Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và quản lý hệ đào tạo từ xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.27 KB, 9 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
VÀ QUẢN LÝ ĐỐI VỚI HỆ ĐÀO TẠO TỪ XA
Giáo dục từ xa, theo TS Penn, Giám đốc Trung tâm giáo dục từ xa Hoa Kỳ là
“quá trình được kế hoạch hóa, người học tách với người dạy về không gian, cần phải
có thủ pháp đặc biệt trong việc thiết kế chương trình, hướng dẫn học tập, phương
pháp và công nghệ chuyển tải thông tin cũng như sự tổ chức và quản lý”. Do vậy,
giáo dục từ xa đòi hỏi rất nhiều yếu tố để đảm bảo chất lượng sản phẩm – các học
viên hệ đào tạo từ xa - như nội dung môn học, nội dung tài liệu, phương pháp truyền
thụ kiến thức của giáo viên, phương pháp tổ chức đánh giá chất lượng và kết quả học
tập của học viên …
Sau một thời gian triển khai ở Việt Nam, đào tạo từ xa đã thể hiện rõ các ưu
thế nổi bật của mình. Đó là:


Tiết kiệm chi phí cho cả học viên và cơ sở đào tạo. Học viên giảm được chi phí

đi lại còn cơ sở đào tạo giảm được chi phí tổ chức địa điểm và chuẩn bị cơ sở vật chất
phục vụ cho đào tạo.


Tiết kiệm thời gian nhờ giảm thời gian đi lại và giảm sự phân tán. Học viên

chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu ở nhà, nên có thể vừa tham gia học tập vừa tham gia
công tác; giảng viên chỉ giải đáp thắc mắc và điểm lại các nội dung chính.


Tính linh hoạt cao: Học viên tự nghiên cứu tài liệu nên có thể tự sắp xếp thời

gian học tập phù hợp với sức khỏe, công việc và quỹ thời gian riêng.



Huy động được chất xám của đông đảo nhà giáo giảng dạy và phục vụ giảng

dạy tại các cơ sở giáo dục khác nhau.


Góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hóa giáo dục khi các cơ sở liên kết tại các

địa phương giúp cơ sở đào tạo giảm thiểu chi phí về cơ sở vật chất, trang thiết bị …


Góp phần đa dạng hóa các hình thức đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi

người dân được tham gia học tập, hướng tới mục tiêu phát triển một xã hội học tập.


Hỗ trợ các cơ sở đào tạo và liên kết có nguồn thu phục vụ cho hoạt động đào

tạo, giảng dạy, nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị, từng bước cải thiện môi
trường học tập và giảng dạy cho giáo viên và học viên.

1


Tuy vậy, thực tế cho thấy đào tạo từ xa cũng gặp phải một số thách thức lớn như
những quan ngại về chất lượng đào tạo, sự tương tác giữa thày và trò gặp nhiều trở
ngại, nội dung giáo trình tài liệu còn chưa thật sự phù hợp, nặng tính lý thuyết …
Nhằm góp phần giải quyết những trở ngại mà giáo dục từ xa đang phải đối mặt, tôi
xin nêu ra một số giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng của đào tạo từ xa và
công tác quản lý tại các cơ sở liên kết ở địa phương.
1. Lựa chọn nội dung môn học phù hợp với mục đích đào tạo

