Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp trong dạy học văn bản ngữ văn lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.79 KB, 20 trang )

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TÍCH HỢP TRONG DẠY
HỌC VĂN BẢN NGỮ VĂN LỚP 8
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/ Lí do chon đề tài:
1 . Với tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực thì
hệ thống câu hỏi là phương tiện, là công cụ quan trọng nhất của quá trình dạy
học, nó quyết định đến chất lượng của mỗi giờ lên lớp. Đặc biệt đối với quá
trình giảng dạy môn Ngữ văn nói chung, phân môn giảng văn nói riêng thì hệ
thống câu hỏi trở thành “công cụ dẫn dắt” giúp giáo viên và học sinh hoàn
thành tốt quá trình dạy-học đảm bảo theo nguyên tắc dạy học tích cực và tích
hợp.
2. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được các cấp quản lí giáo dục đặc
biệt quan tâm, coi đó như một nội lực lớn của ngành cần được tập trung khai
thác triệt để nhằm tạo ra “bước nhảy” về chất lượng giáo dục cũng như sự
thay đổi mang tính đột phá của nền giáo dục nước nhà trong thời kì công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Trung ương II khóa VII của
Đảng đã chỉ rõ “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo ,khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học , từng bước đưa phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học”. Để đáp ứng yêu cầu đó, Bộ giáo dục và đào tạo đã tiến hành
thay sách giáo khoa các bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9, tạo điều kiện cho các giáo
viên thực hiện phương pháp dạy học mới. Một trong những điểm mới nổi bật
của môn văn là nó được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Với sự đổi mới
này, người dạy phải xây dựng một hệ thống câu hỏi tích hợp tương ứng với
yêu cầu mới của chương trình, sách giáo khoa, của đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá.
3. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn có nhiều thành công trong việc biên soạn
câu hỏi theo tinh thần tích hợp, tuy nhiên do chưa có nhiều kinh nghiệm về
biên soạn sách giáo khoa tích hợp nên còn nhiều vấn đề chưa hoàn thiện. Hơn
nữa ngay cả khi sách giáo khoa Ngữ văn đã biên soạn được một hệ thống câu
hỏi khá tốt thì vấn đề này vẫn đặt ra một cách cấp thiết đối với giáo viên. Bởi


việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa vào quá trình dạy học là
cả một vấn đề phong phú, linh hoạt mang tính vận dụng sáng tạo của từng
giáo viên. Đặc biệt, việc vận dụng câu hỏi trong dạy học văn bản phải thực sự
linh hoạt tùy vào từng đối tượng học sinh, từng vùng miền, từng hoàn cảnh
-1-


cụ thể mà sử dụng nhằm phát huy tối đa ưu thế của dạy học theo hướng tích
hợp. Hơn nữa từ câu hỏi trong sách giáo khoa đến hệ thống câu hỏi trên lớp
của giáo viên mới là bước hoàn thiện một quy trình dạy học. Do vậy, việc
xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp, vận dụng hệ thống câu hỏi ấy để đạt hiệu
quả cao nhất cho một giờ học theo hướng tích hợp là điều cần thiết đối với
giáo viên dạy Ngữ văn nói chung và giáo viên dạy Ngữ văn 8 nói riêng.
II/ Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung áp dụng thực hiện ở đối tượng học sinh lớp 8 trường THCS
nơi tôi đang công tác. Đối tượng ở đây là học sinh đại trà lớp 8, gồm 2 lớp 8A
và 8B với tổng số 47 học sinh. Trong đó tôi chọn một lớp 8A làm đối tượng
chính trong phạm vi nghiên cứu.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Vấn đề xây dựng câu hỏi tích hợp trong dạy học văn bản là hết sức rộng
lớn, trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ xin đề cập việc xây dựng hệ thống câu
hỏi tích hợp trong dạy học văn bản Ngữ văn lớp 8.
III/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục đính nghiên cứu:
Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp trong dạy học văn bản là một vấn
đề vô cùng phong phú, đa dạng bởi mỗi một giáo viên đứng lớp sẽ có một
cách xây dựng hệ thống câu hỏi khác nhau. Lựa chọn một vấn đề đã đã được
đề cập khá nhiều bản thân tôi mong muốn khẳng định lại một lần nữa tính
chất quan trọng có ý nghĩa quyết định chất lượng dạy học của việc xây dựng

hệ thống câu hỏi tích hợp trong giờ giảng văn. Qua đó mong muốn đóng góp
một phần nhỏ bé trong việc hình thành ý thức và kĩ năng xây dựng hệ thống
câu hỏi tích hợp trong quá trình giảng dạy nhằm bàn luận chia sẻ cùng đồng
nghiệp để cùng nhau thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực, tích hợp; đem đến cho học sinh niềm yêu thích học tập môn Ngữ
văn; từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng dạy học văn hiện nay.
Qua đề tài này, tôi mong muốn góp phần tích cực vào việc dạy học môn
Ngữ văn của nhà trường nơi tôi đang công tác. Cụ thể:
- Cải thiện thực trạng dạy học văn hiện nay; từng bước giúp học sinh
ngày càng yêu mến môn văn, yêu thích học văn.
- Góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học văn một cách
mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa.
-2-


- Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng dạy học văn của trường hiện
nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thông qua các dẫn chứng, các ví dụ cụ thể về việc xây dựng và vận
dụng hệ thống câu hỏi tích hợp trong quá trình dạy học văn bản Ngữ văn lớp
8, tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Qua tiếp cận, khảo sát, quan sát, đề tài sẽ làm sáng tỏ vai trò, tác dụng
của việc sử dụng hệ thống câu hỏi tích hợp trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học đối với phân môn giảng văn.
- Tìm ra một số giải pháp chung và giải pháp cụ thể giúp giáo viên xây
dựng và sử dụng câu hỏi tích hợp vào soạn giảng.
IV/ Phương pháp nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát ,tiếp cận.
- Khảo sát nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn

giảng dạy.
- Nêu dẫn chứng.
- Phân tích, so sánh.
B/ NỘI DUNG
I/ Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
1. Cơ sở lý luận.
Trong những năm gần đây cùng với việc thực hiện giảng dạy theo
chương trình sách giáo khoa mới, thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã
được các cấp quản lí giáo dục đặc biệt quan tâm thúc đẩy và phát huy một
cách có hiệu quả.
Phương pháp dạy học Ngữ văn mới yêu cầu phát huy tối đa tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Đây được xem như một
nguyên tắc dạy học đảm bảo chất lượng và hiệu quả (dạy học tích cực),
chuyển từ lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy người học làm trung
tâm là một xu hướng tất yếu có tính lịch sử.
Với các môn học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng thì đổi mới dạy
học đã trở thành vấn đề cấp thiết và điểm mấu chốt của môn Ngữ Văn nằm
trong hai chữ tích hợp. Tích hợp trong môn Ngữ văn được hiểu là sự kết nối
tri thức và kĩ năng giữa ba phần Văn-Tiếng Việt-Tập làm văn và trong từng
phần, từng vấn đề cụ thể. Đó chính là hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai
-3-


thác giá trị của các tri thức công cụ thuộc từng phân môn trên cơ sở một hoặc
một số văn bản có vai trò như là kiến thức nguồn. Tích hợp và tích cực có
mối quan hệ khăng khít bổ sung lẫn nhau: Tích hợp để tích cực và tích cực để
tích hợp nghĩa là có tích cực mới phát huy tốt tính chất tích hợp, qua tích
hợp, học sinh càng tích cực hơn.
Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa môn Ngữ văn đã thể hiện rất rõ
tính tích hợp. Tuy nhiên việc vận dụng chúng vào quá trình dạy học sao cho

có hiệu quả lại là vấn đề không đơn giản đòi hỏi người giáo viên phải kì công
trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp. Đặc biệt là trong phần giảng
văn, giáo viên có tích hợp thì mới phát huy được tính tích cực, chủ động và
sáng tạo trong học tập. Nếu trong giờ giảng văn người thầy chú ý tích hợp thì
học sinh sẽ chú ý đến mọi mặt của vấn đề hơn, các em sẽ phát huy mạnh mẽ
hơn nữa tư duy của mình. Khi giảng văn, giáo viên phải khéo léo sử dụng
linh hoạt các câu hỏi nhằm kết nối với tri thức của phân môn Tiếng Việt, Tập
làm văn (Tích hơp ngang) không chỉ có thế còn phải liên hệ với chính phần
giảng văn trong toàn bộ chương trình đã học với nhau (tích hợp dọc) mà rộng
hơn là liên hệ giữa văn với kiến thức của các môn học khác như Âm nhạc, Mĩ
thuật, Lịch sử, Địa lí, GDCD, Ngoại ngữ .v.v...(Tích hợp mở rộng) và tất
nhiên để có thể trả lời tốt những câu hỏi tích hợp của thầy, học sinh không thể
không động não, không thể không nghiên cứu kĩ càng khi soạn bài, luôn chú
ý tới mối quan hệ giữa bài học này với bài học kia, môn học này với môn học
khác. Nghĩa là không thể không tích cực. Nhờ vậy cũng hình thành cho các
em khả năng tư duy tích hợp trong xử lí tình huống, trong cuộc sống hàng
ngày.
Trong quá trình phân tích tác phẩm văn chương muốn phát huy được tối
đa năng lực chủ quan, kinh nghiệm của học sinh để các em tự thâm nhập tác
phẩm theo hướng tích cực, sáng tạo dưới sự tổ chức của thầy. Giáo viên cần
phải thiết kế giáo án làm sao, phải có phương án khai thác văn bản, cách sử
dụng hệ thống câu hỏi tích hợp làm sao, cách phân tích như thế nào, tích hợp
ở đâu, ở thời điểm nào.v.v.. để có thể chuyển hóa một cách tối đa, có hiệu quả
mục tiêu cần đạt. Đó là điều mà giáo viên cần trăn trở và tìm ra phương án tối
ưu nhất. Tất cả điều đó đều được thể hiện ở hệ thống câu hỏi tích hợp mà
giáo viên xây dựng trong giáo án.
2. Cơ sở thực tiễn.
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra
hàng ngày, xã hội phát triển nhanh chóng, trình độ văn hóa, văn minh của xã
-4-



hội luôn tiến bộ không ngừng điều đó đã đặt ra cho nghành giáo dục một
nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đào tạo ra những con người mới, đáp ứng
được nhu cầu mới của đất nước. Đó là con người toàn diện, năng động, sáng
tạo, có khả năng thích ứng nhanh với môi trường sống. Thế hệ trẻ của chúng
ta trong tương lai không chỉ phải có đủ tài mà còn phải hoàn thiện về cả đức.
Xuất phát từ chức năng của môn Ngữ văn là không chỉ giáo dục các kĩ năng
theo đặc trưng bộ môn mà còn phải giáo dục cho các em về thẩm mỹ trong
cuộc sống đó là lòng yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người, biết tự
hào và góp phần tài trí của mình để xây dựng và bảo vệ quốc. Nhưng thực
trạng hiện nay, đa số học sinh chưa thật mặn mà học môn Ngữ Văn. Tình
trạng trên do nhiều nguyên nhân, nhưng theo tôi trong đó có nguyên nhân rất
quan trọng thuộc về giáo viên: Chậm đổi mới phương pháp; dạy học một
cách rập khuôn, khô khan, cứng nhắc, đơn điệu ... làm cho học sinh ngại học
văn, chán học văn. Để thay đổi tình trạng trên, giáo viên cần phải thay đổi
phương pháp dạy học theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực của học
sinh, đem lại hứng thú học môn văn cho các em.
II/ Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
1- Địa phương nơi tôi đang công tác là một xã còn gặp nhiều khó khăn ,
điều kiện học tập của đa số học sinh vô cùng khó khăn, thiếu thốn; các em
vừa học tập vừa phải làm việc vất vả để kiếm kế sinh nhai; đa số các gia đình
chưa chú tâm đầu tư việc học tập cho con em. Vì vây, trong những năm qua,
mặc dù đã được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo nhưng chất lượng giáo dục
nói chung, chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói riêng vẫn còn thấp so với
mặt bằng chung trong toàn huyện. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn
Ngữ văn của trường, bản thân đã có nhiều suy nghĩ và trăn trở. Tôi nhận thấy
rằng, có nhiều nguyên, trong đó có nguyên nhân quan trọng liên quan đến
thực trạng dạy học văn của trường.
* Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên do những nguyên nhân khác nhau

