sản đó. Số lượng CSHCT có thể biến đổi
hàng ngày, nhưng tài sản của công ty thì luôn luôn được duy trì trạng thái ổn định,
trọn vẹn và ờ trong quá trình vận hành để tăng thêm giá trị của nó.
Cổ đông là thành viên của các CSHCT và có quyền chủ sờ hữu đối với công
ty. Cổ đông thực hiện quyền của CSHCT bằng cách biểu quyết trong cuộc họp
ĐHĐCĐ hoặc trong cuộc họp HĐQT, theo quy định của pháp luật và theo quy định
của điều ỉệ công ty. Không một CSHCT nào có quyển trực tiếp chiếm hữu, sử dụng,
hưởng thụ và định đoạt tài sản công ty. Việc sử dụng những tài sản của công ty phục
vụ cho các mục đích của công ty do người được ủy quyền điều hành quyết định.
Quyền của CSHCT xuất phát từ quyền hưởng thụ iợi ích từ cổ phần. CSHCT
nắm cổ phiếu và có thể sử dụng cổ phiếu đó để tặng cho, được bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ; nhưng quan trọng hom cả là họ có các quyển hạn phát sinh từ số cổ phần
mà họ nắm giữ. Thông thường, quyền của CSHCTbao gồm: (1) quyển bán cổ phiếu,
(2) quyên bầu người đại diện, (3) quyền kiện đòi bồi thường khi người đại diện
không hoàn thành nghĩa vụ, (4) quyển xem xét một số thông tin và (5) quyén được

chia phần tài sản còn lại khi công ty đã thanh toán hết nợ nần trong trường hợp giải
thể hay phá sản công ty.
CSHCT thực hiện quyền lực của mình qua việc tham gia ĐHĐCĐ thực chất
chỉ thực hiện có hai việc: một là, chọn lựa hoặc bãi nhiệm HĐQT; hai là, phê chuẩn
một số hoạt động bất thường của công ty. Trong hai việc này thì bầu ra HĐQT là
quyền lớn nhất của CSHCT vì qua đó họ chọn ra người đại diện cho mình. Bầu chọn
hay bãi nhiệm thành viên HĐQT tạo ra một áp lực lớn để buộc các thành viên

24


HĐQT làm tốt công việc của mình. Luật cho phép các CSHCT có quyển bãi nhiệm
thành viên HĐỌT cũng như cả HĐQT không cần lý do, trừ khi điểu lệ công ty có
quy định khác. Như vậy, CSHCT không có quyền can thiệp trực tiếp đến quyén của
người điều hành công ty, nếu muốn can thiệp, họ chỉ có thể can thiệp bằng cơ chế
trung gian đó là HĐQT. Đây là đặc trưng pháp lý của CTCP khiến cho loại hình
doanh nghiệp này khác biệt với các loại hình đoanh nghiệp khác.
Một sô' hoạt động bất thường của công ty đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của
CSHCT vì chúng liên quan trực tiếp tới số phận của công ty, hoặc ảnh hưởng đến
mục đích ban đầu của các CSHCT. Luật pháp giới hạn các hoạt động bất thường đó
là: cho thành viên HĐQT vay tiền, bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của công ty
nằm ngoài kế hoạch, chiến lược kinh doanh bình thường đã được thông qua, sáp
nhập, sửa đổi điều lệ công ty, giải thể công ty. Tuy nhiên, liên quan đến những
quyển này, CSHCT chỉ có quyền phê chuẩn mà không có quyền đề xuất.
Bảo đảm cho việc thực thi quyền biểu quyết của mình tại cuộc họp một cách
hiệu quả, CSHCT có quyên được cung cấp thông tin vể tình hình hoạt động của cỏng
ty. Tuy nhiên, LCT nhiểu nước quy định, thông tin mà các CSHCT có quyền được
cung cấp bị giới hạn, chỉ trong phạm vi: biên bản họp HĐQT; sổ sách kế toán; danh
sách CSHCT.
LCT các nước trôn thế giới nhìn chung đều có quy định bảo vệ quyền lợi cho

