Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Báo cáo thực tế cơ sở tại trường THPT Việt Đức và trường THPT Việt Nam – Ba Lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.79 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
KHOA QUẢN LÝ

BÁO CÁO THỰC TẾ CƠ SỞ
Tại trường THPT Việt Đức và trường THPT Việt Nam – Ba Lan

Hà Nội, tháng 03 năm 2013
1


LỜI MỞ ĐẦU
Thâm nhập, nghiên cứu thực tế cơ sở là một trong những yêu cầu và nhiệm
vụ quan trọng của người giảng viên đại học. Nó giúp cho mỗi giảng viên có cơ
hội tiếp cận, tìm hiểu và nắm bắt được tình hình thực tế, xác định được mối quan
hệ giữa lý luận với thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy, đảm bảo
giảng dạy lý luận luôn gắn liền với thực tiễn.
Với ý nghĩa đó, ban lãnh đạo Khoa quản lý đã chỉ đạo và phân công nhóm
giảng viên tập sự tiến hành đợt thực tế cơ sở tại các trường THPT. Trong khoảng
thời gian hai tuần, tác giả đã chọn điểm đến thực tế là trường THPT Việt – Đức
và trường THPT Việt Nam – Ba Lan để nghiên cứu về công tác quản lý nói
chung và sự vận dụng các phương pháp quản lý trong quá trình quản lý của từng
nhà trường nói riêng. Để nghiên cứu vấn đề này, tác giả đã sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp quan sát, phương pháp phỏng
vấn, phương pháp thu thập tài liệu…
Để có được bản báo cáo thu hoạch ngày hôm nay, đặc biệt là để tác giả hoàn
thành đợt thực tế với nhiều bài học kinh nghiệm, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới tập thể CB, GV, NV và học sinh của hai trường THPT Việt Đức và
trường THPT Việt Nam- Ba Lan. Đặc biệt là hai vị Hiệu trưởng của hai nhà
trường đã luôn dành thời gian, tạo điều kiện giúp đỡ và tận tình chia sẻ kinh
nghiệm quản lý cho tác giả. Tác giả cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên
TS. Nguyễn Thị Tuyết Hạnh đã luôn hướng dẫn, động viên tác giả trong quá


trình thực tế tại cơ sở.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn bài báo cáo còn nhiều thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của quý thầy cô.
Xin trân trọng cảm ơn!

2


NỘI DUNG
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG THPT VIỆT – ĐỨC VÀ
TRƯỜNG THPT VIỆT NAM – BA LAN.
1.1 Khái quát về trường THPT Việt – Đức.
1.1.1 Đặc điểm nhà trường THPT Việt – Đức
Trường THPT Việt – Đức được thành lập ngày 03 tháng 03 năm 1955. Qua
58 năm hình thành và phát triển với 5 lần đổi tên, từ năm 1997 đến nay trường
mang tên THPT Việt – Đức. Trường nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Hà
Nội, nơi có dân cư đông đúc, đời sống kinh tế - xã hội phát triển cao.
THPT Việt – Đức là một trong những trường có quy mô lớn nhất Hà Nội,
hàng năm có gần 1000 học sinh tốt nghiệp, tỷ lễ đỗ tốt nghiệp từ 99,9% đến
100%; tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng gần 80%. Trường đã
đạt được mục tiêu đào tạo học sinh với chất lượng cao, chất lượng toàn diện, và
liên tục đạt được danh hiệu Trường tiên tiến và tiên tiến xuất sắc.
Trường THPT Việt – Đức có đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên khá
hùng hậu với 108 người, trong đó có 1 Hiệu trưởng, 3 Hiệu phó, 96 giáo viên và
08 nhân viên. Về chất lượng, 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên đạt chuẩn đào
tạo, trong đó có 33 thạc sỹ chiếm 36% và 09 người đang theo học thạc sỹ, cán
bộ quản lý của nhà trường dù không được đào tạo chính quy về quản lý nhưng
đều đã học qua các lớp bồi dưỡng quản lý. Đảng bộ nhà trường có 42 đảng viên.
Phần lớn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường có độ tuổi khá cao
(độ tuổi từ 40 trở lên chiếm trên 60%), phần lớn giáo viên, nhân viên của nhà

trường là nữ giới.
Do trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ, chất lượng cao, lại là
trường đã có tiếng tăm và nhiều thành tích nên trường thu hút được một lượng
lớn học sinh đăng ký thi đầu vào, từ đó nhà trường dễ dàng tuyển chọn được đội
ngũ học sinh có chất lượng. Năm học 2012 – 2013 trường có tổng số 2125 học
sinh với 46 lớp được phân ban theo nguyện vọng và năng lực học tập của học
sinh. Học sinh trường THPT Việt – Đức được theo học 3 ngoại ngữ: tiếng Anh,
tiếng Nhật và tiếng Đức.
3


1.1.2 Thuận lợi, khó khăn đối với công tác quản lý trường THPT Việt –
Đức.
a, Thuận lợi:
- Nhà trường có truyền thống “dạy tốt, học tốt” được HS và CMHS tín
nhiệm. Đội ngũ CB, GV, NV của nhà trường được đào tạo cơ bản, có trình độ
chuyên môn, kỹ năng sư phạm tốt, có kinh nghiệm trong giảng dạy. Lực lượng
giáo viên trẻ tuy không chiếm số lượng lớn nhưng lại rất sôi nổi, nhiệt tình, có
năng lực sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Đây là một thuận lợi rất cơ
bản cho công tác quản lý của nhà trường.
- Ban giám hiệu, các tổ trưởng tổ chuyên môn đều là những người có năng
lực, có kỹ năng quản lý, được GV, NV, HS và CMHS ủng hộ.
- Trường có mối quan hệ hữu nghị, kết nghĩa với nhiều trường và tổ chức
trên thế giới như trường Goethe – Gymnasium Sebmiz (Đức), KoJo (Nhật), Hội
đồng Anh (Anh), Trung tâm ngoại ngữ RV (Singapo)…nên CB, GV, NV và HS
có nhiều cơ hội được tiếp cận nguồn kiến thức phong phú, học hỏi kinh nghiệm
quản lý,phương pháp giảng dạy và học tập hiện đại của nước ngoài.
- Trường nằm trong khu vực trung tâm của Hà Nội, dân cư có trình độ học
vấn cao, học sinh chủ yếu là con em của những gia đình có kinh tế, có vị trí
trong xã hội, họ rất coi trọng việc học tập của con và luôn sẵn sàng đóng góp,