Nội dung môn học phải tuân thủ mục đích đào tạo, giảm phần lý thuyết và tăng
cường thời lượng cho phần thực hành, thực tập thực tế cho học viên theo phương
châm “cơ bản, hiện đại và thiết thực”. Học viên sau khi tốt nghiệp phải có kiến thức
chuyên ngành cần thiết, kỹ năng thực hành cơ bản và được trang bị đạo đức nghề
nghiệp. Ngoài ra, do đối tượng học viên hệ từ xa rất đa dạng về lứa tuổi, trình độ, kỹ
năng, kinh nghiệm sống nên nội dung môn học phải được lựa chọn phù hợp, cung cấp
các kiến thức, tri thức căn bản phù hợp với trình độ của học viên, bên cạnh những
phần chuyên sâu, nâng cao dành cho các đối tượng học viên có trình độ và kỹ năng
cao hơn. Đặc biệt, nội dung môn học cần phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tìm
tòi của học viên bằng cách đưa ra các nội dung cụ thể, các câu hỏi tình huống lấy từ
trong thực tiễn đời sống và sản xuất.
Cần có sự trao đổi, bàn bạc thống nhất giữa các cơ sở được phép tổ chức hình thức
đào tạo từ xa nhằm tạo ra một chương trình giáo dục từ xa thống nhất, tạo ra sự đồng
bộ trong quản lý, giảng dạy và nội dung chương trình nhằm nâng cao vị thế và chất
lượng của đào tạo từ xa.
Rõ ràng việc lựa chọn nội dung môn học đóng vai trò rất quan trọng trong việc
kích thích sự ham học của học viên và tính chủ động, tìm tòi của giảng viên trên cơ sở
cung cấp kiến thức nền tảng, cơ bản và tạo điều kiện để học viên phát huy tính tự chủ
trong quá trình học tập.
2. Xây dựng bộ học liệu mang tính chuẩn mực và hiện đại
Đối với loại hình đào tạo từ xa, tài liệu học tập giữ vai trò vô cùng quan trọng, là
người thày trực tiếp truyền thụ kiến thức và tri thức cho học viên. Do đó việc xây
dựng một bộ học liệu chuẩn mực là vô cùng cần thiết và cấp bách.

2


Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, sách và đĩa CD kèm theo thường
là học liệu phổ biến và không thể thay thế đối với học viên. Tuy nhiên, để tăng cường
khả năng truyền thụ và đáp ứng nhu cầu của nhiều học viên, căn cứ vào tình hình thực

tế của cơ sở đào tạo, nên mở rộng các hình thức của học liệu như nguồn học liệu mở,
internet, băng hình, đài phát thanh … trong đó hình thức internet và đĩa CD đóng vai
trò rất quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay.
Nội dung của internet và đĩa CD không nên chỉ đơn thuần là cung cấp tài liệu
tham khảo mà nên cung cấp các bài giảng cụ thể, thực tế, băng hình các buổi giảng
dạy thực tế của giảng viên theo từng chương hay chủ đề. Các cơ sở đào tạo cần có
riêng một nguồn học liệu điện tử, cung cấp các bài giảng, băng ghi hình này để giúp
học viên tự học và ôn tập ở nhà. Các tài liệu này nên được lưu giữ trên website của cơ
sở đào tạo để học viên có thể tự truy cập vào bất cứ thời gian nào với một tài khoản
riêng cho trước.
Nội dung của học liệu là một vấn đề gây ra nhiều ý kiến trái chiều như nội dung
nên đảm bảo đầy đủ như nội dung dành cho hệ đào tạo chính quy hay rút gọn lại, tỷ lệ
giữa lý thuyết và thực hành bao nhiêu là hợp lý. Cá nhân tôi cho rằng, nên có một bộ
học liệu dành cho đào tạo từ xa dựa trên hệ thống học liệu, giáo trình chuẩn của hệ
đào tạo chính quy nhằm đảm bảo học viên của các hệ đào tạo khác nhau đều được
cung cấp kiến thức nền tảng như nhau, tạo ra sự công bằng đối với tất cả học viên của
các loại hình đào tạo. Tuy nhiên, do đặc thù của đối tượng học viên hệ từ xa, thời
lượng học khác với hệ chính quy và tại chức, các cơ sở đào tạo nên bổ sung thêm các
đề cương, tài liệu tóm tắt và hướng dẫn tự học để học viên xác định được kiến thức
trọng tâm và có định hướng tự ôn tập và nghiên cứu.
Trong quá trình biên soạn, chuẩn bị học liệu, nên tham khảo ý kiến của chính các
giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy và của học viên về “sức nặng” của chương
trình để xây dựng nội dung học liệu hiện đại, chuẩn mực và chính xác, đáp ứng được
nhu cầu và phù hợp với trình độ khác nhau của học viên.
Hình thức của học liệu cũng nên phong phú, sinh động, tạo hứng thú cho người
học. Học liệu môn Tin học cơ bản của ngành Kế toán và Quản trị Kinh doanh thuộc
Viện Đại học Mở có thể là một ví dụ cho bộ học liệu có hình thức, thiết kế đẹp, nội