nên còn ít đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới nhưng hiệu quả chưa cao, ít
đổi mới theo hướng tích hợp; chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, tự
giác, sáng tạo của học sinh. Chưa chú trọng xây dựng và phát huy ưu thế của
hệ thống câu hỏi tích hợp trong quá trình giảng dạy. Tóm lại, giáo viên chưa
tạo ra được hứng thú học tập môn Ngữ văn cho các em.
* Về phía học sinh: Nhiều học sinh không còn yêu thích học văn, thậm chí
một số học sinh có tâm lí ngại học văn, sợ học văn. Đó là một thực trạng
đáng báo động. Qua thực tế giảng dạy Ngữ văn, qua việc chấm bài của học
-5-


sinh, qua quan sát việc học bài, chuẩn bị bài ở nhà của các em, tôi nhận thấy
rất nhiều biểu hiện của tình trạng trên như: Học sinh thờ ơ với văn, học văn
rất miễn cưỡng, chuẩn bị bài mang tính đối phó… kết quả là khả năng diễn
đạt, khả năng tư duy, khả năng trình bày , liên hệ, liên tưởng .v.v…rất kém.
* Để kiểm chứng cho thực trạng đó, ngay từ đầu năm học, tôi đã sử dụng
hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó cho phù hợp với các dạng câu hỏi dành cho
các đối tượng học sinh từ yếu đến trung bình, khá, giỏi.
2- Sau khi điều tra áp dụng hệ thống câu hỏi trong những bài học đầu
năm, số liệu cụ thể được thống kê như sau:
Mức độ trả lời
Tổng số HS: 47
Tỉ lệ %
Học sinh trả lời đúng câu hỏi
3
6,4
Học sinh trả lời đúng một phần câu hỏi
14
30
Học sinh trả lời chưa chính xác câu hỏi

30
63,6
Là một giáo viên được trực tiếp dạy văn trong nhà trường THCS, được
tiếp cận đào tạo bồi dưỡng phương pháp dạy học mới. Thấy rõ tầm quan
trọng của hệ thống câu hỏi tích hợp trong giảng dạy Ngữ văn. Ngay từ đầu
năm học 2012-2013, được phân công giảng dạy Ngữ văn khối 8, bản thân tôi
đã chú ý đến hệ thống câu hỏi tích hợp ở cả 3 phần: Văn-Tiếng Việt-Tập làm
văn, đặc biệt chú ý đến hệ thống câu hỏi tích hợp ở phần giảng văn. Để gieo
vào tâm hồn các em tình yêu văn học, để hoàn thành nhiệm vụ dạy học một
cách có hiệu quả, với lòng yêu nghề, ý thức về công việc đã thôi thúc tôi
chọn đề tài này để nghiên cứu.

III/ Giải pháp thực hiện:
1. Xác định cơ sở để xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp:
- Đầu tiên giáo viên phải chọn ra điểm đồng quy giữa ba phân môn trong
mỗi bài học theo các yêu cầu cần đạt trong sách giáo khoa và sách giáo viên.
Khi đó giáo viên sẽ có cái nhìn bao quát, lôgic mang tính hệ thống từ đó mà
xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp phù hợp cho từng phần, đặc biệt ở phần
giảng văn.
Ví dụ:
Văn bản Lão Hạc: - Điểm đồng quy với Tiếng Việt là ở bài Từ láy, từ
tượng hình, từ tượng thanh.
- Với phần Tập làm văn ở bài Chuyển đoạn trong
văn bản.
- Theo nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa theo hướng tích hợp thì nội
dung kiến thức sách giáo khoa Ngữ văn 8 là mở đầu cho tích hợp vòng 2-6-


vòng mà nội dung kiến thức biên soạn có sự mở rộng và nâng cao so với kiến
thức ở vòng 1. Vì vậy phải căn cứ điểm này để xây dựng câu hỏi tương ứng