đầu tư cho nhà trường. Đây là một thuận lợi không nhỏ cho công tác quản lý của
nhà trường trên con đường đưa nhà trường phát triển đi lên.
- Trường nằm ở khu vực trung tâm thành phố lại có diện tích rộng nên
trường có nhiều hình thức tăng nguồn thu cho nhà trường. Do vậy áp lực kinh tế
của nhà trường nhìn chung không quá gay gắt.
b, Khó khăn.
- Đòi hỏi của HS, CMHS và xã hội ngày càng cao về chất lượng giáo dục,
đặc biệt là chất lượng giảng dạy môn ngoại ngữ. Từ đó, nhà trường phải luôn
tìm tòi đổi mới, các nhà quản lý phải tạo được động lực và tìm con đường nâng
cao chất lượng của nhà trường.
4


- Đội ngũ GV cũng như CBQL có độ tuổi khá cao, điều này tạo ra khó khăn
trong việc tiếp cận với nguồn tri thức cũng như những đòi hỏi cao của thời đại.
Đặc biệt phần lớn đội ngũ GV có thâm niên nên nguồn chi lương hàng năm cao
làm giảm nguồn tiền để đầu tư cho các hoạt động khác của nhà trường.
- Trường nằm trên địa bàn đông dân cư, kinh tế - xã hội phát triển sôi động,
nhiều tệ nạn xã hội nên nhà trường rất khó khăn trong công tác quản lý học sinh.
HS của nhà trường phần lớn là con em nhà có điều kiện và thế lực nên việc học
tập đôi khi không được các em coi trọng.
1.2 Khái quát về trường THPT Việt Nam – Ba Lan.
1.2.1 Đặc điểm nhà trường THPT Việt Nam – Ba Lan.
Trường THPT Việt Nam – Ba Lan được thành lập năm 1960. Trường nằm ở
khu vực ven nội thành Hà Nội, cạnh các khu đô thị đang phát triển như khu đô
thị Định Công, khu đô thị Đại Kim. Đây là khu vực có nhiều thành phần dân cư
khá phức tạp, cư dân gốc thì chủ yếu là dân số già còn cư dân trong các khu đô
thị thì chủ yếu là dân số trẻ cho nên lượng học sinh nằm trong độ tuổi học THPT
của vùng không cao.
Trước đây, trường THPT Việt Nam – Ba Lan là một trong những trường có

chất lượng cao của Hà Nội, nhưng do nhiều nguyên nhân (trong đó có nguyên
nhân khu vực thiếu học sinh) nên trong những năm gần đây trường phải hạ điểm
thi đầu vào xuống mức trung bình để tuyển đủ HS (ví dụ: năm học 2012 – 2013
điểm thi đầu vào lớp 10 chỉ 41,5 điểm). HS của trường một phần được tuyển từ
Thanh Trì lên, một phần được tuyển từ khu vực nội thành xuống. Đây chủ yếu là
những học sinh không vào được các trường ở khu vực các em sinh sống cho nên
chất lượng đầu vào của HS không cao. Nhiều HS năng lực còn hạn chế, ý thức
học tập thấp. Năm học 2012 – 2013, trường có 40 lớp với 1876 học sinh. Trường
nằm ở khu vực dân cư có đời sống kinh tế - xã hội không cao. HS chủ yếu là con
em của những gia đình công nhân, nông dân (từ Thanh Trì lên), thu nhập thấp.
Trường THPT Việt Nam – Ba Lan có 94 CB, GV, NV trong đó có 1 hiệu
trưởng, 3 phó hiệu trưởng. 100% CB, GV, NV của trường đạt chuẩn trình độ
đào tạo, trong đó có chiếm 20%. Các cán bộ quản lý của nhà trường đều đã tham
gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý ngắn hạn. Trường có 06 tổ chuyên môn
5


và một tổ hành chính. Trường có một chi bộ Đảng với 27 đảng viên/96 CB,GV,
NV. Đội ngũ CB, GV của nhà trường chủ yếu có tuổi đời còn trẻ và phần lớn là
nữ giới.
1.2.2 Những thuận lợi, khó khăn đối với công tác quản lý nhà trường.
a, Thuận lợi:
- Trong quá trình hoạt động và phát triển, trường THPT Việt Nam – Ba Lan
luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của UBND Quận Hoàng Mai, của sở
GD&ĐT và UBND thành phố Hà Nội.
- Trường THPT Việt Nam – Ba Lan có đội ngũ CB, GV, VN trẻ, nhiệt tình
trong công tác, nhanh nhạy về công nghệ cho nên việc tiếp cận, đổi mới phương
pháp giảng dạy mới được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả. Mặt khác, do CB,
GV, NV của trường có tuổi đời còn trẻ cho nên hàng năm trường tiết kiệm được
một lượng tiền chi lương, từ đó có điều kiện tăng cường đầu tư cho các hoạt

động khác và tăng nguồn thu nhập tăng thêm cho giáo viên. Đây là một thuận lợi
đối với công tác quản lý nói chung và công tác quản lý tài chính nói riêng của
nhà trường.
- Trường nằm ở khu vực ven nội thành, mức độ phát triển kinh tế - xã hội
chậm hơn các vùng khác cho nên sự tác động tiêu cực của xã hội, các tệ nạn
cũng ít hơn các vùng có kinh tế phát triển.
- Mặc dù phụ huynh của học sinh nhà trường thuộc nhiều thành phần dân cư
khác nhau với mức thu nhập trung bình không cao, nhưng họ lại rất quan tâm
việc học tập của con em với mong muốn đầu tư cho con em học tập để đổi đời.
Vì vậy, các chính sách phát triển của nhà trường luôn được phụ huynh ủng hộ.
b, Khó khăn:
- Nguồn học sinh đầu vào hàng năm của nhà trường không ổn định, lượng
học sinh trong độ tuổi của khu vực rất ít buộc nhà trường phải tuyển những học
sinh thuộc đối tượng “vớt” từ các khu vực khác. Chất lượng đầu vào nhìn chung
là thấp làm cho vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục cho kịp các trường trong
khu vực và đảm bảo yêu cầu xã hội trở thành một bài toán nan giải cho nhà
trường, đặc biệt là cho các nhà quản lý.
6


