Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ một số giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh chăm pa sắc, nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào đến 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.08 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư nước
ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Thực hiện đầu tư nước ngoài là nhằm mở rộng thị trường nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận người tiêu dùng, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên
liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, tránh được chế độ giấy phép xuất
khẩu trong nước và tận dụng côta xuất khẩu của nước nhận đầu tư để mở rộng thị
trường, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, năng lực quản lý và trình độ tiếp thị
giữa các quốc gia.
Bắt đầu từ 1994, sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài lượng vốn đầu tư
nước ngoài vào nước CHDCND Lào ngày càng tăng lên, góp phần đáng kể vào việc
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng thu nhập của nhân dân, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước đi theo xu hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tăng cường khả năng giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
Đối với Tỉnh Chăm Pa Sắc, đầu tư nước ngoài đã có một quá trình phát triển từ
những năm 1990 trở lại đây và những kết quả đạt được đã góp phần to lớn cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Trong nội dung phát triển giai đoạn tiếp theo của Tỉnh Chăm Pa Sắc, với những
mục tiêu kinh tế - xã hội chiến lược cần đạt, vai trò của đầu tư nước ngoài vẫn được
khẳng định, do đó có một nhiệm vụ nặng nề đặt ra cho các nhà quản lý là: Phải định
hướng hoạt động đầu tư nước ngoài tại Tỉnh Chăm Pa Sắc thế nào để đạt được các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần giải quyết một loạt vấn đề cơ bản và cấp bách
về lý luận, thực tiễn. Trong đó nổi lên là vấn đề định hướng hoạt động đầu tư nước
ngoài tại Tỉnh Chăm Pa Sắc trong giai đoạn mới và các giải pháp cơ bản để thực hiện.
Vì vậy, vấn đề: "Một số giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài vào Tỉnh Chăm Pa
Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến 2020 " được chọn làm đề tài luận
văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
1




Vì tính cấp thiết và vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài, trong phát triển
kinh tế ngày càng tăng, cho nên ngày càng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu chủ
đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng chuyên đề, luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ, sách tham khảo... chẳng hạn như:
- Luận án tiến sĩ kinh tế, Bua Khăm Thip Pha Vông, "Đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong việc phát triển kinh tế ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào", Hà Nội, 2001.
Luận án đã nghiên cứu bản chất và xu hướng vận động của FDI, những kết quả đạt
được và đề ra một số giải pháp trong thu hút, quản lý FDI ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế, Sukăn MạHaLat, "Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào bốn Tỉnh phía Nam nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào." Viêng Chăn
2008. Tác giả đã tiếp cận đến vấn đề FDI, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
tăng cường thu hút FDI vào bốn Tỉnh phía Nam.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế, SốmSắc Seng Sắc Đa, "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào". Hà Nội, 2010 đã nêu ra
được những tác động tích cực, tác động chưa tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế ở Tỉnh Chăm Pa Sắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan trọng trong làm
rõ những lý luận chung về đầu tư nước ngoài, phân tích vai trò của đầu tư nước ngoài,
đưa ra những giải pháp chung để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài Nhưng vấn đề
tác động của đầu tư nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Chăm Pa Sắc
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. đến nay chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: luận văn nghiên cứu tình hình và hiệu quả hoạt động của
đầu tư nước ngoài trên địa bàn Tỉnh Chăm Pa Sắc nước CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu: Về mặt thời gian luận văn lấy thời gian từ năm 2008 cho
đến nay, từ đó đề xuất phương hướng phát triển của nó trong giai đoạn tiếp theo đến

năm 2020.

2


4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu để nghiên cứu xu hướng, qua phân tích thực trạng tình hình thu hút
đầu tư nước ngoài của tỉnh Chăm Pa Sắc đó thấy được những mặt được và nguyên
nhân, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Chăm Pa
Sắc nước CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của thu hút đầu tư nước
ngoài để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Đánh giá đúng thực trạng tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Chăm Pa Sắc
giai đoạn từ 2008 - 2013.
Xác lập quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hiệu quả đầu tư
nước ngoài tại Tỉnh Chăm Pa Sắc trong thời kỳ tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, các học thuyết kinh tế hiện đại, các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng
nhân dân cách mạng Lào, chính sách của Nhà nước và các vấn đề liên quan đến việc
đầu tư nước ngoài tại Tỉnh Chăm Pa Sắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
- Luận văn được nghiên cứu từ góc độ kinh tế, sử dụng hệ thống các phương
pháp: Phân tích và tổng hợp, lôgíc, lịch sử và phương pháp so sánh, gắn lý luận với
thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy nghiên cứu
về đầu tư nước ngoài cũng như đối với cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của
Tỉnh. đồng thời kết hợp với cơ sở lý luận, kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài để

xác định xu hướng đầu tư nước ngoài , những quan điểm đóng góp cho thực hiện đầu
tư nước ngoài đúng hướng, quy luật khách quan và những giải pháp cơ bản để thực
hiện.
3


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
trình bày theo 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thu hút đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế
tại Lào
Chương 2: Tinh trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh Chăm Pa Sắc
Chương 3: Một số giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh Chăm Pa Sắc,
nước CHDCND Lào đến năm 2020

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ HÌNH THỨC CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng
lực vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích lũy xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất
kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào
tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một
hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn [5, tr. 6].
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối
dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. "Đặc điểm của đầu tư là nó xảy ra

trong một thời gian tương đối dài, thường từ 2 năm trở lên đến 50, 70 năm hoặc lâu
hơn nữa. Những hoạt động kinh tế ngắn hạn thường trong vòng một năm không nên
gọi là đầu tư" [5, tr. 11].
- Đầu tư kinh tế, là việc bỏ vốn vào một doanh nghiệp, vào một công trình hay
một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách, vốn tự do, liên doanh
hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hóa,
mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng [6, tr. 7].
Dù cách diễn đạt các khái niệm như đã nêu trên có khác nhau song không có sự
khác biệt lớn, theo đó, để xác định một hoạt động được coi là đầu tư căn cứ vào mấy
đặc điểm sau:
- Đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận) vốn đầu tư có thể là
tiền hoặc các loại tài nguyên nói chung.
- Đầu tư là hoạt động trong một thời gian tương đối dài.
- Hoạt động đầu tư có tính rủi ro cao và độ rủi ro càng cao khi nhà đầu tư đưa
vốn ra nước ngoài để hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