với nội dung kiến thức sao cho phù hợp với yêu cầu vừa kế thừa, vừa mở
rộng, nâng cao kiến thức.
Ví dụ:
Ở các bài 22, 23, 24,25, 26, 27, 28, (Ngữ văn 8, tập 2), học sinh được học
lại các văn bản nghị luận (Trước đó đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 7).
Nội dung kiến thức mà chúng ta cần mở rộng, nâng cao cho học sinh là về
yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận. Cho nên, ở phần Tập làm văn cần tập
trung cung cấp kiến thức và kĩ năng để đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị
luận, kĩ năng về viết đoạn văn trình bày luận điểm.
- Đặc biệt, trong giờ giảng văn hướng tích hợp là rất đa dạng, phong phú
muôn hình muôn vẻ. Ngoài đảm bảo kiến thức trọng tâm thì giáo viên cần
chú ý tích hợp mở rộng, liên hệ vấn đề liên quan đến các môn học khác, đặc
biệt là các môn khoa học xã hội ... và liên hệ thực tiễn đời sống.
Ví dụ:
Dạy các văn bản nghị luận trung đại: Chiếu dời đô; Hịch tướng sĩ; Bình
Ngô đại cáo cần liên hệ với kiến thức lịch sử. Dạy các văn bản nhật dụng: Ôn
dịch thuốc lá; Bài toán dân số; Thông tin về ngày trái đất năm 2000. cần chú
trọng sử dụng dạng câu hỏi liên hệ thực tiễn, liên hệ bản thân, liên hệ với
những vấn đề mang tính thời sự, xã hội..v.v..
-Tuy nhiên, khi xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp cho giờ giảng văn,
giáo viên cần chú ý:
+ Lựa chọn nội dung tích hợp về tri thức hoặc kĩ năng ở mỗi tiết dạy phải
hợp lí trên cái nhìn bao quát toàn bài học.
+ Về thời điểm tích hợp: Phải đúng lúc, đúng chổ.
+ Cần tránh xu hướng ôm đồm, không lựa chọn dẫn tới tản mạn, khiến giờ
học quá tải.
+ Nội dung và cách tích hợp phải phù hợp với đối tượng học sinh mình
giảng dạy.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc và những chú ý khi xây dựng hệ
thống câu hỏi tích hợp trong giờ giảng văn, giáo viên tiến hành xây dựng hệ

thống câu hỏi trong giáo án.
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp trong giáo án:
Để thuận tiện cho việc xây dựng, theo tôi giáo viên cần bám vào các
bước trong phần giảng văn:
-7-


Bước 1: Kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới.
Bước 2: Đọc-Tìm hiểu chung: tìm hiểu tác giả, tác phẩm, chú thích…
Bước 3: Đọc -Hiểu văn bản.
Bước 4: Tổng kết.
Bước 5: Hướng dẫn học ở nhà.
2.1: Câu hỏi tích hợp trong phần kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới.

Có thể sử dụng nhiều dạng câu hỏi kết hợp hỏi kiến thức về loại bài, thể
loại, phân tích cảm nhận, trình bày, giới thiệu, sưu tập…có thể sử dụng cả 3
hướng tích hợp chính:
- Tích hợp ngang với kiến thức của Tiếng Việt và Tập làm văn.
Ví dụ:
CH: Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ “Nhớ rừng” của Thế
Lữ ?
Điểm tích hợp ở đây chính là học sinh sử dụng nhiều kiến thức Tiếng
Việt như trường từ vựng, ẩn dụ, nhân hóa, câu cảm thán, câu hỏi tu từ …với
Tập làm văn là kiến thức về văn biểu cảm hoặc văn nghị luận qua phần xây
dựng luận điểm và lập luận.
- Để vào bài một cách linh hoạt, tạo tâm thế tốt cho thầy và trò trước giờ
giảng văn, giáo viên có rất nhiều lựa chọn, tôi cho rằng ta nên ưu tiên cho
dạng tích hợp mở rộng vì nó có lợi thế trong việc tạo không khí vui tươi, cởi
mở, kích thích tư duy, tạo hứng thú vào bài.
Ví dụ:

* Để vào bài Ông đồ ta có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh về ông đồ,
khung cảnh lễ hội tết xưa; cho học sinh quan sát, so sánh với không khí tết
hiện nay; thực đơn sắm tết của gia đình… từ đó bắt mạch vào bài.v.v…
* Để khởi động vào bài “Tôi đi học”: Ta có thể áp dụng linh hoạt các
hình thức sau thông qua các câu hỏi sau:
1. Em nhớ gì về buổi tựu trường đầu tiên trong đời ?
2. Ở lớp 7, em đã học văn bản nào cũng nói về ngày đầu tiên tựu trường ?
Nội dung của văn bản đó ?
3. Em hãy giới thiệu qua về ngày đầu tiên tựu trường của em ?Cảm nhận,
cảm giác của em lúc đó như thế nào ?
4. Em đọc diễn cảm bài thơ hoặc hát bài hát nói về ngày đầu tiên đi học ?
(Giáo viên đã yêu cầu chuẩn bị trước)
2.2: Câu hỏi tích hợp trong phần đọc-tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm,
chú thích.
-8-


* Ở nội dung này rất phù hợp cho các câu hỏi dạng tích hợp ngang một
cách thuận lợi và hiệu quả.
Ví dụ: Có thể sử dụng nhiều câu hỏi về thể loại, phương thức biểu đạt,
các yếu tố, bố cục, lập luận…nhằm tích hợp với kiến thức tập làm văn; câu
hỏi giải thích từ khó, các đoạn thoại, lời thoại…nhằm tích hợp với Tiếng
Việt.
Đặc biệt để tạo tính tích cực cho học sinh trong việc chuẩn bị bài ở nhà
rèn luyện tính tự giác và nhiều kĩ năng khác giáo viên nên sử dụng nhiều câu
hỏi theo hướng tích hợp mở rộng. Ví dụ như cho học sinh chuẩn bị theo các
nhóm học tập về tranh ảnh, các bài văn, bài thơ, bài hát, tư liệu, tiểu sử, các
bài thuyết minh... có liên quan đến nội dung bài học. Trên lớp cho đại diện
các nhóm trình bày theo sự chuẩn bị.
Ví dụ 1:

Dạy văn bản Nhớ rừng, giáo viên hướng dẫn cho các nhóm học tập tìm
hiểu trước về bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 20-30 của thế kỉ
XX, hoặc tìm hiểu về tiểu sử tác giả, về phong trào thơ mới …
Ví dụ 2: Dạy văn bản Khi con tu hú, ta có thể dùng các hình thức tích hợp
sau:
-Tích hợp bằng trò chơi học tập: Dùng hình thức chơi trò tra từ điển xuôi –
ngược: 2 em HS, 1 em nam đọc từ, một em nữ đọc nghĩa của từ hoặc ngược
lại... cứ như thế cho đến hết số từ khó cần chú thích.
- Dùng phiếu học tập: Dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm:
1. Nhà thơ Tố Hữu có những tác phẩm chính nào ?
A – Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1946-1954)
B – Gió lộng (1955-1961), Ra trận (1962-1971)
C – Máu và hoa (1972-1977), Một tiếng đờn (1979-1992)
D – Cả ba phương án A,B,C đều đúng.
2. Bài thơ Khi con tu hú được viết theo thể thơ nào ?
A - Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
B – Thể thơ lục bát.
C – Thể thơ ngũ ngôn.
D – Thể thơ song thất lục bát.
3. Bài thơ Khi con tu hú được viết trong hoàn cảnh đặc biệt nào ?
A – Được viết khi tác giả sống ở quê nhà.
B – Được viết khi tác giả ở chiến khu Việt Bắc.
-9-


C – Được viết trong nhà lao Thừa phủ (Huế) khi tác giả đang hoạt động
cách mạng.
D – Cả ba phương án A,B,C đều đúng.
Với hướng tích hợp này, với đặc điểm của học sinh trường chúng tôi
nói riêng và các trường THCS vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt

khó khăn nói chung, việc triển khai gặp rất nhiều rất khó khăn, đặc biệt là
thời gian đầu. Tuy nhiên, nếu giáo viên dặn dò, hướng dẫn kĩ lưỡng thì các
em vẫn thực hiện khá hiệu quả. Tôi nghĩ rằng, đó là điều hết sức cần thiết góp
phần quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học.
2.3: Câu hỏi tích hợp trong phần đọc - hiểu văn bản.
- Hệ thống câu hỏi trong phần này nhằm hướng dẫn học sinh tìm hiểu,
phân tích, cảm nhận văn bản. Đây là phần trọng tâm của tiết học. Giáo viên
cần tập trung xây dựng thành một hệ thống câu hỏi từ câu hỏi nêu vấn đề đến
câu hỏi dẫn dắt, gợi mở…đảm bảo tinh thần và các mức độ tích hợp khác
nhau với nhiều hướng tích hợp khác nhau.
- Ví dụ: Xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng tích hợp đọc - hiểu phần
đầu bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
II/ Đọc-hiểu văn bản
1/ Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.
Câu hỏi
T.Tcâu
Hướng trả lời
Hướng tích
hỏi
hợp
H1:Nêu - Ở hai câu thơ đầu
-Lời giới thiệu chung rất -Tích hợp với
vấn đề
nhà thơ đã giới thiệu tự nhiên, mộc mạc … đã phần văn miêu
chung về làng quê
nêu rõ: nghề nghiệp, vị
tả
biển của mình như
trí, đặc điểm…
thế nào ?

-Hình ảnh con thuyền
H2:Gợi Làm nghề gì ? ở đâu cùng trai tráng của làng
mở
ra khơi được miêu tả
? đặc điểm như thế
H3:Nêu nào ?
trong một sáng sớm mai
vấn đề
-Nhà thơ tả cảnh con hồng, gió nhẹ, trời trong
xanh rất thuận lợi.
thuyền cùng trai
-Có 2 hình ảnh đáng chú
tráng của làng ra
-Tích hợp với
khơi đánh cá như thế ý: Hình ảnh con thuyền
và hình ảnh cánh buồm
Tiếng Việt khai
nào ?
H4:Dẫn
trắng
thác biện pháp
dắt
-Vì nó được miêu tả rất
tu từ.
- 10 -


-Có những hình ảnh
nào làm em chú ý
hơn cả? Vì sao ?

H5:Dẫn
dắt
-Hình ảnh “Chiếc
thuyền nhẹ hăng như
con tuấn mã” và
“Cánh buồm giương
to như mảnh hồn
làng” là hình ảnh:
H6:Nêu Ẩn dụ; so sánh; nhân
vấn đề
hóa hay hoán dụ ?
-Biện pháp so sánh
H7:Dẫn trong đoạn thơ này
dắt
có tác dụng gì?
-So sánh con thuyền
với con tuấn mã, kết
hợp với các động từ
“Phăng”,”vượt”;
tính từ “hăng” để
H8: Dẫn miêu tả con thuyền
dắt
có tác dụng gì ?
-Hình ảnh so sánh
Cánh buồm giương
to như mảnh hồn
H9:Gợi làng hay và ấn tượng
mở
như thế nào ?
-Hai đối tượng so

sánh có đặc điểm
gì ? Em hiểu mảnh
hồn làng là gì ? Màu
sắc và tư thế cánh
buồm toát lên vẻ đẹp
gì ?

sáng tạo, độc đáo
-Đó là những hình ảnh so
sánh hết sức độc đáo,
giàu sáng tạo.

-Nhằm diễn tả thật ấn
tượng khí thế băng tới
dũng mãnh của con
thuyền đè song ra khơi →
Vẽ nên một khung cảnh
hùng tráng, bất ngờ, đầy
sức sống.

-Hình ảnh cánh buồm
trắng căng phồng, no gió
ra khơi được so sánh với
mảnh hồn làng biến cánh
buồm vốn quen thuộc
bổng trở nên lớn lao
thiêng liêng bởi nó như
chính là cái biểu tượng
của linh hồn cả làng chài
gửi gắm vào đó bao

nhiêu khát vọng , mong
ước…của con người
→Làm sáng lên vẻ đẹp
lảng mạn,bay bổng, mang
ý nghĩa lớn lao…
- 11 -

-Tích hợp dọc
với hình ảnh
con thuyền
nhuốm màu
tâm trạng trong
thơ cổ hoặc
hình ảnh trong
Đoàn thuyền
đánh cá để làm
sâu sắc hơn
vấn đề