- Học sinh của nhà trường có xuất thân từ nhiều thành phần dân cư khác
nhau do vậy các em có đời sống kinh tế và đặc điểm tâm lý khá đa dạng, phong
phú. Điều này đòi hỏi CB, GV, NV nhà trường phải tôn trọng sự đa dạng, phải
nắm bắt được tâm lý của từng đối tượng học sinh để từ đó có những cách quản
lý, giảng dạy phù hợp (đòi hỏi phải có sự linh hoạt trong quản lý).
- Phần lớn HS của trường THPT Việt Nam – Ba Lan có năng lực học tập và
ý thức chưa cao, đòi hỏi CB, GV của nhà trường phải có kinh nghiệm quản lý và
cách ứng xử phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế, đội ngũ CB, GV còn khá trẻ, thiếu
kinh nghiệm. Làm thế nào để giải quyết vấn đề này luôn là câu hỏi được đặt ra
cho cán bộ quản lý của nhà trường.

- Do trường nằm ở khu vực ngoại thành cho nên ngoài nguồn kinh phí do
nhà nước cấp để thực hiện việc giáo dục học sinh thì nhà trường không có khoản
thu đáng kể nào.
Như vậy, trường THPT Việt – Đức và trường THPT Việt Nam – Ba Lan
đóng ở hai khu vực khác nhau, có những đặc điểm khác nhau về đội ngũ CB,
GV, HS, về điều kiện và tiềm năng phát triển (có những nét đối lập nhau). Chính
những đặc điểm khác nhau này đã tác động, chi phối đến phong cách và phương
pháp quản lý của các cấp quản lý trong hai nhà trường.
II. SỰ VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TRONG CÔNG
TÁC QUẢN LÝ CỦA TRƯỜNG THPT VIỆT – ĐỨC VÀ TRƯỜNG THPT
VIỆT NAM – BA LAN.
2. 1 Vài nét lý luận về phương pháp quản lý giáo dục.
Có nhiều cách định nghĩa về phương pháp quản lý (PPQL) nhưng nhìn
chung có thể coi, PPQLlà tổng thể các cách thức tác động có tính hướng đích
của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Trong giáo dục, phương pháp quản lý giáo dục (PPQLGD) là tổng hợp những
cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ thể quản lý giáo dục đến đối
tượng và khách thể quản lý khi tiến hành các hoạt động quản lý để thực hiện những
nhiệm vụ, chức năng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý giáo dục đã đề ra.
PPQL có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Nó tác động rất lớn đến
sự thành công hay thất bại trong việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của một tổ
7


chức. Có nhiều cách tiếp cận và phân loại PPQL nhưng trên thực tế, phân loại
theo nội dung và cơ chế tác động là cách phân loại phổ biến. Theo cách phân
loại này, PPQL gồm 3 phương pháp: Phương pháp hành chính, phương pháp
tâm lý xã hội, phương pháp kinh tế.
Phương pháp hành chính là phương pháp tác động dựa vào mối quan hệ thứ
bậc trong tổ chức; là cách tác động trực tiếp của người quản lý lên những

người dưới quyền bằng các mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định quản lý dứt khoát,
mang tính bắt buộc đòi hỏi mọi người phải chấp hành nghiêm ngặt, nếu vi phạm
sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng.
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quản lý bất kỳ các cơ quan, tổ
chức nào vì nó xác lập trật tự, kỷ cương làm việc trong tổ chức; nối kết các
phương pháp khác lại thành một hệ thống và giải quyết các vấn đề trong tổ chức
một cách nhanh chóng.
Phương pháp hành chính được cấu thành từ ba yếu tố:
+ Hệ thống văn bản luật và các văn bản pháp quy đã được ban hành. Ví dụ
Luật giáo dục, Điều lệ các nhà trường, …
+ Các văn bản hành chính, các mệnh lệnh do người lãnh đạo tổ chức ban
hành như: nội quy nhà trường, chương trình công tác, kế hoạch năm học, chức
năng nhiệm vụ giao cho từng bộ phận, cá nhân…
+ Kiểm tra việc chấp hành các văn bản, các quy định hành chính.
Phương pháp tâm lý – xã hội là những cách thức tác động lên trí tuệ, tình
cảm, ý thức và nhân cách của con người trong tổ chức nhằm nâng cao tính tự
giác, lòng nhiệt tình hoạt động của họ trong việc thực thi nhiệm vụ.
Sử dụng phương pháp tâm lý – xã hội một cách hợp lý sẽ giúp nhà quản lý
động viên được tinh thần chủ động, tích cực, tự giác của đối tượng quản lý, tạo ra
bầu không khí cởi mở, thân thiện, tin cậy lẫn nhau giúp nhau cùng phát triển.
Phương pháp tâm lý – xã hội là sự kết hợp các phương pháp giáo dục, thuyết
phục, động viên, tạo dư luận xã hội, gây áp lực tâm lý…
+ Nhà quản lý phải tổ chức phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối của
ngành, những quy định, quyết định của đơn vị cho toàn thể thành viên trong tổ
chức giúp mọi người hiểu rõ, ủng hộ và quyết tâm thực hiện theo những quy
định đó.
+ Nhà quản lý giáo dục phải quan tâm đến từng thành viên, hiểu được tâm tư
nguyện vọng của họ, lắng nghe, tôn trọng và tạo các mối quan hệ lành mạnh,
trong sáng, tốt đẹp giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
8