5


Vậy: "Đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong một thời gian tương đối dài nhằm thu
lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế - xã hội. Vốn đó từ nhiều nguồn khác nhau như quỹ
tích lũy của tái sản xuất xã hội hoặc thu hút từ nước ngoài dưới nhiều hình thức".
Theo quan điểm của chủ đầu tư: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ
đó thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội (Quốc gia): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển,
để từ đó thu được các hiệu quả Kinh tế - Xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia.
- Đầu tư nươc ngoài là hiện tượng di chuyển vốn từ nước này sang nước khác
nhằm mục đích kiêm lợi. Với khái niệm đầu tư nước ngoài như thể, cho thấy mục tiêu
của sự di chuyển vốn sang nước ngoài để đầu tư chính là lợi nhuận.
1.1.2. Các hình thức của đầu tư nước ngoài

Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
+ Doanh nghiệp liên doanh: là hình thức FDI được sử dụng rộng rãi trên thế
giới từ trước tới nay đó là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp
đồng liên doanh ký giữa một bên hoặc các bên nước chủ nhà với bên và các bên nước
ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại [23, tr. 42].
Theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài (năm 2004) của nước CHDCND
Lào. Điều 07 ghi rõ: doanh nghiệp liên doanh là một doanh nghiệp được thành lập và
đăng ký theo luật lệ của nước CHDCND Lào, do các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài điều hành và sở hữu chung. Việc tổ chức quản lý, điều hành và mối quan hệ giữa
các cổ đông của một liên doanh được quy định trong thỏa thuận giữa các bên và quy
định trong các điều khoản của Hiệp hội liên doanh.
Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hình thức liên doanh phải góp ít nhất là 30% vốn
đăng ký của liên doanh. Vốn góp bằng ngoại tệ sẽ được chuyển đổi sang tiền kíp dựa
trên tỷ giá của Ngân hàng nước CHDCND Lào tại thời điểm góp vốn [21, tr. 3].
Hoạt động của doanh nghiệp liên doanh được diễn ra tại nước sở tại (nước nhận
đầu tư). Hiệu quả hoạt động phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở
tại môi trường này, bao gồm: các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp
luật, trình độ học vấn của dân cư.

6


+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Sự ra đời của hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là một bước phát triển cao của quan hệ kinh tế quốc tế.
Các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác sự khác biệt của thị trường mới, đã
nỗ lực tìm cách áp dụng khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động
kinh doanh để đạt kết quả cao nhất. Hiện nay đa số các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài do các công ty xuyên quốc gia sở hữu và thường là một công ty con của công ty
xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài phải chịu sự kiểm soát của pháp

luật của nước sở tại. Là một pháp nhân của nước sở tại, phải thuê đất và các phương
tiện vật chất cần thiết khác của nước sở tại. Vì thế đôi khi doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài được xem như là một hình thức liên kết đặc biệt.
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài của nước CHDCND Lào năm 2004 định
nghĩa hình thức nay trong Điều 8 như sau: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
là một doanh nghiệp chỉ một nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư tại nước
CHDCND Lào. Doanh nghiệp đó có thể được thành lập như một pháp nhân mới hoặc
như chi nhánh của một doanh nghiệp nước ngoài [21, tr. 4].
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là hình thức
đầu tư trực tiếp, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi
là bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước
nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi
bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên quan hoặc pháp nhân mới. Mỗi
bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ
của mình trước Nhà nước.
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài của nước CHDCND Lào năm 2004 cũng
đã nêu trong Điều 6: "Hợp đồng hợp tác kinh doanh là việc kinh doanh giữa các pháp
nhân trong nước và nước ngoài mà không thành lập pháp nhân mới ở nước CHDCND
Lào. Mục tiêu, hình thức, thời gian kinh doanh, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp
lý và lợi ích của mỗi bên được quy định trong hợp đồng" [21, tr.3].
Ngoài những hình thức đã nêu trên FDI còn có các hình thức theo nhu cầu đầu
tư về hạ tầng, các công trình xây dựng như sau:

7


+ Hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): là hợp đồng
giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà. Trong đó
nhà đầu tư cam kết bỏ vốn để đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng, nâng cấp các công
trình kết cấu hạ tầng, sau đó vận hành khai thác công trình trong một thời gian nhất

định để thu phí bù lại số vốn đã bỏ ra và có lợi nhuận hợp lý; khi đến hạn thỏa thuận
trong hợp đồng thì chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho Chính phủ
nước chủ nhà. Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài
cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của Chính phủ hoặc
các tổ chức cá nhân của nước chủ nhà.
+ Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): là phương
thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước
chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng.
Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ
nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là một phương thức đầu tư
nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước
chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài, để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính
phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu
hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận
trong hợp đồng BT.
Các hình thức BOT, BTO, BT có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào những dự
án xây dựng cơ sở với đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian khá dài, như
vậy sẽ làm giảm áp lực cho ngân sách, đồng thời lại có được các công trình hoàn chỉnh
để phát huy các nguồn lực khác nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với các
phương thức này, nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiên
tiến và khó kiểm soát công trình.
Ngày nay, cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI, thì ngày càng xuất hiện
nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm nâng cao hiệu quả cho nhà đầu tư và nước

8



nhận đầu tư.
Ngày nay quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng, với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó
tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế dân tộc ngày càng gia tăng, nhất là sau
chiến tranh lạnh kết thúc đã làm cho các nền kinh tế dân tộc đều theo xu hướng mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để
tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục
tiêu kinh tế xã hội nhất định hoặc là hình thức di chuyển vốn đầu tư quốc tế từ nước
này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn so với các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác, cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc dân,
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày
càng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp FDI
Định nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư, trong đó, chủ
đầu tư trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra.
- Ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
 Về bên chủ đầu tư nước ngoài: Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở mức độ
nhất định (phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn) tham gia vào việc điều hành quá trình sản xuất
kinh doanh của xí nghiệp, nên họ trực tiếp kiểm soát hoạt động và kịp thời đưa ra
những quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà bỏ ra, nếu môi trường đầu tư ổn định
các chủ đầu tư thường thích bỏ100% vốn đầu tư.
Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên họ thường
có trách nghiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do đó, có thể
bảo đảm hiệu quả của vốn FDI cao. Giúp các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm nguyên liệu, cả công nghệ, thiết bị trong khu vực và thế giới.
Có thể giảm giá thành sản phẩm do khai thác được nguồn lao động giá rẻ hoặc
gần nguồn nguyên liệu, gần thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ đó mà nâng cao hiệu quả
kinh tế của vốn FDI, tăng năng suất và thu nhập quốc dân.