3



dung phù hợp, đĩa CD kèm theo sách rất dễ hiểu, hướng dẫn cụ thể, phù hợp với trình
độ của đa số học viên và được học viên khen ngợi.
Việc cung cấp học liệu sớm cũng là một yếu tố quan trọng để học viên có thời
gian nghiên cứu, tìm hiểu trước khi tập trung nghe giảng viên ôn tập, giải đáp thắc
mắc. Tất cả các học liệu nên được cung cấp ít nhất là từ 2 đến 3 tháng cho học viên để
họ có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
3. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên
Phương pháp giảng dạy là một trong những điều kiện tiên quyết quyết định mức
độ tiếp thu kiến thức và tạo hứng thú học tập cho học viên đồng thời giúp giảng viên
truyền tải kiến thức đến học viên một cách hệ thống và hiệu quả.
Thực tế cho thấy, đa số giảng viên vẫn thực hiện hình thức thuyết giảng truyền
thống do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nên chăng, giáo viên gửi trước
đề cương ôn tập, câu hỏi hoặc tình huống thảo luận để học viên chuẩn bị trước theo
nhóm trước khi đến giờ ôn tập ít nhất là một đến hai tháng. Đến giờ ôn tập, giải đáp
thắc mắc, giảng viên chỉ giải đáp phần nội dung và câu hỏi khó, dễ gây tranh cãi hoặc
hiểu lầm. Phương pháp này vừa tăng tính chủ động của học viên, vừa là hình thức
buộc học viên phải tìm hiểu học liệu để theo kịp tiến độ chương trình đồng thời giúp
giáo viên giảm thiểu việc đọc – chép thông thường.
Ngoài thời gian ôn tập, giải đáp thắc mắc theo quy định của cơ sở đào tạo, giảng
viên nên dành riêng một khoảng thời gian nhất định cho học viên từng lớp để hỗ trợ
học viên ôn tập. Có thể thực hiện việc hỗ trợ này qua các diễn đàn hoặc hình thức thư
điện tử.
Hướng dẫn học viên kỹ năng và phương pháp làm bài kiểm tra, thi hết học phần,
viết tiểu luận (nếu có) cũng là một trách nhiệm quan trọng của giảng viên. Giảng viên
cần hỗ trợ học viên cách khai thác, nắm bắt câu hỏi, phương pháp suy luận, trình bày
câu trả lời và kết cấu câu trả lời hoặc bài tiểu luận (nếu có) theo đúng đặc thù của bộ
môn, tránh tình trạng như hiện nay là khá nhiều học viên, không biết cách trình bày
bài làm, không biết nêu bật các vấn đề trọng tâm, trả lời lan man theo kiểu “thừa hơn
bỏ sót” gây khó khăn cho cán bộ chấm thi. Nếu môn học có câu hỏi tình huống, bài

tập mẫu, hay yêu cầu viết tiểu luận, giảng viên càng phải chú trọng đến việc chữa thật