+ Giáo dục ý thức lao động tự giác, có năng suất, có hiệu quả;
+ Chỉ đạo xây dựng tác phong làm việc có tổ chức, có kỷ luật, khoa học,
hiệu quả…trong toàn nhà trường.
+ Xây dựng bầu không khí làm việc tập thể lành mạnh, đoàn kết nhất trí
trong đó mỗi cá nhân đều gắn bó với tập thể của mình, hết mình cống hiến vì
một tập thể vững mạnh.
+ Kích thích mỗi thành viên nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ, lao động tích
cực và sáng tạo trước hết vì bản thân họ và vì lợi ích của tổ chức.
+ Nhà quản lý biết khơi dậy ở cấp dưới những hoài bão, ước mơ thành đạt
trong tương lai và gắn liền với sự trưởng thành của tổ chức để họ thiết kế lấy
một cách sống và làm việc tích cực nhằm hiện thực hóa ước mơ của mình;
+ Trong quá trình làm việc với cấp dưới người quản lý giáo dục phải: lắng
nghe, tin tưởng, tạo điều kiện tối đa cho cấp dưới phát triển sự nghiệp. Giải
quyết các xung đột trong tổ chức một cách hợp tình, hợp lý với lòng chân thành,
cảm thông và chia sẻ. Coi trọng các biện pháp động viên, khen thưởng kịp thời
các thành tích hay sự tiến bộ của đối tượng quản lý, quan tâm cải thiện đời sống
vật chất cũng như tinh thần cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh
trong nhà trường.
Phương pháp kinh tế là sự tác động gián tiếp tới người bị quản lý bằng cơ
chế kích thích lao động thông qua lợi ích vật chất để họ tích cực tham gia công
việc chung và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Trong trường học, phương pháp kinh tế được thể hiện ở sự kết hợp trách
nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ giáo viên, học sinh với những kích thích có tính đòn
bẩy.
Nội dung của phương pháp kinh tế:
+ Cơ sở khách quan của phương pháp kinh tế là các quy luật kinh tế. Trong
quản lý giáo dục người ta đã tính toán vốn đầu tư, giá thành đào tạo… áp dụng
các chỉ tiêu, định mức lao động, các biện pháp khuyến khích vật chất thông qua

các chế độ về tiền lương, tiền thưởng…
+ Xây dựng hệ thống mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của
tổ chức và coi đó là những định hướng phát triển chung của tổ chức; xây dựng
các tiêu chuẩn, định mức,chỉ tiêu cụ thể cho từng bộ phận, từng cá nhân trong tổ
chức, coi đó vừa là mục tiêu cho họ phấn đấu vừa là tiêu chí để đánh giá, xếp
loại năng lực cán bộ, giáo viên. Tổ chức hệ thống kiểm tra đánh giá quá trình
thực hiện của thành viên, quy định một khoảng thời gian nhất định để bình bầu,
đánh giá phân loại, thưởng phạt theo chế độ đã quy định.
9


+ Bằng chế độ thưởng phạt vật chất, trách nhiệm kinh tế chặt chẽ để khuyến
khích, điều chỉnh hoạt động của các bộ phận, cá nhân trong tổ chức, xác lập trật
tự, kỷ cương, chế độ trách nhiệm cho mọi bộ phận, cá nhân trong tổ chức.
2.2 Sự vận dụng các phương pháp quản lý trong công tác quản lý ở
trường THPT Việt – Đức.
2.2.1 Sự vận dụng phương pháp hành chính.
Phương pháp hành chính được Hiệu trưởng nhà trường xác định là phương
pháp cơ bản, không thể thiếu trong quản lý nhằm xác lập và duy trì trật tự, kỷ
cương trong nhà trường. Vì vậy, các cấp quản lý trong nhà trường đều coi trọng
phương pháp hành chính.
Điều này thể hiện rất rõ trong việc xây dựng và thực hiện hệ thống văn bản,
nội quy, quy chế của nhà trường.
Trường THPT Việt – Đức có hệ thống văn bản rất phong phú bao gồm: kế
hoạch năm học, kế hoạch kỳ học, kế hoạch thanh tra – kiểm tra nội bộ, quy chế
dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế thi đua – khen thưởng và kỷ luật,
quy chế phân công giảng dạy làm công tác chủ nhiệm, nội quy học sinh… Tất cả
các loại văn bản này được xây dựng theo năm học. Đối với những văn bản cũ
nhưng vẫn còn giá trị thì được giữ nguyên hoặc chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp
với điều kiện mới.

Quy trình xây dựng các văn bản như sau: Trước khi bước vào năm học, căn
cứ vào những quy định, yêu cầu của Ngành, của Sở GD&ĐT Hà Nội, … Hiệu
trưởng nhà trường đã chỉ đạo CBQL, các bộ phận trong nhà trường xây dựng dự
thảo các loại kế hoạch, quy định, quy chế. Từ đó, trường tổ chức họp toàn thể
CB, GV, NV để thảo luận, góp ý bổ sung chỉnh sửa cho dự thảo các loại văn bản
của từng bộ phận hoặc của nhà trường. Điều này thể hiện sự lắng nghe và tạo cơ
hội cho cấp dưới thể hiện ý kiến của mình của các cấp quản lý trong nhà trường.
Sau khi thống nhất ý kiến của tập thể CB, GV, NV trong nhà trường Hiệu
trưởng hoặc trưởng các bộ phận ban hành các văn bản của trường hoặc bộ phận.
Để đưa các văn bản vào thực tiễn, ban giám hiệu nhà trường đã thực hiện tuyên
truyền tới mọi đối tượng liên quan (trong trường và ngoài trường) bằng nhiều
hình thức khác nhau như: qua văn bản, qua hội họp, qua bảng thông báo, thiết kế
sổ tay học sinh…
10


CBQL trường THPT Việt – Đức rất chú trọng công tác kiểm tra việc thực
hiện các loại văn bản đã ban hành. Không chỉ ban kiểm tra nhà trường có trách
nhiệm kiểm tra mà ban giám hiệu còn khuyến khích từng cá nhân CB, GV, NV
kiểm tra và tự kiểm tra hoạt động của mọi thành viên, mọi bộ phận trong nhà
trường. Phản hồi từ phía học sinh về việc thực hiện các văn bản cũng là một
kênh thông tin được các nhà quản lý coi trọng.
Với đặc điểm học sinh của nhà trường hầu hết là con em của gia đình có thu
nhập cao, các em có điều kiện để ăn chơi, đua đòi, nhà trường lại nằm ở khu vực
trung tâm, kinh tế phát triển kéo theo các tệ nạn xã hội phát triển, cho nên nhà
trường đã xây dựng nội quy học sinh rất cụ thể, chi tiết về cách ứng xử, diện
mạo… Mọi sự vi phạm những quy định trên đều được xử lý nghiêm túc cho nên
tạo được nề nếp và đảm bảo trật tự trong nhà trường. Nhà trường đã sử dụng hệ
thống nhắn tin điện tử để liên lạc với gia đình HS. Mọi hoạt động tích cực hay
tiêu cực của học sinh ở trường đều được nhắn tin về cho gia đình hàng ngày