2.4: Câu hỏi tích hợp trong phần tổng kết.
- Đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhằm khái quát, tổng kết lại các
hoạt động trên, nhằm cho học sinh tổng hợp lại những giá trị về nội dung
nghệ thuật, ý nghĩa của văn bản. Từ đó gợi ý cho các em liên hệ với bản thân,
với cuộc sống…
- Có thể nói hoạt động này diễn ra như thế nào nó thể hiện rõ mức độ
thành công của giờ dạy học văn. Vậy nên giáo viên phải đặc biệt coi trong
xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp cho hoạt động này.
Ví dụ1: Tổng kết văn bản “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
Câu hỏi

T. T
Hướng trả lời
Hướng tích
câu
hợp
hỏi
-Những phương thức
-Biểu cảm kết hợp với
H1:
biểu đạt nào được sử
miêu tả và tự sự.
dụng trong bài thơ ?
-Em có nhận xét gì về -Yếu tố miêu tả được sử -Tích hợp với
H2
vai trò của yếu tố miêu dụng với những chi tiết
yếu tố miêu tả
tả trong bài thơ với
ấn tượng có sức lay động tự sự trong
mục đích biểu cảm mà tình cảm một cách mạnh
văn biểu cảm
tác giả muốn gửi gắm ? mẽ → nghệ thuật tả cảnh
ngụ tình được sủ dụng
hết sức tài tình
-Để bộc lộ tình cảm
-Nhân hóa; tương phản
H3
-Tích hợp với
của mình về hình ảnh
đối lập; câu hỏi tu từ để
các phép tu từ

ông đồ xưa và nay, nhà biểu cảm trực tiếp
thơ Vũ Đình Liên đã sử -Kết cấu đầu cuối tương
dụng thành công những ứng; ngôn ngữ cô đọng
biện pháp nghệ thuật
hàm súc’ thể thơ 5 chữ
nào nữa ?
với giọng điệu buồn
-Tình cảm của nhà thơ thương; kết hợp tài tình
H4
được biểu hiện trong
giữa biểu cảm trực tiếp
bài thơ như thế nào ?
và biểu cảm gián tiếp.
-Đó là tình cảm gì ?
- Xót thương cho những -Tích hợp với
H5
than phận người tài hoa, các hình thức
cơ nhỡ; buồn thương tiếc biểu cảm.
nhớ cảnh cũ người xưa;
- 12 -


H6

H7

yêu quý gắn bó với nét
đẹp truyền thống văn hóa
dân tộc.
-Qua đó, em có nhận

- Giàu lòng nhân ái; có
xét, đánh giá gì về nhà trách nhiệm với quê
thơ Vũ Đình Liên ? qua hương đất nước.
đó nhắc nhở em điều gì - Yêu thương con người;
?
trân trọng vẻ đẹp truyền
-Em có suy nghĩ gì về thống; sống có trách
việc giữ gìn bản sắc
nhiệm với quê hương, đất
văn hóa dân tộc trong
nước thể hiện từ những
thờ kì hội nhập quốc
việc làm giản dị nhất.
tế ? Em xác định trách
nhiệm của mình như
thế nào ?

-Tích hợp
luyện nói biểu
cảm
- Tích hợp mở
rộng, nâng cao

Ví dụ 2: Giáo viên cũng có thể sử dụng phiếu học tập để tổng kết phần đọchiểu văn bản Ông đồ với các câu hỏi tích hợp dưới dạng trắc nghiệm như sau:
1. Bài thơ được viết theo phương thức biểu đạt chính nào ?
A – Biểu cảm kết hợp với miêu tả, tự sự.
B – Tự sự.
C – Miêu tả.
D – Biểu cảm.
2. Bài thơ Ông đồ diễn tả các ý gì ?

A – Hình ảnh Ông đồ thời xưa.
B – Hình ảnh ông đồ thời nay.
C – Nỗi long tác giả dành cho ông đồ.
D – Cả ba phương án A,B,C đều đúng.
3. Trong hai câu thơ: “Giâý đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong
nghiên sầu”, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nào ?
A – So sánh.
C - Ẩn dụ.
B – Nhân hóa.
D – Hoán dụ.
4. Trong các câu thơ sau, câu nào là câu nghi vấn ?
A – Giâý đỏ buồn không thắm.
B – Mực đọng trong nghiên sầu.
C – Ông đồ vẫn ngồi đấy.
- 13 -


D – Những người muôn năm cũ.
Hồn ở đâu bây giờ ?
5. Chọn ý đúng nói về chủ đề bài thơ “Ông đồ”?
A – Ca ngợi ông đồ viết câu đối đẹp.
B – Nói về số phận của những người tài tử, đa truân.
C – Tiếc thương một nét đẹp văn hóa bị mai một.
D – Qua hình ảnh đáng thương của ông đồ già, nhà thơ biểu lộ tình
xót thương đối với một lớp người đang tàn tạ, và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ,
người xưa.
2.5: Câu hỏi tích hợp trong phần hướng dẫn về nhà.
- Nếu Câu hỏi tích hợp trong phần này được sử dụng tốt, đặc biệt là những
câu hỏi hay, mang tính sáng tạo, những câu hỏi liên hệ, mở rộng, nâng cao
kiến thức … mà ở trên lớp không có thời gian để thực hiện sẽ giúp phát huy