4


kỹ các bài tập này, hướng dẫn kết cấu, mẫu chung của bài tiểu luận, cách tìm và trích
dẫn tài liệu tham khảo để giúp học viên nắm bắt được cách trình bày vấn đề.
Bên cạnh đó, giảng viên phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, phương pháp sư phạm để tạo được thiện cảm với học viên. Đồng thời giảng viên
nên trang bị cho mình các kỹ năng giao tiếp với các đối tượng học viên khác nhau,
rút ngắn khoảng cách thày – trò, cách thăm dò ý kiến học viên về nội dung môn học,
phương pháp giảng dạy và nhu cầu thông tin của họ để kịp thời điều chỉnh để việc
giảng dạy đạt kết quả tốt nhất. Giảng viên cũng cần dành thời gian hợp lý để cân bằng
giữa việc chuẩn bị bài giảng của hệ đào tạo chính quy với bài giảng của hệ đào tạo từ
xa.
4. Hoàn chỉnh và cải tiến phương pháp thi cử, đánh giá kết quả học tập của học
viên
Vấn đề hoàn chỉnh và đổi mới phương pháp thi cử, đánh giá kết quả học tập của
học viên cũng là một phần của công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống đánh giá,
kiểm tra chất lượng của giáo dục Việt Nam.
Theo tôi, nội dung thi cử của hệ đào tạo từ xa cần phải bám sát nội dung giảng
dạy, tránh tình trạng nội dung câu hỏi không có trong học liệu hoặc không được giáo
viên hệ thống. Câu hỏi không nên đánh đố học viên mà nên mang tính cơ bản, tổng
quát, hoặc đi sâu vào một vấn đề cụ thể của môn học, tập trung vào những vấn đề nổi
cộm, thiết thực của thực tế đời sống, sản xuất, phục vụ cho công việc hiện tại và
tương lai của học viên. Nên có hình thức câu hỏi mở, cho phép học viên thể hiện ý
tưởng cá nhân.
Để giảm áp lực cho cán bộ coi thi và học viên, nên ra hình thức câu hỏi cho phép
học viên sử dụng học liệu trong quá trình làm bài thi, kết hợp hình thức thi tự luận và
trắc nghiệm nhằm tạo điều kiện cho tất cả các học viên phát huy được thế mạnh khác

nhau của mình.
Với các môn có tính thực tế cao nên đưa ra các câu hỏi tình huống hoặc dưới dạng
viết thu hoạch để học viên chủ động nhiều hơn trong việc tìm tòi, suy luận, tham khảo
học liệu và theo dõi diễn biến thực tế của đời sống kinh tế xã hội. Ví dụ như trong kỳ
thi hết môn Kinh tế Vi mô vừa qua của ngành Kế toán và Quản trị Kinh doanh, đề thi

5


đã chú trọng cả phần lý thuyết và thực tế khi phân chia một nửa câu hỏi về lý thuyết
và một nửa câu hỏi là bài tập tình huống.
Với một số môn như ngoại ngữ, có thể thay hình thức thi viết bằng thi vấn đáp vì
thực tế cho thấy, kỹ năng nói và nghe của học viên còn yếu, không phục vụ được cho
nhu cầu công việc của họ trong lúc học hoặc sau khi tốt nghiệp.
Việc một số môn học của Viện Đại học Mở đã thành lập được ngân hàng câu hỏi
cũng là một phương pháp tốt, một dấu hiệu đáng mừng. Cần có kế hoạch rà soát lại hệ
thống câu hỏi này dựa trên ý kiến tham khảo từ giảng viên, chuyên gia giáo dục và
học viên nhằm đảm bảo tính cơ bản, thiết thực, cập nhật và trọng tâm của các câu hỏi
này.
Lâu nay Viện Đại học Mở Hà Nội vẫn đánh giá kết quả học tập của học viên đối
với từng môn qua bài thi hết môn, hết học phần. Để đảm bảo tính hệ thống và chuẩn
xác hơn nữa trong đánh giá, nên chăng cần có các bài kiểm tra giữa kỳ. Tùy theo thời
lượng và yêu cầu thực tế của từng môn học, giảng viên có thể yêu cầu học viên viết
bài thu hoạch, liên hệ thực tế hay trình bày ý kiến về một vấn đề ngay trong quá trình
ôn tập trên lớp. Thời gian cho mỗi bài kiểm tra giữa kỳ có thể từ 1 đến 2 tiếng, với
nhiều chủ đề, câu hỏi khác nhau, tránh việc học viên sao chép ý tưởng của nhau và
buộc học viên phải nghiên cứu học liệu và dành thời gian để suy ngẫm về vấn đề đó.
Bài kiểm tra giữa kỳ chỉ có thể được thực hiện nếu giảng viên gửi đề cương chi tiết,
tóm tắt nội dung ôn tập từ trước cho học viên. Với một số môn như tin học, tiếng
Anh, nếu cơ sở đào tạo có điều kiện, có thể yêu cầu học viên làm bài tập trực tuyến