9


Giúp các chủ đầu tư nước ngoài tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và có cơ
hội chiếm lĩnh vực thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước
chủ nhà và khác thác lợi thế của các quốc gia khác: thị trường, vị trí địa lý, tài nguyên,
nguồn nhân lực, đất đai... nhằm giảm chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận. Hơn nữa,
lợi dụng cơ chế quản lý thuế đối với hoạt động đầu tư ở các nước khác nhau để thực
hiện “chuyển giá” nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
 Về bên nước tiếp nhận đầu tư: Giúp khai thác vốn của từng chủ đầu tư
nước ngoài, nhiều nước thiếu vốn trầm trọng cho nên không quy định mức đóng góp
vốn tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều, thì càng dược
hưởng ưu đãi về thuế của các chủ đầu tư nước ngoài và giúp tiếp thu được công nghệ
tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngòi. Nhờ có vốn
đầu tư nước ngoài cho phép chủ nhà có điều kiện khác thác tốt nhất những lợi thế của
mình về nguồn tài nguyên, vị trí địa lý, mặt đất, mặt nước... Do đó có thể đẩy nhanh
tiến trình hội nhập của quốc gia với nền kinh tế thế giới vì đầu tư trực tiếp nước ngoài
là một nhân tố tác động mạnh tới tiến trình hoàn thiện thể chế, chính sách đến môi
trường đầu tư.
Hơn nữa, góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch
vụ làm cho tính hiệu quả của sự phát triển kinh tế được nâng cao và góp phần nâng cao
mức sống của nước tiếp cận đầu tư thông qua giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo
đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề. Góp phần cải tạo cảnh quan xã hội, tăng
năng suất và thu nhập quốc dân và khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước, tiếp
cận với thị trường nước ngoài, đồng thời tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn
và nền kinh tế, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên.
- Hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chủ đầu tư sẽ bị mất vốn nếu bỏ vốn vào môi trường bất ổn định về kinh tế và
chính trị. Các nước phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm
môi trường, nên xu thế nhiều nhà đầu tư của các nước công nghiệp phát triển đã và

đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển. Hiện tượng
chảy máu chất xám xảy ra rất trầm trọng, hoạt động FDI đã tạo ra điều kiện để dẫn tới

10


tình trạng phân hóa giàu nghèo, lối sống sính ngoại, tha hóa về đạo đức, đánh mất bản
sắc dân tộc, pha trộn về văn hóa.
1.1.2.2. Đầu tư gián tiếp
Định nghĩa: Đầu tư gián tiếp là phương thức đầu tư, trong đó, chủ đầu tư
không trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra.
Ưu điểm của đầu tư gián tiếp
- Về bên chủ đầu tư: Chủ đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp điều
hành hoạt động của xí nghiệp mà họ bỏ vốn mua cổ phiếu (hoặc chứng khoán). Tuy
theo Luật định của từng nước mà mỗi chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế mức độ góp
vốn, thường dưới 10 - 25% vốn pháp định. Khi có sự cố trong kinh doanh xảy ra đối
với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì các chủ đầu tư ít bị thiệt hại vì vốn đầu tư
được phân tán trong vô số đông những người mua cổ phiếu, trái phiếu. Khi tình hình
tài chính, tiền tệ, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư bất ổn định có thể dễ dàng bán
hoặc chuyển nhượng chứng khoán hơn so với hình thức đầu tư FDI.
- Về bên nước tiếp nhận đầu tư: Bên nước tiếp nhận đầu tư hoàn toàn chủ
động quản lý vốn kinh doanh theo ý mình một cách tập trung. Mở rộng năng lực thu
hút vốn từ các chủ đầu tư có số vốn nhỏ từ mọi nguồn của thế giới.
- Hạn chế của đầu tư gián tiếp: Quản lý và điều tiết thị trường chứng khoán
thiết chặt chẽ, dễ dẫn tới sự thao túng của các thế lực đầu cơ tiền tệ quốc tế. Hạn chế
khả năng thu hút vốn của từng chủ đầu từ ngoài vì bị khống chế mức độ đóng góp vốn
tối đa của từng chủ đầu tư. Chủ đầu tư nước ngoài ít hình thức đầu tư gián tiếp bởi họ
không được trực tiếp tham gia điều hành hội đông ddooanr trị của xí nghiệp mà họ bỏ
vốn đầu tư. Hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của các chủ đầu tư nước ngoài.

1.1.2.3. Tín dụng quốc tế
Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay và kiếm lợi thông qua lãi suất tiền vay.
Đây là hình thức đầu tư chủ yếu vì nó có ưu điểm sau đây:

11


Vốn vay chủ yếu dưới dạng tiền tệ dễ dàng chuyển thành các phương tiện đầu
tư khác. Nước tiếp nhận đầu tư toàn quyền sử dụng vốn đầu tư cho các mục đích riêng
rẽ của mình. Chủ đầu tư nước ngoài có thu nhập ổn định thông qua lãi suất, số tiền này
không phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của vốn đầu tư. Nhiều nước cho vay vốn
được trục lợi về chính trị, trói buộc các nước vay vốn vào vòng ảnh hưởng của mình.
Đồng thời, hình thức đầu tư này vẫn còn có nhược điểm là hiệu quả sử dụng vốn
thường thấp do bên nước ngoài không trực tiếp tham gia vào quản lý hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư.
1.2.

VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG PHÁT TRIỂN

KINH TẾ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn lực hết sức quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Một trong những nhân
tố để các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh là các nước
này đã có chính sách thu hút và sử dụng FDI một cách hợp lý. Thực tế chỉ ra rằng, đi
cùng với FDI thường là kỹ thuật, là công nghệ, là kinh nghiệm quản lý, là thị trường...
Những nhân tố đó thực sự trở thành lực lượng đối phó những bế tắc, cản trở, để mở ra
hướng đi lên của các nền kinh tế chậm phát triển, góp phần khởi động cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Có nhiều cách tiếp cận và nhiều hướng đánh giá khác nhau, song vai trò của
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc công nghiệp hóa của NIEs là điều

khẳng định phổ biến. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến FDI, xem đây là nguồn vốn có
vai trò "vạn năng", là nhân tố duy nhất quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển, thì
lại là không đúng đắn. Vai trò của nguồn FDI đối với quá trình phát triển kinh tế được
phản ánh ở nhiều mặt, trong nhiều hệ thống chi tiêu khác nhau. ở đây chúng tôi chỉ
khảo sát trên một số lĩnh vực chính, chủ yếu của một số nước trong khu vực để khẳng
định vai trò của FDI.
Đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế và thương mại ở các nước đi đầu tư lẫn tiếp nhận đầu tư.
1.2.1. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư

12


Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài các doanh nghiệp nước ngoài có thời
cơ thâm nhập hợp pháp vào thị trường hữu hiệu nước tiếp nhận đầu tư, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, tránh được những hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước
chủ nhà. Đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như thị
trưởng Trung Quốc, ấn Độ, Indonesia... có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn
FDI Giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc sử dụng những lợi thế
sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp hạ giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian thu
hồi vốn đầu tư và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây chính là một trong
những động lực chính để các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài. đầu tư nước
ngoài là đầu tư vào một thị trường mới có nguồn lao động dồi dào hơn, tài nguyên ưu
đãi hơn, và các yếu tố đầu vào rẻ hơn, do đó có thể rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu
tư và thu lợi nhuận cao. Đây chính là một trong những động lực chính để các nhà đầu
tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Bành trướng sức mạnh về kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới, nâng cao
uy tín chính trị trên trường quốc tế: thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất, chế tạo
hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công
ty mẹ ở nước ngoài. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài cũng

giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển cất giữ hàng hóa, tiết kiệm chi phí quảng
cáo, tiếp thị,... Mục tiêu của đầu tư nước ngoài là giúp các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn
nguyên liệu dồi dào ổn định, nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh
doanh của các chủ đầu tư, chẳng hạn, như việc thăm dò khai thác dầu khí, tài nguyên
thiên nhiên, khoáng sản, tài nguyên biển, rừng, sản phẩm cây công nghiệp... Do không
có điều kiện, thiếu vốn, công nghệ kỹ thuật kém của các nước đang phát triển. Cho
nên, đầu tư vào lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua quá trình
chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao.
Đầu tư nước ngoài giúp các chủ đầu tư nước ngoài thay đổi cơ cấu nền kinh tế
trong nước theo hướng hiệu quả hơn, thích nghi hơn, áp dụng công nghệ mới, nâng
cao cạnh tranh. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, cải tiến và đổi mới công nghệ sẽ
giúp cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Vì vậy, các chủ đầu tư nước ngoài
thường chuyển những thiết bị máy móc công nghệ kỹ thuật lỗi thời, lạc hậu so với

13


trình độ phát triển của thế giới sang các nước công nghiệp kém phát triển khác với sự
phân công lao động lĩnh vực và quốc tế mới. Điều này minh chứng rằng các chủ đầu tư
đã giải quyết được công nghệ lỗi thời nhằm đổi mới công nghệ. Hơn nữa, có thể duy
trì được chu kỳ sống của sản phẩm ở các thị trường mới được khai thác. Trong 20 năm
1975 - 1996 khi đồng Yên tăng giá và việc di chuyển sản xuất của các công ty Nhật
Bản ra nước ngoài sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho việc liên kết theo chiều ngang trong
khu vực. Trong đó, các công ty mẹ ở Nhật Bản chỉ tập trung sản xuất vào những mặt
hàng cao cấp, những thiết bị cần thiết để cung cấp cho các chi nhánh của họ ở khắp
Châu - Á, còn các chi nhánh và hợp doanh đang ngày càng được phát triển tại các
nước trong khu vực sẽ được hướng vào sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động, kỹ
thuật vừa và thấp để thay thế cho các hàng xuất khẩu từ Nhật Bản, phục vụ cho thị
trường địa phương, cung cấp lẫn nhau, xuất khẩu sang nước thứ ba và ngược trở lại
Nhật Bản (đồng Yên lên giá và sự tác động của nó [26, tr.31].

1.2.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
1.2.2.1. Các nước công nghiệp phát triển
Là những nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất, nhưng
cũng là những nước xuất khẩu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất, tạo nên
luồng đầu tư hai chiều giữa các quốc gia, trong đó các tập đoàn xuyên quốc gia giữ vai
trò chủ chốt. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vài trò rất quan trọng đến sự phát
triển kinh tế đất nước của các quốc gia này và chiến lược phát triển của các nước
TNCs, đặc biệt là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế , thúc đẩy sản
xuất và tăng cường kinh tế, kiềm chế lạm phát... Chỉ tính riêng 100 tập đoàn xuyên
quốc gia nhưng lại có khối lượng tài sản đầu tư nước ngoài khoảng 1400 tỷUSD; tiêu
thụ khoảng 1500 tỷ USD; sử dụng 12 triệu lao động trong đó 5 triệu lao động tại các
chi nhánh nước ngoài tương đương 16% của toàn bộ các tập đoàn xuyên quốc gia.
Góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế xã hội trong nước như:
thất nghiệp và kiềm chế lạm phát, góp phần tăng cường cơ sở vật chất công nghệ kỹ
thuật của nền kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng
kinh tế. Giúp cải thiện tình hình thanh toán, cán cân thanh toán quốc tế, cán cân
thương mại, các hoạt động kinh tế do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại thu hút
14


thêm lực lượng lao động tại chỗ tạo công ăn việc làm mới cho người lao động, đồng
thời tạo thêm một nguồn cung vốn mới cho sản xuất, tăng thu ngân sách dưới hình
thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách của chính phủ. Hơn nữa,
dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng có thể cứu những doanh nghiệp có nguy cơ bị phá
sản và mặt khác tạo ra sự cạnh tranh cần thiết để phát triển sản xuất sản phẩm và
thương mại dịch vụ. Mặt khác, các hoạt động đầu tư nước ngoài tại nước tiếp nhận đầu
tư góp phần giúp các nhà doanh nghiệp các nước này học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau
qua các hội đồng quản trị và học hỏi thêm cách thức quản lý mới có hiệu quả.
1.2.2.2. Các nước đang phát triển và kém phát triển
Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc

độ phát triển kinh tế và tăng thu nhập quốc dân, đặc biệt, là đối với các quốc gia kém
phát triển và đang phát triển. Cụ thể như: đầu tư nước ngoài đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt đối với các nước công nghiệp chậm
và đang phát triển bởi vì đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung rất quan trọng để các
nước đó thực hiện công nghiệp hóa - hiện địa hóa nền kinh tế đất nước, thu hút thêm
lao động góp phần giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở các nước này. Chính vì vậy,
để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế trong nước, đầu tiên quyết là phải có vốn, trong
khi nguồn vốn trong nước còn có hạn thì vốn đầu tư nước ngoài là một đáp số cho bài
toán tìm vốn ở các quốc gia này, đồng thời một tác động khác của đầu tư nước ngoài
vào các quốc gia chậm và đang phát triển là góp phần giải quyết công ăn việc làm, đẩy
lùi nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân cả nước. Đặc biệt đầu tư nước
ngoài thông qua việc tiếp nhận những kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến
của các quốc gia xuất khẩu đầu tư (đa số là các quốc gia tư bản có nền kinh tế phát
triển) sẽ giúp các quốc gia công nghiệp đang phát triển đuổi kịp trình độ trình độ phát
triển kỹ thuật cao của thế giới. đầu tư nước ngoài góp phần tạo ra môi trường cạnh
tranh mở rộng thị trường là động lực kích thích tăng trưởng công nghiệp nói riêng và
nền kinh tế tăng trưởng cả về lượng cũng như về chất nói chung, đồng thời góp phần
giúp các nước này giảm được một phần nợ nước ngoài, góp phần bổ sung quan trọng
cho ngân sách của các quốc gia có thể thu từ các khoản cho thuê đất, thiên nhiên, thuế
doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra thông qua việc tiếp nhận đầu tư

15


nước ngoài các nước này cũng có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.
Qua chính sách thu hút đầu tư nước ngoài góp phần khai thác nhanh và có hiệu
quả các nguồn nhân lực của công nghiệp và lợi thế so sánh của các quốc gia. Các dự
án đầu tư nước ngoài có nhu cầu cao về chất lượng lao động cho nên sự gia tăng của
hoạt động đầu tư nước ngoài tạo ra một sức cầu mới về lao động có trình độ về chuyên

môn. Hơn nữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn tạo cơ hội cho người lao động
được bồi dưỡng đào tạo ở nước ngoài, tham gia hội thảo quốc tế.
1.2.3. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế tại Lào
Sau một quá trình chuẩn bị khó khăn và phức tạp, ngày 23/07/1997 Lào đã trở
thành một thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), mang
đầy đủ những đặc điểm của một nước kém phát triển; mức sống thấp, năng suất thấp
phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu những hàng sơ chế. Do vậy trong
việc xây dựng lại đất nước thì Chính phủ Lào nói chung và Chính quyền tỉnh Chăm Pa
Sắc nói riêng rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài để góp phần phát triển kinh tế,
chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại trong và ngoài khu vực.
Đầu tư nước ngoài đóng vài trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn
vốn để thực hiện công nghiệp hóa - hiện địa hóa nền kinh tế quốc dân, vấn đề này
mang ý nghĩa đặc cực kỳ to lớn đối với nền kinh tế thế giới, kể cả những quốc gia có
nền kinh tế phát triển.
Đối với các nước đang và kém phát triển như nước CHDCND Lào, đi tắt đón
đầu để có công nghệ mới trong quá trình phát triển kinh tế là một đòi hỏi bức thiết hiện
nay. Con đường thuận lợi nhất để làm được điều đó là thông qua FDI, đây được coi là
nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai trò này
được thể hiện qua việc chuyển giao công nghệ sẵn có từ các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài và sự phát triển khả năng công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu ứng dụng của nước
chủ nhà (cũng được mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài).
Các doanh nghiệp FDI còn có vai trò phổ biến những công nghệ hiện đại, công
nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các doanh nghiệp trong
16


nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh
tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học
hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán

bộ... làm cho tốc độ hiện đại hóa được nâng lên rõ rệt.
Đồng thời FDI có tác dụng rõ nét hơn so với các hình thức đầu tư nước ngoài
khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt và sự sôi động của nền
kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng các dịch vụ đi kèm như: vận tải, khách sạn, văn
phòng, nhà hàng ăn uống, vui chơi, giải trí...
Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố chuyển
giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận
dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng
cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có
khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu tư ra nước ngoài, những ngành trong nước
kém sức cạnh tranh thì có thể cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn
tính hoặc xóa bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là
kết quả tất yếu của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và
hợp lý hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI.
Góp phần thâm nhập thị trường thế giới và khu vực, mở rộng thị trường xuất
khẩu, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
FDI góp phần hình thành các hình thức doanh nghiệp đa dạng liên kết các
ngành nghề . Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu thông qua
quá trình trao đổi trực tiếp giữa các công ty nội địa và các công ty nước ngoài những
hàng hóa (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào) và dịch vụ phục vụ hoạt động sản
xuất - kinh doanh. Mối liên kết này sẽ tạo ra những năng lực sản xuất mới cho các
ngành nội địa và các công ty trong nước.
Thông qua FDI nước tiếp nhận đầu tư có thể cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng
phát triển kinh tế, Chính phủ các nước nhận đầu tư cũng thường có nhiều chính sách
ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực công nghiệp,
cơ sở hạ tầng quan trọng hy vọng thúc đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này.

17



Như vậy, FDI tạo điều kiện để góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của nước nhận
đầu tư.
1.3. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI LÀO
Đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay, đang và đã thiếu vốn đầu tư phát triển
rất lớn và ngay một gia tăng, nhưng khả năng cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó
quan hệ cung cầu về vốn rất căng thẳng. Khả năng thu hút đầu tư của các quốc gia phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như sau:
1.3.1. Yếu tố tự nhiên - vị trí địa lý
CHDCND Lào là một nước vào loại kém phát triển ở Đông Nam Á, nằm ở phía
Tây bán đảo Đông Dương với diện tích là 236.800km2, dân số 6.800.000 người
P

P

(2013), mật độ dân số trung bình là 28 người/km2. Khoảng 80% diện tích lãnh thổ của
P

P

Lào là núi và cao nguyên, đồng bằng chỉ chiếm 1/5 diện tích lãnh thổ của Lào nằm
hoàn toàn về phía Tây nơi tập trung tới 75% dân số cả nước, đồng bằng ở Lào không
liền dải mà bị chia cắt do xen kẽ với núi đồi, nên việc giao lưu hàng hóa và đi lại giữa
các vùng gặp rất nhiều khó khăn, vì Lào không có biển, không có đường sắt, do đó
việc trao đổi buôn bán với người nước ngoài phải thông qua các cảng của Việt Nam
(Đà Nẵng, Cửu Long) Thái Lan (Khong Tơi), sau này là Campuchia (Xihanúcvin...).
Nhưng, cảng rất xa nên cước phí vận tải cao, do đó hàng nhập khẩu vào Lào rất đắt,
giá hàng xuất khẩu lại rẻ. Với việc chuyển giao công nghệ càng khó hơn, điều đó đã
làm cho các nhà đầu tư nước ngoài lo lắng, cản trở sự đầu tư ở Lào.