rất tốt tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh qua đó không
chỉ giúp các em củng cố, mở rộng, nâng cao kiến thức, liên hệ kiến thức lí
thuyết với thực tế đời sống mà còn hình thành cho các em lòng đam mê tìm
tòi, sáng tạo trong học tập, các em sẽ cảm thấy văn học gần gủi và thiết thực
với đời sống; giúp các em yêu thích học văn hơn.
Ví dụ 1:
Sau khi học xong văn bản Ôn dịch thuốc lá giáo viên hướng dẫn học sinh
học ở nhà thông qua các câu hỏi:
+ Em có một người thân vì nghiện hút thuốc lá mà sức khỏe ngày càng sa
sút. Em dự định sẽ khuyên họ như thế nào để họ bỏ thuốc lá ?
+ Em hãy quan sát và thống kê tỉ lệ những người thân xung quanh em
nghiện hút thuốc lá. Qua đó em có nhận xét gì về tình trạng nghiện hút thuốc
lá hiện nay ? Em hãy viết một bài văn nghị luận nói về tình trạng đó ?
+ Nếu như phải vẽ tranh để nói về tác hại của hút thuốc lá đối với sức
khỏe, em sẽ vẽ như thế nào ?
+ Tại sao trên bao bì thuốc lá có ghi dòng khẩu hiệu nhắc nhở người sử
dụng: Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe ?
Ví dụ 2:
- Để vừa củng cố kiến thức vừa rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự có kết hợp
các yếu tố miêu tả và biểu cảm, khi học xong đoạn trích Tức nước vỡ bờ giáo
viên cho học sinh chuẩn bị ở nhà nội dung sau:
Em hãy đóng vai chị Dậu kể lại đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” ?
- 14 -


- Để rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá về một vấn đề văn học, giáo viên
sử dụng câu hỏi đánh giá như:
Theo em, sự thay đổi thái độ của chị Dậu có được miêu tả chân thực,
hợp lí không ? Qua đoạn trích này, em có nhận xét như thế nào về bản chất,
tính cách của chị ?

Hoặc dạng câu hỏi tổng hợp: Ví dụ: (Phân tích nhân vật cai lệ ) Em có
nhận xét gì về nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả ?
Đó là hệ thống những câu hỏi tích hợp mà tôi dự kiến sẻ sử dụng để
hướng dẫn học sinh học ở nhà khi dạy các văn bản trên. Tôi thấy rằng, xây
dựng được hệ thống câu hỏi tích hợp như vậy không khó. Vấn đề đặt ra ở đây
là sử dụng chúng như thế nào: Sử dụng câu nào ? Dạng nào ? Theo hướng
nào ?,v.v…cho phù hợp với đối tượng học sinh, với thực tiễn giảng dạy nhằm
phát huy cao nhất hiệu quả dạy học. Đó là điều mà giáo viên cần phải suy
nghĩ, cân nhắc.
3/ Kết quả thực hiện có đối chứng.
Qua một năm vận dụng việc xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi tích
hợp trong giảng dạy văn bản ngữ văn lớp 8, tôi nhận thấy đã có sự thay đổi
về chất lượng dạy học của môn văn. Khảo sát cuối năm thu được kết quả cụ
thể như sau:
Mức độ trả lời
Tổng số HS: 47
Tỉ lệ %
Học sinh trả lời đúng câu hỏi
5
10,6
Học sinh trả lời đúng một phần câu hỏi
29
61
Học sinh trả lời chưa chính xác câu hỏi
13
28,4
Qua so sánh đối chiếu giữa bảng điều tra thực trạng ban đầu và bảng
khảo sát kết quả sau 1 năm thực hiện đề tài, các con số thống kê cho thấy tỉ lệ
học sinh trả lời đúng một phần câu hỏi được tăng lên đáng kể. Tuy kết quả đó
chưa thực sự cao nhưng qua theo dõi cả quá trình thực hiện đề tài, tôi nhận

thấy rằng, việc áp dụng hệ thống câu hỏi này vào dạy học môn Ngữ văn nói
chung, phân môn giảng văn nói riêng đã phát huy tác dụng khá tốt. Nó giúp
cho việc dạy học trở nên linh hoạt hơn; giờ giảng văn không còn khô khan,
cứng nhắc; gây được hứng thú hơn trong học tập, nhờ đó mà các em tích cực
hơn trong hoạt động học. Học sinh nhớ kiến thức nhanh hơn, bền hơn; hình
thành, phát triển và rèn luyện được nhiều kĩ năng cho các em hơn. Vì vậy mà
chất lượng dạy học dần dần được nâng lên.
C/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
- 15 -


I/ Kết luận.
1. Sau một năm học xây dựng và áp dụng hệ thống câu hỏi tích hợp vào
việc giảng dạy, tôi thấy đó là một hướng dạy học vô cùng đúng đắn. Tôi nhận
thấy rằng, nếu giáo viên tích cực chủ động dạy học theo hướng tích hợp sẽ
không chỉ mang lại hiệu quả dạy học cao mà còn giúp giáo viên nắm vững
hơn nội dung chương trình, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ; hoàn thiện đổi
mới phương pháp dạy học mới. Qua sự kết nối tri thức giữa các phân môn,
các bài, các phần, các chủ đề hoặc giữa các môn học với nhau đã giúp giáo
viên kết nối tri thức một cách hệ thống và lôgic. Trên cơ sở đó giáo viên xử lí
linh hoạt hơn các tình huống dạy học.
2. Đề tài này cũng đã giúp ích rất nhiều cho bản thân tôi:
+ Giúp giáo viên hiểu sâu sắc hơn vai trò, tác dụng ý nghĩa to lớn của việc
dạy học theo hướng tích hợp: Tích hợp tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học, phát huy tối đa khả năng sáng tạo của người dạy.
+ Giúp giáo viên nắm chắc hơn về mối quan hệ giữa tích cực với tích hợp,
tích hợp với tích cực nhờ đó mà hoàn thiện hơn phương pháp và kĩ năng dạy
học.
3. Bồi bổ cho giáo viên nhiều kinh nghiệm quý báu:
- Kinh nghiệm về xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp và việc vận dụng