trong thời gian quy định, hệ thống sẽ tự động chấm điểm và gửi kết quả về bộ phận
quản lý.
Viện Đại học Mở Hà Nội nên thực hiện chuyển đổi từ đào tạo niên chế như hiện
nay sang đào tạo theo tín chỉ đối với học viên hệ từ xa, nhằm tạo điều kiện cho học
viên theo học và tích lũy đủ số tín chỉ theo quy định. Vấn đề này rất quan trọng do
một số lượng lớn học viên hệ từ xa đang công tác tại các cơ quan trong và ngoài nhà
nước, phải đi công tác hoặc làm việc thêm giờ trùng với thời gian ôn tập tập trung
hoặc thời gian thi. Bên cạnh đó, việc đào tạo theo tín chỉ có thể giúp Viện thực hiện
việc tuyển sinh linh hoạt, theo nhiều đợt khác nhau trong cùng một năm, mang lại lợi
ích cho cả học viên và cơ sở đào tạo.

6


Viện cũng nên có hệ thống thu thập ý kiến đánh giá của học viên về chất lượng
giảng dạy của giảng viên, nội dung và hình thức thi cử sau mỗi học kỳ hoặc đợt học
nhằm có các phản hồi nhanh chóng và điều chỉnh cần thiết nhằm đánh giá chính xác,
khách quan kết quả học tập của học viên và việc giảng dạy của giảng viên.
5. Tăng cường công tác quản lý và trao đổi kinh nghiệm quản lý tại các cơ sở
liên kết ở địa phương
Các cơ sở liên kết tại địa phương giữ vai trò cầu nối giữa học viên với cơ sở đào
tạo. Thực tế công tác quản lý nói chung và quản lý học viên nói riêng tại các cơ sở
liên kết ở địa phương cho thấy có một số khó khăn và trở ngại cần khắc phục. Sau
một thời gian dài thực hiện công tác quản lý học viên từ xa tại cơ sở liên kết ở địa
phương, tôi xin trình bày một số ý tưởng để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công
tác này như sau:


Cần cung cấp đầy đủ thông tin về chương trình học và quyền lợi của học viên


cho cán bộ quản lý tại các cơ sở liên kết ở địa phương. Với sự hỗ trợ của internet như
ngày nay, Viện có thể lập một góc riêng dành cho cán bộ quản lý và nhân viên, cung
cấp tất cả các tài liệu, biểu mẫu, công văn, quy định liên quan đến các chương trình
đào tạo của Viện và phổ biến kinh nghiệm, cách làm hay của các cơ sở địa phương
trong việc quản lý. Hoặc có thể lập google group để thông báo các vấn đề mới, những
thay đổi cho tất cả các thành viên trong nhóm. Phiên bản website mới của Viện đã
bước đầu cung cấp một số thông tin cần thiết để cán bộ và nhân viên tại cơ sở địa
phương tham khảo.


Thực hiện đúng cam kết về thời gian trong việc giải quyết các thủ tục và công

việc hành chính như thời gian thông báo kết quả xét tuyển học viên, thông báo danh
sách học viên được miễn học miễn thi các môn, thông báo điểm thi các môn, gửi học
liệu cho cơ sở liên kết …. Thực tế cho thấy, việc công bố điểm thi và danh sách học
viên được miễn học miễn thi, giải đáp thắc mắc miễn học miễn thi của Viện còn chưa
được thực hiện đúng thời gian quy định, gây khó khăn cho học viên và cán bộ quản lý
tại cơ sở địa phương.