giúp gia đình nắm rõ hoạt động của HS ở trường, từ đó có cách giáo dục kịp
thời. Biện pháp hành chính này đang đem lại hiệu quả cao trong công tác quản
lý HS của nhà trường.
Phương pháp quản lý hành chính đã phát huy hiệu quả tại trường THPT Việt
– Đức bởi nhà trường có sự phân định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ cho
từng bộ phận, từng người rõ ràng, đúng đắn, kỷ luật lao động được thiết lập
nghiêm túc, bộ máy kiểm tra hoạt động có hiệu quả.
2.2.2 Sự vận dụng phương pháp tâm lý – xã hội.
Nếu phương pháp hành chính giúp nhà trường thiết lập nề nếp, trật tự, kỷ
cương thì phương pháp tâm lý – xã hội giúp nhà quản lý kết nối được mọi đối
tượng trong tổ chức, tạo dựng bầu không khí lành mạnh, phát huy tính dân chủ
và sáng tạo trong nhà trường. Các nhà quản lý trường THPT Việt Đức đã vận
dụng khá hiệu quả phương pháp này.
Các CBQL ở đây luôn quan tâm tìm hiểu đặc điểm tâm lý đối tượng QL của
mình, lắng nghe ý kiến của mọi đối tượng QL từ đó có thể hiểu và chia sẻ với
từng người. Trước khi thực hiện hoạt động hoặc một thay đổi nào đó, nhà trường
luôn tổ chức tuyên truyền, vận động đến từng đối tượng để mọi người hiểu rõ,
11


ủng hộ và quyết tâm thực hiện. Nhờ vậy, CBQL cùng tập thể thầy và trò trường
Việt – Đức có sự đồng sức, đồng lòng cao trong mọi hoạt động của nhà trường.
CBQL các cấp trong nhà trường luôn quan tâm tới đời sống, hoàn cảnh của
từng GV, NV và HS, từ đó có sự hỗ trợ, giúp đỡ khi cần thiết, tạo nên một môi
trường sư phạm đoàn kết. (ví dụ: trong các dịp lễ, tết, hiếu hỷ, ma chay, đau
ốm…) Mặc dù có những nội quy cụ thể, quy định về mọi hoạt động của GV và
hình thức phạt đối với GV vi phạm (đi muộn, nghỉ tiết…thể hiện trong quy chế
thi đua, khen thưởng và kỷ luật). Tuy nhiên, trên thực tế, việc GV vi phạm rất ít
xảy ra và nếu có thì chủ yếu được CBQL tìm hiểu nguyên nhân và nhắc nhở nhẹ
nhàng nhằm đảm bảo danh dự và lòng tự trọng cho CB, GV, NV. Điều này làm

cho CB, GV, NV tự nhận ra lỗi của mình và tự giác khắc phục cũng như không
tái phạm. Nhờ vậy mà không khí tập thể không bao giờ nặng nề, áp lực. Trong
từng tổ bộ môn cũng như trong toàn trường, vấn đề phân công đúng người đúng
việc rất được coi trọng nhằm phát huy hết nội lực của từng người. Mỗi khi có
xung đột xảy ra CBQL nhà trường luôn tìm cách giải quyết hợp tình hợp lý trên
quan điểm thông cảm, chia sẻ. Nhà trường cũng rất coi trọng công tác động viên,
khen thưởng kịp thời cho mỗi thành viên hay bộ phận có thành tích, quan tâm
cải thiện đời sống vật chất của CB, GV, NV để họ yên tâm công tác và cống
hiến cho sự nghiệp trồng người.
Hiệu trưởng nhà trường đã xác định rất rõ, vấn đề xây dựng động lực làm
việc cho CB, CNV là rất quan trọng, nhưng với đặc thù của ngành giáo dục
(kinh phí hạn hẹp, cơ hội thăng tiến ít), thì chỉ có thể tạo động lực cho nhân viên
bằng sự đông viên và xây dựng môi trường để họ yêu nghề, yêu trường, yêu trẻ.
Đối với HS – khách hàng bên trong của nhà trường được các nhà QL rất
quan tâm. Các em có đời sống sinh hoạt rất sôi nổi, nhiệt huyết cho nên các cấp
quản lý của nhà trường đã tạo điều kiện để phát huy mọi sở thích cũng như tiềm
năng của các em; thể hiện ở hệ thống câu lạc bộ rất phong phú gồm: câu lạc bộ
toán học, ngoại ngữ, văn học, hip hop, bóng ném, bóng rổ, dance sport, văn
nghệ… Khi các em vi phạm hay có những biểu hiện bất thường trong đời sống
tâm lý và học tập sẽ được các nhà QL và GV quan tâm tìm hiểu nguyên nhân
cũng như liên hệ với gia đình để có cách giải quyết phù hợp chứ không áp đặt
các hình thức phạt một cách cứng nhắc.
12


Chính những biện pháp tâm lý – xã hội đã giúp cho Hiệu trưởng Nguyễn
Quốc Bình của nhà trường tạo nên một dấu ấn riêng, một vị Hiệu trưởng “lắm
chiêu” trong đôi mắt học trò. Ít có vị Hiệu trưởng nào lại lập diễn đàn trò chuyện
với học trò vào tối chủ nhật hành tuần, cùng nhảy dưới mưa với HS lớp 12 trong
buổi tiệc chia tay, cùng chơi bóng rổ với HS giữa trưa nắng chỉ nhằm nhắc nhở