chúng vào quá trình dạy học trên lớp sao cho phù hợp, tránh tình trạng ôm
đồm, không lựa chọn dẫn tới tản mạn, khiến giờ học quá tải và làm mất đặc
thù của mỗi phân môn.
- Để làm tốt nội dung này tôi nghĩ giáo vên cần:
+ Nắm vững kiến thức về phương pháp dạy học mới.
+ Chọn ra điểm đồng quy của ba phân môn từ đó đặt câu hỏi tìm điểm
tích hợp cho phù hợp.
Ví dụ như: Yếu tố tích hợp tồn tại ở đâu trong bài học? trong dạy, học ?
Đưa yếu tố tích hợp vào vào bài soạn như thế nào ? thể hiện trong hệ thống
câu hỏi như thế nào để đảm bảo sự hài hòa, tự nhiên, không phá vỡ mạch bài
mà lại tích hợp được kiến thức với nhau ? Đối với học sinh trường mình,
vùng mình phải chọn tích hợp những nội dung nào cho phù hợp, có hiệu
quả ?.v.v..
Qua đề tài này tôi rất mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé những
kinh nghiệm mà bản thân đúc rút được qua quá trình thực hiện, nhằm góp
phần thay đổi thực trạng dạy học văn hiện nay của trường chúng tôi. Tuy
nhiên trên đây chỉ là những ý kiến mang tính chủ quan của cá nhân, chắc
- 16 -


chắn còn có nhiều sơ suất, thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
II/ Những kiến nghị.
Dạy học văn theo hướng tích hợp có rất nhiều ưu điểm như đã trình bày
ở phần trên. Tuy nhiên, để phát huy được những ưu thế đó nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn ngữ văn nói chung, dạy học văn bản ngữ văn nói
riêng, tôi có một số kiến nghị sau:
1. Đối với giáo viên:
- Cần tích cực chủ động xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng tích hợp,
vận dụng linh hoạt vào quá trình dạy học. Sau mỗi tiết dạy học cần đúc rút

kinh nghiệm nhằm tự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn giảng dạy.
- Không ngừng học tập, trau dồi kiến thức mang tính hệ thống, xuyên
suốt nội dung chương trình ngữ văn THCS, có như vậy giáo viên mới tiến
hành dạy học tích hợp một cách có hiệu quả.
- Cần tích cực làm đồ dùng dạy học nhằm sử dụng đa dạng các hình thức
tích hợp; đa dạng hóa các hình thức học tập trong giờ Ngữ văn.
2. Đối với tổ chuyên môn:
- Tăng cường các hoạt động chuyên môn.
- Tăng cường kiểm tra, đánh giá giáo viên dựa trên tiêu chí đổi mới phương
pháp dạy học.
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề bám sát vào thực trạng dạy học, có
tổ chức dạy thực nghiệm và nhận xét đánh giá để rút kinh nghiệm chung.
- Giao chuyên đề mang tính khảo sát, quan sát cho từng giáo viên thực hiện
trong thời gian dài. Sau đó tổng kết, rút kinh nghiệm.
3. Đối với Ban giám hiệu:
- Đầu tư mua thêm nhiều tài liệu tham khảo, các đồ dùng dạy học, trang
thiết bị mới.
- Tăng cường các buổi dự giờ, thao giảng.
- Tổ chức thi làm nhiều đồ dùng dạy học hơn nữa phục vụ cho việc giảng
dạy bộ môn trong các bài học cụ thể.
4. Đối với phòng giáo dục:
- Cần quan tâm khuyến khích sáng tạo đồ dùng dạy học của các cá nhân,
các tổ chức, các trường.
- Tổ chức thi sáng tạo đồ dung dạy học giữa các trường trong huyện để đồ
dùng dạy học ngày càng phong phú, tạo thuận lợi cho giáo viên sử dụng
trong dạy học theo hướng tích hợp.
- 17 -


- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề nhằm bồi dưỡng chuyên môn,

nghiệp vụ cho giáo viên.
- Tăng cường tổ chức giao lưu chuyên đề giữa các trường trong cụm, vùng
và trong toàn huyện nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

- 18 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1,2, NXB Giáo dục
Sách giáo viên Ngữ văn 8 tập 1,2, NXB Giáo dục
Thiết kế bài giảng Ngữ văn THCS – lớp 8, tập 1,2 , NXB Hà Nội, 2004
Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự luận Ngữ văn 8, Đoàn Thị
Kim Nhung – Hoàng Thị Minh Thảo, NXB Đại học quốc gia Thành Phố
Hồ Chí Minh.

5.
6.

45 đề trắc nghiệm và tự luận ngữ văn 8, Tạ Thanh Sơn, Nguyễn Việt
Nga…, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Dạy học Ngữ văn 8 theo hướng tích hợp, Lê A – Lê Minh Thu –
Nguyễn Thị Thúy, NXB Đại học Sư phạm.

- 19 -



MỤC LỤC
Trang
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………..1
I/ Lí do chọn đề tài.
II/ Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
1.Đối tượng nghiên cứu:
2. Phạm vi nghiên cứu.
III/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ……………………………………2
1.Mục đính nghiên cứu:
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
IV/ Phương pháp nghiên cứu.
B/ NỘI DUNG……………………………………………………………………..3
I/ Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
1/Cơ sở lý luận.
2/Cơ sở thực tiễn
II/ Thực trạng vấn đề nghiên cứu:…………………………………………..5

III/ Giải pháp thực hiện:……………………………………………...6
1. Xác định cơ sở để xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp:
2. xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp trong giáo án.
2.1: Câu hỏi tích hợp trong phần kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới
2.2: Câu hỏi tích hợp trong phần đọc-tìm hiểu chung về tác giả,
tác phẩm, chú thích.
2.3: Câu hỏi tích hợp trong phần đọc - hiểu văn bản.

2.4: Câu hỏi tích hợp trong phần tổng kết.
2.5: Câu hỏi tích hợp trong phần hướng dẫn về nhà.
3/ Kết quả thực hiện có đối chứng.
C/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………...15

I/ Kết luận.
II/ Những kiến nghị. ………………………………………………………17
1. Đối với giáo viên:
2. Đối với tổ chuyên môn:
3. Đối với Ban giám hiệu:
4. Đối với phòng giáo dục:

- 20 -



×