Các cơ sở đào tạo và cơ sở liên kết ở địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc

quán xuyến lớp và kiểm tra ý thức của học viên như thực hiện việc điểm danh vào các
thời gian khác nhau, nghiêm túc thực hiện quy định viết bài thu hoạch đối với học

7


viên, giữ gìn trật tự trong giờ học, thường xuyên trao đổi với ban cán sự lớp để nắm
bắt tình hình học tập, tâm tư nguyện vọng của học viên … Cử cán bộ quản lý hoặc

giáo viên chủ nhiệm phụ trách các lớp nhằm tăng cường sự trao đổi, nắm bắt kịp thời
nguyện vọng và giải đáp thắc mắc cho học viên.


Ngoài quy định của Viện dành cho học viên từ xa, căn cứ vào tình hình thực tế,

các cơ sở địa phương cần có các quy định riêng dành cho các lớp hệ từ xa phù hợp với
mục tiêu, quy định của cơ sở đào tạo.


Đảm bảo cho học viên và giảng viên được tận dụng tối đa điều kiện cơ sở vật

chất của cơ sở địa phương. Ví dụ như tại Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên,
nhờ trang thiết bị hiện đại với hệ thống máy tính nối mạng cùng kho tài liệu học tập
phong phú, các học viên hệ từ xa học tại Trung tâm còn được phép sử dụng máy tính
nối mạng và hệ thống wifi của Trung tâm, mượn sách, báo tài liệu về nhà, sử dụng hội
trường và căng tin … Các giảng viên có thể sử dụng hệ thống âm thanh và trình chiếu
hiện đại, các phòng đa phương tiện hỗ trợ của Trung tâm để góp phần làm cho bài
giảng thêm phong phú và sinh động.
Ngoài ra, liên quan đến công tác tuyển sinh và chế độ chính sách dành cho học
viên hệ từ xa, tôi xin có một vài kiến nghị như sau:


Các lớp học hiện nay không phân biệt trình độ, bằng cấp của học viên, chỉ cần

có bằng tốt nghiệp PTTH hoặc tương đương trở lên là được đăng ký học. Điều này
gây khó khăn cho chính học viên và giảng viên trong quá trình ôn tập và tiếp thu kiến
thức do trình độ và nhận thức khá chênh lệch của học viên. Nên chăng, cần có sự sơ
tuyển và phân lớp theo trình độ, nhằm tạo điều kiện học tập, giảng dạy phù hợp nhất
cho cả giảng viên và học viên.



Viện nên có chính sách miễn giảm học phí cho một số học viên hệ từ xa thuộc

diện gia đình chính sách hay có hoàn cảnh khó khăn và khen thưởng với các học viên
đạt thành tích cao trong học tập hay tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể. Cách
làm này vừa động viên, khuyến khích học viên tham gia học tập vừa có tác dụng tạo
ra sự công bằng giữa các hệ đào tạo khác nhau.
Chúng ta đều nhận rõ tầm quan trọng của giáo dục từ xa như là một hình thức góp
phần thúc đẩy phát triển “một xã hội học tập”, phục vụ nhu cầu “học tập suốt đời, học
mọi chỗ, mọi lúc” của đông đảo tầng lớp nhân dân và công cuộc “xã hội hóa giáo

8


dục”. Trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thời đại của công nghệ như
hiện nay, giáo dục từ xa cũng nên có những điều chỉnh phù hợp, sao cho người học
giữ vai trò trung tâm, giảng viên đóng vai trò định hướng cùng với sự hỗ trợ của các
phương tiện cung cấp thông tin khác nhau từ sách, tài liệu in ấn đến tài liệu điện tử và
thư viện số để giáo dục từ xa thật sự theo sát mục tiêu của nó, đáp ứng nhu cầu của
người học và toàn xã hội về một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại.
Xin chân thành cảm ơn.

9



×