các em nghỉ trưa… Thầy luôn cho rằng, đối với những học sinh cá biệt thì các
biện pháp hành chính không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả, thậm chí còn
phản tác dụng, những lúc đó cần phải nhẹ nhàng thay đổi hành vi của học sinh
bằng những biện pháp tâm lý (như tình huống học sinh đi xe máy tới trường, học
sinh nữ hút thuốc…)
2.1.3 Sự vận dụng phương pháp kinh tế.
Nhà trường THPT Việt – Đức rất coi trọng việc sử dụng phương pháp kinh
tế trong quản lý nhằm tạo nên những kích thích có tính đòn bẩy đối với CB, GV,
NV và HS. Trước hết, nhà trường đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ trong đó
quy định rõ về nguồn tài chính, về phân phối nguồn thu, về định mức chi các
hoạt động, định mức khen thưởng với từng đối tượng cụ thể (theo thành tích,
theo tập thể, cá nhân…). Cùng với quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế thi đua- khen
thưởng và kỷ luật cũng được quy định rất rõ ràng về danh hiệu thi đua, hình thức
khen thưởng, tiêu chuẩn xếp loại… Sự cụ thể, chi tiết của những quy chế này sẽ
là tiền đề đảm bảo sự công khai, công bằng khi thưởng phạt, một nguyên tắc rất
quan trọng khi sử dụng phương pháp kinh tế.
Hiệu trưởng nhà trường cho rằng, những lợi ích vật chất đem lại ý nghĩa
kích thích rất cao tuy nhiên phương pháp này không dễ vận dụng, đặc biệt là
trong một trường công, nguồn kinh phí chủ yếu được nhà nước cấp. Để sử dụng
phương pháp này hiệu quả, nhà trường phải chủ động tạo thêm nguồn thu (cho
thuê địa điểm gửi xe). Để khuyến khích CB, GV, NV trong công tác, nhà trường
đã xây dựng quỹ thu nhập tăng thêm để hỗ trợ thêm đội ngũ hàng quỹ. Tuy
nhiên, do phần đội ngũ GV của nhà trường có tuổi đời, tuổi nghề cao, nhà
trường lại thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho HS và GV cho
nên nguồn quỹ này còn hạn chế. Do vậy ý nghĩa kích thích cũng không cao.
Để kích thích sự hăng say cống hiến và học tập của đối tượng QL, nhà
trường đã rất chú trọng đến công tác khen thưởng và trách phạt. Nhà trường đã
thành lập Hội đồng thi đua khen thưởng, Hội đồng sẽ dựa trên những quy định
trong quy chế thi đua khen thưởng và kỷ luật cũng như quy chế chi tiêu nội bộ
để xem xét khen thưởng.

13


Về thưởng, nhà trường đã quy định rất rõ từng mức thưởng cho những đối
tượng có thành tích (tập thể, cá nhân, học sinh, giáo viên…) Tuy những mức
thưởng này còn thấp nhưng nó thể hiện được sự ghi nhận của nhà trường đối với
những thành tích mà đối tượng đạt được, nó mang giá trị động viên tinh thần,
khuyến khích từng tập thể và cá nhân phấn đấu.
Về phạt, nhà trường không quy định định mức phạt cụ thể cho từng lỗi, nếu
CB, GV, NV vi phạm quy định nào đó sẽ bị trừ tiền thưởng.Tuy nhiên, mức trừ
này chỉ mang giá trị tượng trưng vì thu nhập của người làm giáo dục quá thấp,
nếu phạt nhiều sẽ có thể nhận lại những phản ứng tiêu cực.
Nhằm đảm bảo cho việc thưởng phạt công bằng và thực sự mang ý nghĩa tạo
động lực phấn đấu, nhà trường đã rất chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá một
cách công khai, công bằng.
2.3 Sự vận dụng các phương pháp quản lý trong công tác quản lý ở
trường THPT Việt Nam – Ba Lan
2.3.1 Sự vận dụng phương pháp hành chính.
Cũng giống như trường THPT Việt – Đức, các CBQL trường Việt Nam – Ba
Lan rất coi trọng sử dụng phương pháp hành chính. Đặc biệt là trong hoàn cảnh
nhà trường có phần lớn đội ngũ học sinh năng lực còn yếu và ý thức chưa cao,
đội ngũ giáo viên chủ yếu còn trẻ, kinh nghiệm còn ít.
Nhà trường đã xây dựng được hệ thống văn bản, quy chế, quy định khá cụ
thể, rõ ràng như: Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường,
Quy định chức trách, nhiệm vụ của GV,CN, CNV; Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy
chế dân chủ tiếp cha mẹ học sinh và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhà trường;
Nội quy học sinh…
Để có những văn bản trên, nhà trường đã thành lập ban soạn thảo viết dự
thảo các loại văn bản, quy chế, nội quy, sau đó nhà trường tổ chức họp toàn thể
CB, GV, NV để thảo luận lấy ý kiến. Sau khi có ý kiến thống nhất với dự thảo,

Hiệu trưởng ký ban hành các loại văn bản và triển khai thực hiện trong toàn
trường. Trong quá trình thực hiện, Ban giám hiệu nhà trường tiếp tục lắng nghe
phản hồi của đối tượng quản lý nhằm chỉnh sửa, hợp lý hóa hơn các văn bản.
Tuy nhiên, việc chỉnh sửa các văn bản phải đảm bảo phù hợp với các quy định
của ngành, của Sở GD&ĐT Hà Nội và điều kiện cụ thể của nhà trường. Sau khi
14


hoàn thiện các văn bản, nhà trường đã phổ biến đến từng thành viên trong nhà
trường thông qua văn bản, qua bảng thông báo và hội họp.
Đối với HS các nhà quản lý chủ trương thiết chặt quản lý hành chính. Nhà
trường đã ban hành nội quy học sinh, trong đó quy định rất cụ thể về giờ giấc, về
trang phục (không mặc quần bò, không nhuộm tóc, …), về cách ứng xử… và chỉ
đạo thực hiện nghiêm túc. Nếu có HS vi phạm sẽ tùy mức độ để xử phạt như đi
học muộn phải nghỉ giờ học đó, mặc đồ không đúng quy định phải về thay và
viết bản kiểm điểm... Nhà trường đã sử dụng hệ thống nhắn tin điện tử để giữ
liên hệ với CMHS, thông báo với CMHS mọi hoạt động của HS ở trường, đảm
bảo sự phối hợp trong việc giáo dục HS.
Đối với giáo viên, nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm
trong công tác nên nhà trường không quá gay gắt hay bó buộc trong các quy
định mà luôn linh hoạt trên quan điểm thông cảm và chia sẻ là chính.
2.3.2 Sự vận dụng phương pháp tâm lý – xã hội.
Thực hiện phương pháp tâm lý – xã hội, trường THPT Việt Ba luôn quan
tâm đến đời sống, tâm tư, tình cảm của mỗi CB, GV, NV và HS. Lãnh đạo nhà
trường rất chú trọng xây dựng mối quan hệ thân thiện trong nhà trường theo cả
chiều dọc (CBQL với GV, với HS), theo chiều ngang (giữa các giáo viên, các tổ
bộ môn…). Hiệu trưởng nhà trường cho rằng có được một môi trường làm việc
thân thiện, cởi mở sẽ tạo được tâm lý thoải mái, tin cậy cho mỗi CB, GV, NV, từ
đó làm tăng tình yêu, sự gắn bó với nhà trường và tích cực phấn đấu vì nhà
trường.