các CSHCT thiểu sô' bằng cách cho phép họ yêu cầu công ty mua lại cổ phần của họ
với giá thị trường. Năm hoạt động bất thường làm phát sinh quyền của các CSHCT
thiểu sô' thường là: (1) sáp nhập hay hợp nhất; (2) bán hay chuyển nhượng toàn bộ
hay một phần tài sản của công ty nằm ngoài hoạt động kinh doanh bình thường; (3)
công ty mua lại thông qua chuyển nhượng cổ phần; (4) sửa đổi bản điều lệ công ty
gây ảnh hường nghiêm trọng và đi ngược lại quyền lợi của CSHCT; (5) những hoạt
động khác của công ty làm cho CSHCT bất đồng ý kiến theo quy định của bản điều
lệ, nội quy, quyết định của HĐQT.
Để bảo đảm cho việc thực hiện quyển của mình, các CSHCT có thể kiện ra
Toà. Kiện trực tiếp nhân danh cá nhân hoặc nhóm CSHCT hoặc kiện nhân danh

25


công ty. Kiên trực tiếp để buộc thực hiện các yêu cầu xuất phát từ sở hữu cổ phần
như: quyền biểu quyết, quyển xem sổ sách... Kiện nhân danh công ty khi vốn đầu lư
của CSHCT bị mất mát do công ty bị thiệt hại bời TVHĐQT, người điều hành, khi
những người này vi phạm nghĩa vụ của mình.
Tóm lại, CSHCT bị giới hạn quyền lực, không thể tham gia trực tiếp vào việc
điểu hành hàng ngày của công ty mà chỉ được cung cấp công cụ để bảo vệ vốn đầu
tư của mình. Quyền lực hạn chế đối với hoạt động điều hành công ty như vậy phù
hợp với các công ty có quy mô lớn, các CSHCT phân tán và tạo điểu kiện cho hoạt
động điều hành được tiến hành nhanh chóng bởi những người có chuyên môn cao,
đủ quyền ỉực cần thiết để ra được các quyết định điều hành nhanh nhạy phản ứng
kịp thời với những thay đổi của thị trường. Chừng nào công ty còn làm cho những
CSHCT tin tưởng vào tương lai của nó thì chừng đó các CSHCT còn giữ lại cổ phần
của mình trong công ty, và chừng đó bộ máy điểu hành còn duy trì được sự ổn định
trước nguy cơ có thể bị thay thế bởi các CHSCT mới.

1.2.3. Hội đồng quản trị

Các chủ sở hữu CTCP bầu ra HĐQT, yêu cầu bộ phận này chịu trách nhiệm
việc quản lý công ty, lựa chọn người điều hành, giám sát hoạt động điều hành, và
bảo đảm rằng công ty lúc nào cũng tạo ra lợi nhuận, HĐỌT phải là người đại diện
cho các CSHCT: được giao quyền lực và bị ràng buộc bằng cơ chế chịu trách nhiệm.

Quyền hạn của hội đồng quản trị:
HĐQT là bộ phận đại diện cho các CSHCT và làm việc theo chế độ tập thể.
Quyển lực trong CTCP bản chất thuộc về các CSHCT, nhưng các CSHCT thì không
thể tham gia trực tiếp các công việc quản ỉý hàng ngày, vì vậy quyền lực thực hiện
thuộc vế HĐQT. Tất cả quyền lực trong công ty đều phải được quyết định thông qua
HĐQT hay theo sự uỷ quyền của HĐQT cho người điểu hành. Hoạt động kinh
doanh và quản lý nội bộ trong cồng ty được thực hiện theo sự hướng dẫn, cho phép
của HĐQT. Do vậy, người điều hành tiến hành công việc theo sự uỷ quyển từ
HĐQT, và chịu trách nhiộm trước HĐQT. Nếu như quyển quan trọng nhất của
CSHCT là bầu ra HĐQT và hầu như không có quyền hạn gì can thiệp trực tiếp vào

26


×