Lào nằm giữa các nước có nền kinh tế phát triển hơn, như Thái Lan, Trung
Quốc, Việt Nam... Do đó, trong tương lai nếu hoàn thiện mạng lưới giao thông vận tải,
thì Lào có khả năng trở thành nơi giao lưu buôn bán hàng hóa giữa các nước này. Nhất
là phát triển ngành thương nghiệp quá cảnh sẽ góp phần nhanh chóng tạo ra nguồn thu
ngoại tệ và đầu tư nước ngoài.
Do nằm trong vị trí như đã nêu trên, nên CHDCND Lào có nhiều đặc tính của
vùng nhiệt đới, là một môi trường thuận lợi cho sự sinh trưởng của nhiều loại sinh vật
nhiệt đới. Đất nước Lào là đất nước của màu xanh với núi rừng trùng điệp chiếm 42%
diện tích. Về đất đai, hiện có trên 4 triệu ha là đất nông nghiệp, trong đó một nửa dành
18


cho trồng trọt và một nửa còn lại là đồng cỏ dành cho chăn nuôi gia súc. Tài nguyên
rừng và đất đai rất phong phú và thuận lợi cho việc phát triển kinh tế sau này.
"Lào có nguồn tài nguyên nước" khá lớn. Có hàng ngàn km các dòng sông
nhánh từ các dãy núi ở phía Bắc và Tây dải Trường Sơn với nhiều thác ghềnh đổ
xuống sông Mê Kông. "Trữ lượng nước lớn khoảng 400 tỷ m3/năm và nguồn thủy điện
P

P

có thể đạt 18 triệu KW". Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để phát triển ngành công nghiệp thủy điện - ngành công nghiệp
mũi nhọn của đất nước - một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế của
Lào hiện nay.
Về nguồn tài nguyên khoáng sản, qua đánh giá của các nhà địa chất, thì trữ
lượng khá lớn và chất lượng tương đối tốt, có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu
về nguyên, nhiên, vật liệu cho nền kinh tế quốc dân. Một số khoáng sản đang được
khai thác như: than đá, quặng sắt, thiếc, chì, kẽm, vàng, bạc, thạch cao, ngọc bích..., và
có loại đang thăm dò như: dầu mỏ, sắt vàng bạc, kali, thạch cao,... Hiện giờ, các nhà

địa chất đang tìm kiếm, phát triển khoáng sản tài nguyên quý, có khả năng khai thác
lớn và thu hút được đầu tư nước ngoài. Song, tình hình khai thác nguồn tài nguyên một
cách tự phát, bừa bãi, hiện tượng đốt rừng làm nương ở một số tỉnh miền núi còn phổ
biến. Hơn nữa, các doanh nghiệp (cả của nhà nước và tư nhân) ở một số vùng, tỉnh
khai thác gỗ quý, lâm sản, khoáng sản, săn bắn thú rừng hiếm quý còn bừa bãi và đang
trở thành mối đe dọa nguy hiểm.
Dù sao hiện nay, sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên của Lào vẫn còn là
một tiềm năng lớn để khai thác, chế biến hàng xuất khẩu, tăng nguồn tích lũy trong
nước, thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hóa mà lại thiếu thốn về nhiều mặt, từ
nguồn nhân lực đến nguồn vốn đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật đến khả năng tổ chức
quản lý kinh doanh... Để giải quyết những mặt khó khăn thiếu thốn đó, phải đẩy mạnh
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà khai thác những tài nguyên tự nhiên vốn có
phục vụ cho sản xuất, tăng thêm thu nhập.
1.3.2. Yếu tố về chính trị - xã hội

19


Theo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, các mục tiêu của đầu tư
nước ngoài có đạt được hay không còn phụ thuộc vào vấn đề an ninh chính trị - xã hội.
Trước hết phải đặt vấn đề an ninh chính trị - xã hội trong quá trình thực hiện đầu tư
nước ngoài.
Chính như vậy, sự ổn định về nền chính trị và an ninh quốc gia là mục tiêu cần
thiết đầu tiên của các nhà đầu tư (công ty đa quốc gia) thường xuyên xem xét để đi đến
quyết định đầu tư hay không nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nhưng phải trong điều kiện ít
rủi ro nhất. Không bao giờ các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một quốc gia có môi
trường chính trị bất ổn luôn bị đe dọa, đảo chính hoặc chiến tranh. Vì sự ổn định về
môi trường chính trị là nền tảng để có thể có một chính sách ổn định và nhất quán đối
với đầu tư nước ngoài. Ngoài ra sự ổn định chính trị - an ninh xã hội mà các nhà đầu tư
quan tâm đó là sự bền vững của chính phủ. Nếu các điều kiện khác của môi trường đầu

tư không đổi, thì nền chính trị - an ninh xã hội càng ổn và mức độ tin cậy càng cao,
càng hấp dẫn đầu tư. Do đó, sự ổn định vị chính trị - xã hội có thể được xem là một lợi
thế so sánh cần phát huy.
1.3.3. Về cơ sở hạ tầng
Là một tổng thể các cơ sở vật chất - kỹ thuật, các phương tiện, các công trình
hiện có trong một quốc gia nhất định được dùng làm điều kiện sản xuất và sinh hoạt,
đảm bảo sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, các luồng thông
tin, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu trong quá trình sản xuất và đời sống. Với quan
niệm trên, cơ sở hạ tầng gồm có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.
1.3.4. Yếu tố kinh tế vĩ mô
1.3.4.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện là sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc gia
(GDP, GNP) qua những khoảng thời gian nhất định, có thể tính năm này so với năm
khác, trung bình trong một số năm hoặc so với năm gốc. Theo J.M.Keynes, muốn tăng
thu nhập quốc dân (sản lượng quốc gia) thì phải gia tăng đầu tư, mối quan hệ giữa gia
tăng đầu tư và gia tăng sản lượng quốc gia J.M. Keynes đưa ra khái niệm số nhân đầu
tư. Số nhân đầu tư (k) thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư và gia tăng thu nhập

20


khi có một lượng thêm về đầu tư tổng hợp, thì thu nhập sẽ tăng thêm một lượng bằng k
lần là mức gia tăng đầu tư. Do đó số nhân đầu tư là
(Y là thay đổi của sản lượng; k là số nhân,

. Suy ra:

là thay đổi đầu tư).