Hàng tháng, hàng năm, lãnh đạo nhà trường cùng với công đoàn tổ chức
sinh nhật cho các thành viên trong nhà trường, cử đoàn gia đình thăm hỏi khi có
hiếu hỷ hay ma chay… Mỗi khi CB, GV, NV có sai phạm, lãnh đạo nhà trường
thông qua nhiều cách khác nhau để tìm hiểu nguyên nhân. Nếu vi phạm lần đầu,
lãnh đạo nhà trường sẽ góp ý, nhắc nhở trực tiếp, không đưa ra hội đồng nhằm
đảm bảo uy tín, danh dự cho cấp dưới. Từ đó, cấp dưới sẽ cảm kích và tiếp thu
sửa chữa lỗi lầm, phấn đấu hơn trong công tác.

15


Để động viên mọi thành viên trong nhà trường, các nhà QL Trường Việt
Nam – Ba Lan đã chú trọng công tác động viên, khen thưởng khi các thành viên
có thành tích hay tiến bộ.
Có lẽ, do luôn nhẹ nhàng, đồng cảm và chia sẻ trong công tác quản lý mà
các cán bộ quản lý ở trường THPT Việt Nam – Ba Lan luôn nhận được sự tin
yêu và ủng hộ của tập thể CB, GV, NV.
2.3.3 Sự vận dụng phương pháp kinh tế.
Mặc dù có những khó khăn chung của ngành giáo dục trong kinh phí cấp
cho từng trường nhưng ở trường THPT Việt Nam – Ba Lan do có những chính
sách hợp lý mà phương pháp kinh tế được sử dụng khá hiệu quả ở đây. Cụ thể:
Trước đây nhà trường rất khó khăn về kinh phí hoạt động nhưng từ khi nhà
trường có quyền tự chủ tài chính nhiều hơn thì tình hình có tiến triển theo hướng
tích cực. Hàng năm Hội đồng nhân dân thành phố giao kinh phí giáo dục trên
đầu học sinh là 4 triệu/ 1 HS/(để chi lương, chi cơ sở vật chất…). Với đặc thù là
một trường có đội ngũ giáo viên trẻ và nằm ở vùng ngoại thành (chi phí khi tổ
chức hoạt động thấp hơn nội thành) nên hàng năm nhà trường tiết kiệm được
một khoản không nhỏ từ nguồn chi lương và nguồn chi cho các hoạt động của
nhà trường. Lãnh đạo nhà trường đã linh hoạt trong chi tiêu nên cuối năm tiết
kiệm được một khoản tiền làm tiền thu nhập tăng thêm cho CB, GV, NV. Khoản

thu nhập tăng thêm này đã góp phần khích lệ tinh thần lao động và tiết kiệm
trong công tác của mọi thành viên trong nhà trường.
Ngoài cách tiết kiệm chi tiêu, nhà trường còn tăng nguồn thu bằng cách cho
giáo viên dạy thêm ở trong trường (theo đơn xin của giáo viên), sau đó thu trích
phí học thêm của giáo viên để bổ sung vào nguồn quỹ thưởng cho nhà trường.
Nguồn quỹ thưởng này dùng để thưởng cho mọi thành viên trong nhà trường
khi có thành tích trong tháng, trong năm.
Tiêu chuẩn, danh hiệu thi đua khen thưởng và định mức khen thưởng cho
CB, GV, HS được quy định cụ thể tại Quy chế thi đua khen thưởng và kỷ luật và
quy chế chi tiêu nội bộ. Ngoài những danh hiệu khen thưởng cuối năm, trường
THPT Việt Nam – Ba Lan còn có tiêu chuẩn xếp loại GV, GVCN, NV hành
chính theo từng tháng. Có 3 loại: A – B – C, tương ứng với từng loại sẽ có mức
16


thưởng tương ứng. Từng loại được quy định tiêu chuẩn cụ thể về ngày công,
việc thực hiện quy chế chuyên môn, quy định nề nếp, … Nhà trường thành lập
ban kiểm tra, đánh giá để theo dõi và đánh giá hoạt động của từng đối tượng
trong nhà trường. Ban kiểm tra, đánh giá làm việc rất công tâm, công khai nên
việc khen thưởng hay khiển trách của nhà trường rất chính xác được tập thể CB,
CNV đồng tình.
Hàng năm, ngoài việc thưởng tiền cho các tập thể, cá nhân CB, GV, NV có
thành tích, nhà trường đã tổ chức cho CB, GV, NV đi tham quan trong dịp hè
theo hình thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhằm tạo cơ hội cho mọi
thành viên được nghỉ ngơi, thư giãn sau một năm làm việc vất vả, đồng thời tăng
cường tình đoàn kết trong tập thể sư phạm.
Việc khen thưởng đối với học sinh cũng được thực hiện nghiêm túc, mức
khen thưởng được quy định tại Quy chế chi tiêu nội bộ. Chẳng hạn: học sinh
giỏi thành phố, giải Nhất thưởng 300.000đ, giải Nhì thưởng 200.000đ, giải Ba
thưởng 150.000đ… So với các trường nội thành mức khen thưởng này là thấp

nhưng trong điều kiện của nhà trường thì đây là một sự cố gắng lớn nhằm
khuyến khích tinh thần hiếu học của HS.
Như vậy, thông qua những mô tả và phân tích sự vận dụng các phương pháp
quản lý trong công tác quản lý của trường THPT Việt – Đức và Trường THPT
Việt Nam – Ba Lan ở trên đối chiếu với lý luận về PPQL, ta thấy:
+ Các nhà quản lý của hai nhà trường đều hiểu rõ ý nghĩa và vai trò của các
phương pháp quản lý đối với sự thành công trong công tác quản lý. Việc sử
dụng sao cho hợp lý các phương pháp này không hề đơn giản, nó vừa là một
khoa học vừa là một nghệ thuật.
+ CBQL của hai nhà trường đều cho rằng cần phải kết hợp hài hòa 3 phương
pháp quản lý: phương pháp hành chính, phương pháp tâm lý – xã hội, phương
pháp kinh tế, tuy nhiên cần phải coi trọng phương pháp tâm lý – xã hội trong
quá trình quản lý. Bởi vì, nhà trường là môi trường giáo dục mang tính nhân
văn, những con người trong môi trường đó giàu lòng tự trọng, coi trọng danh dự
và uy tín. Cho nên nhà quản lý phải khơi gợi, động viên, khuyến khích họ bằng
sự đồng cảm, chia sẻ. Mặt khác, trong môi trường giáo dục nguồn kinh phí hạn
chế nên biện pháp kinh tế không có tác dụng cao. Trong quan hệ ứng xử, con
17


người Việt Nam thường trọng tình hơn lý nên phương pháp hành chính không
đem lại hiệu quả lớn. Tất nhiên đối với học sinh, chúng ta đang giáo dục các em
sống tuân thủ pháp luật nên phải coi trọng biện pháp quản lý hành chính.
+ Các nhà quản lý của hai trường phổ thông nói trên đều vận dụng các
phương pháp theo quy trình giống nhau và giống với lý luận. Chẳng hạn khi vận
dụng phương pháp hành chính cả hai trường đều thực hiện: soạn thảo dự thảo
văn bản; thảo luận lấy ý kiến của CB, GV, NV; ban hành; tuyên truyền, thuyết
phục; chỉ đạo thực hiện; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các văn bản.
+ Mặc dù hai nhà trường đều sử dụng những phương pháp quản lý giống
nhau nhưng do những từng trường mang những đặc điểm khác nhau, có những

đối tượng quản lý khác nhau cho nên biện pháp thực hiện lại khác nhau. Chẳng
hạn trong quản lý đối tượng học sinh cá biệt, trường THPT Việt Nam – Ba Lan
sử dụng triệt để các biện pháp hành chính, nhưng trường THPT Việt Đức lại sử
dụng biện pháp tâm lý- xã hội thực hiện động viên, khuyến khích giúp HS nhận
ra sai lầm và sửa chữa. Mỗi trường lại có sự vận dụng dụng riêng với nhiều biện
pháp sáng tạo như: Trường Việt – Đức thể hiện sự quan tâm học sinh và xây
dựng môi trường đoàn kết cũng như giúp học sinh phát triển toàn diện bằng hệ
thống câu lạc bộ phong phú; Trường THPT Việt Nam – Ba Lan lại tăng nguồn
quỹ bằng cách tiết kiệm triệt để… Điều này cho thấy “PPQL là bộ phận năng
động nhất trong công tác quản lý” như lý luận đã khẳng định.
+ Nhìn chung, việc vận dụng các phương pháp quản lý của hai nhà trường
phổ thông nói trên là tương đối phù hợp với đặc điểm của từng trường và phù
hợp với lý luận về PPQL. Sự vận dụng các PPQL cùng với các yếu tố khác tạo
nên cho hai nhà trường hai hình ảnh với những dấu ấn khác nhau, nếu trường
THPT Việt Nam – Ba Lan mang nét bình yên và ổn định thì trường THPT Việt
– Đức lại rất sôi động đầy màu sắc.
2.4 Bài học kinh nghiệm.
Qua hai tuần thực tế tại hai trường phổ thông để tìm hiểu sự vận dụng
phương pháp quản lý trong công tác quản lý nhà trường, tác giả đã rút ra một số
bài học:

18


+ Lý luận và thực tiễn có những khi trùng khít lên nhau nhưng cũng có khi có
khoảng cách. Cuộc sống muôn màu với những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội
kéo theo những thay đổi trong công tác quản lý. Chính vì vậy, để giảng dạy có hiệu
quả, đáp ứng nhu cầu xã hội, người giảng viên phải thường xuyên cập nhật thông tin,
thâm nhập thực tế và liên hệ với thực tế đầy màu sắc trong bài giảng của mình, làm
phong phú và dễ hiểu bài học bằng những ví dụ, những tình huống thực tế.

+ Khi giảng dạy về các phương pháp quản lý phải khẳng định rằng chúng có
vai trò quan trọng và phải sử dụng hài hòa với nhau.Tuy nhiên cần làm rõ cho
sinh viên thấy đặc điểm của môi trường giáo dục để có cách lựa chọn và phối
hợp phù hợp, đặc biệt nhấn mạnh đến phương pháp tâm lý – xã hội. Phương
pháp kinh tế kích thích lao động thông qua lợi ích vật chất, nhưng mức độ lợi
ích vật chất như thế nào để tạo nên động lực cho người lao động thì cần phải
xem xét. Bởi vì nếu mức lợi ích vật chất quá cao thì kinh phí tổ chức không đủ,
nhưng nếu quá thấp thì lại không có ý nghĩa kích thích. Điều này phụ thuộc vào
điều kiện nhà trường và môi trường kinh tế xung quanh nhà trường. Như trường
THPT Việt – Đức nằm ở khu vực kinh tế phát triển, học sinh đều là con em gia
đình khá giả vì vậy khi khen thưởng mức thưởng phải tương xứng ở mức độ
nhất định, khác với trường THPT Việt Nam – Ba Lan nằm ở vùng ngoại thành.
+ Khi giảng dạy về phương pháp quản lý cần nhấn mạnh đến sự chi phối, tác
động của đặc điểm của tổ chức và phong cách của nhà quản lý tới việc sử dụng
phương pháp quản lý.
+ Để sinh viên hiểu rõ về phương pháp quản lý, nên yêu cầu sinh viên nhận
diện và đánh giá sự vận dụng phương pháp quản lý ở trường phổ thông sinh viên
đã học. Bài tập này sẽ giúp sinh viên khắc sâu bài học và giúp người dạy hiểu
được cách nhìn nhận của sinh viên (đối tượng bị quản lý) về các phương pháp
quản lý.

19



×