Sự phát triển kinh tế của Lào đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử.

Kể từ sau giải phóng, đặc biệt từ khi Lào tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế Lào có
rất nhiều thay đổi.
Trong thời kỳ 1981 - 1985, Chính phủ Lào đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ I, tiếp
tục triển khai đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ này, kinh tế Lào gặp
nhiều vấn đề thách thức chủ yếu do những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực.
tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của giai đoạn này là 5,5%/năm.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ II (1986 - 1990), Lào chủ trương phát triển kinh
tế đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc thực hiện kế
hoạch 5 năm đã được đồng bộ với việc cải cách nhiều vấn đề như xóa bỏ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, cơ chế quan liêu bao cấp tiến tới cải cách về giá, áp dụng nhiều
thành phần kinh tế để phát triển, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, mở rộng hợp tác quốc tế
để thu hút đầu tư trực tiếp và tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài [32].
Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm lần thứ II (1986 - 1990) là sự triển
khai thực hiện nghị quyết của hội nghị Đảng NDCM Lào lần thứ IV, xây dựng cơ cấu
kinh tế bao gồm nông, lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, cải thiện và xây dựng luật
pháp để quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế mới, mở rộng hợp tác quốc tế. Thời kỳ
này là thời kỳ đầu tiên của việc cải cách kinh tế mới, việc xây dựng và phát triển đất
nước gặp nhiều khó khăn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào trung bình đạt
4,4%. Tỷ lệ lạm phát giảm từ 30,3% năm 1985 xuống còn 11,5% năm 1987, nhưng sau
đó tăng lên đến 75% trong năm 1989 trước khi giảm xuống ở mức 19,6% năm 1990
Điểm đáng chú ý trong thời kỳ này là ngày 19/4/1988 CHDCND Lào đã ban hành
Luật đầu tư nước ngoài. Đó là điểm khởi đầu của việc thu hút FDI ở Lào.
Kế hoạch 5 năm lần thứ III (1991-1995) tiếp tục sự nghiệp đổi mới toàn diện,
chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế sản xuất hàng hóa. Đáng
chú ý kế hoạch đầu tư của Nhà nước đã được hoạch định và thực hiện để phát triển cơ

21


sở hạ tầng, để thúc đẩy sản xuất và dịch vụ xã hội. Những năm 1990, kinh tế của Lào

tăng trưởng ở mức 6,4%/ năm. Trong giai đoạn này, việc tiếp tục đường lối đổi mới
toàn diện đã được thống nhất và thông qua trong Hội nghị lần thứ V của Đảng. Đồng
thời, Chính phủ cũng đã đề ra kế hoạch phát triển 8 năm (1993 - 2000) nhằm đảm bảo
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững. Chính phủ xác định 8 kế
hoạch ưu tiên quốc gia để xây dựng nền tảng cho việc mở rộng sản xuất hàng hóa và
thúc đẩy từng bước phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Có 8 kế hoạch ưu tiên của
Chính phủ Lào đã được đặt ra cho giai đoạn 8 năm (1993 - 2000): (i) Sản xuất lương
thực thực phẩm; (ii) Khuyến khích sản xuất hàng hóa; (iii) Cấm chặt phá rừng làm
nương và phát triển thâm canh; (iv) Phát triển vùng sâu vùng xa; (v) Xây dựng cơ sở
hạ tầng; (vi) Phát triển ngành dịch vụ; (vii) Phát triển nguồn nhân lực; (viii) Khuyến
khích việc hợp tác quốc tế.
Sau Đại hội lần thứ VI và lần thứ VII của Đảng NDCM Lào về tiếp tục triển
khai đường lối đổi mới thành chiến lược phát triển tới năm 2020, kế hoạch 5 năm lần
thứ V (2001 - 2005) được đề ra với mục đích tiếp tục thực hiện 8 kế hoạch ưu tiên của
Chính phủ, phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, theo hướng công nghiệp hóa hiện địa hóa từng bước.
Hơn 30 năm qua, mặc dù Lào gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện kế
hoạch triển kinh tế - xã hội, nhưng kinh tế Lào cũng đạt được thành công lớn. Nền
kinh tế quốc dân tiếp tục được mở rộng và phát triển liên tục, tốc độ tăng trưởng GDP
ngày càng tăng lên, thể hiện thông qua các giai đoạn thực hiện các kế hoạch 5 năm, từ
năm 1981 đến năm 2011. Cụ thể như sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP của Lào không đều. Giai đoạn (1986 - 1990) có tốc độ
tăng trưởng thấp nhất (4,5%) do tác động của nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài
tác động vào nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng ti chính tiền tệ (1997) diễn ra trong khu
vực đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Lào trong giai đoạn 1996 - 2000. Tốc độ
tăng trưởng GDP của Lào giai đoạn này là 5,9%. Với mục tiêu phát triển kinh tế và
xóa đói giảm nghèo, theo hướng công nghiệp hóa - hiện địa hóa đất nước, tốc độ tăng
trưởng GDP của Lào giai đoạn 2001 - 2005 đạt 6,2%. Riêng năm 2005, tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 8,1%. Năm 2006 đạt 8%, năm 2007 là 7,9%, năm 2008 đạt được 8%,

22



năm 2009 đạt được 7,6%, năm 2010 đạt được 7,7% năm 2011 đạt được 7,5%. năm
2012 đạt được 8,2%, và năm 2013 đạt được 7,7% .
Biểu đồ .1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Lào (2004 – 2013 )

Nguồn: Ngân hàng Trung ương Lào và Bộ kế hoạch và Đầu tư.
Để tăng trưởng kinh tế ổn định nghĩa là ở đó các yếu tố tạo ra nó đều ổn định và
có biểu hiện tăng trưởng tạo nên các điều kiện thuận lợi để hoạt động đầu tư có thể đạt
được hiệu quả nhanh nhất, cao nhất. Ngược lại, nếu tăng trưởng kinh tế không ổn định
làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài, gây ảnh hưởng tới các hoạt động
thu hút đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, toàn cầu hóa về kinh tế dẫn tới sự phát triển ở
mỗi quốc gia đều chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nền kinh tế của các quốc gia khác,
nhất là phụ thuộc vào kinh tế của Mỹ (kinh tế của Mỹ chiếm 30,5% GDP của thế giới),
Nhật Bản, và Liên minh Châu Âu. Cũng như năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân của các nước công nghiệp phát triển OECD là 4,2%; năm 2001 chỉ là 1%; năm
2002 dự kiến 0,9%. Nhật Bản là nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới năm
2000 GDP của Nhật tăng 1,4%; năm 2001 đạt -0,9% và năm 2002 là 0%. Còn Liên
minh Châu Âu mức tăng trưởng 2001 đạt 1,8%; năm 2002: 1,7%. [27, tr. 26].
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được coi là trọng tâm và nhiệm vụ đầu tiên, do đó cơ cấu kinh tế
là vấn đề quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển của các nước công nghiệp phát
triển. Cách mạng khoa học công nghệ đã làm xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới,
nhiều sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao như: Công nghiệp chế biến;

23


thông tin viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới...,
và cùng với sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất ngày càng

được nâng cao, do vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phụ vụ đời sống và sản xuất
kinh doanh, nhất là dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch. Đây là những ngành đầy hứa
hẹn lợi nhuận siêu ngạch lớn đem lại khả năng chi phối kinh tế thế giới trong tương lai
nếu làm chủ nó, vì vậy có sự hấp dẫn mạnh đối với đầu tư. Hơn nữa các nước công
nghiệp phát triển đã hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ và lao
động cao phù hợp với yêu cầu đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia TNCs. Do đó,
mục tiêu đầu tư vào những ngành đó cho phép các nhà đầu tư thu được lợi nhuận cao,
ít gặp rủi ro hơn, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư. Mặt khác, sự phát triển kinh tế
luôn đặt ra vấn đề là phải chuyển dịch cơ cầu nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa phù
hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, để giải quyết vấn đề này phải bắt đầu
tư hoạt động đầu tư, việc thay đổi cơ cấu cơ cấu đầu tư sẽ làm dịch chuyển cơ cấu kinh
tế. Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều ngành kinh
tế ra đời và phát triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới xuất hiện
thay thế cho nhiều ngành, lĩnh vực mới, sản xuất kinh doanh truyền thống trước đây;
một số lĩnh vực kinh doanh mới, phù hợp với biến đổi của thời đại ngày nay đã trở nên
có sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư. Chính vì vậy, mà hầu hết các quốc gia đều tập trung
mọi cố gắng để tạo ra những điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào phát
triển nền kinh tế của mình.
1.3.5. Yếu tố chính sách tài chính và tiền tệ
Là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được của hệ thống chính sách kinh tế
mà ở đó các yếu tố tạo ra nó đều ổn định và có biểu hiện tăng trường tạo ra các điều
kiện thuận lợi để hoạt động đầu tư có thể đạt được kết quả cao nhất. Các nhà đầu tư
nước ngoài thường xuyên nhận xét và so sánh giữa chính sách về thuế và chính sách
tài chính ở các nước để đi đến đầu tư tìm kiếm địa điểm thích hợp đầu tư nào mang lại
lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, mỗi chính sách tài chính đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, việc tăng thuế lợi
tức sẽ dẫn đến gia tăng đầu tư nước ngoài và mức độ tác dụng phụ thuộc vào nguồn
vốn của các chi nhánh là được tạo ra tại chỗ, hoặc được chuyển tư công ty mẹ đến,
hoặc được đưa từ bên ngoài vào. Vì vậy, nếu giảm tín dụng thuế đối với nước ngoài sẽ


24


làm giảm lượng vốn đầu tư ra nước ngoài trừ phi nguồn vốn cho các chi nhánh được
hình thành từ phần thu nhập giữ lại và ngược lại nếu tăng tín dụng thuế đối với đầu tư
trong nước, hoặc không cho phép trì hoãn chi trả thuế đối với phần thu nhập không
được chuyển về công ty mẹ càng sẽ làm giảm dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Về chính sách tiền tệ: Là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút
đầu tư nước ngoài. Bởi vì nó có vai trò cải thiện cán cân thanh toán. Bằng các công cụ
như lãi suất, tỷ giá hối đoái... chính sách tiền tệ - tín dụng tác động lên mức đầu tư
nước ngoài. Khi khối lượng tiền tệ tăng dẫn đến lãi suất tín dụng giảm xuống làm cho
đồng tiền rẻ sẽ kích thích đầu tư, phát triển tổng sản phẩm quốc dân, tăng tổng cầu,
phát triển sức mua thị trường, giảm hàng hóa tồn động, kích thích gia tăng sản xuất.
Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm giảm đầu tư. Chính sách
tiền tệ về lãi suất, tỷ giá hối đoái, cơ chế quản lý tài chính tiền tệ sẽ tác động trực tiếp
tới hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua chỉ tiêu lợi nhuận,
một chỉ tiêu mà bất cứ chủ đầu tư nào cũng quan tâm. Thường có sự so sánh giữa hệ
thống thuế và chính sách tiền tệ ở các nước tiếp nhận của các nhà đầu tư nước ngoài
mục đích nhằm tìm kiếm địa điểm đầu tư vào mang lợi nhuận cao nhất. Hoạt động của
thị trường vốn và hệ thống ngân hàng phần nào cũng tạo sự thuận lợi hoặc hạn chế
trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
1.3.6. Yếu tố thương mại - dịch vụ
Tự do hóa thương mại trên toàn cầu ngày càng gia tăng, các rào cản thương
mại: thuế quan và các biện pháp phi thuế quan đang trong giai đoạn giảm mạnh (kết
quả thực thi các hiệp định thương mại song phương và đa phương) đã tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho hoạt động thương mại phát triển.
Hầu hết các nước ở 5 Châu lục địa đang đua nhau lập ra liên minh kinh tế khu
vực dưới dạng vùng mậu dịch tự do hay liên minh về thuế quan, thị trường chung v.v...
Nguyên nhân của hiện này là do xu thế nhất thể hóa nền kinh tế cho phép vừa gia tăng
tốc độ phát triển tự do thương mại mạnh mẽ ở từng khu vực, vừa giúp các nước trong

khối liên minh dựa vào nhau để chống lại sự xâm phạm từ các quốc gia khác, ở các
khu vực khác. Và khi liên minh kinh tế phát triển cao thì kết nạp hội thành viên và tiến
tới thành lập liên minh kinh tế khu vực. Ví dụ, hiện tại tổng số thành viên Liên minh

25


×