Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.86 KB, 99 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

MỤC LỤC

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

2

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động huy động
vốn, hoạt động sử dụng vốn, và các hoạt động khác. Trong hoạt động sử dụng
vốn, cho vay được coi là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng,
trong đó cho vay doanh nghiệp thường được chú trọng nhất. Vì vậy muốn gia
tăng lợi nhuân cho ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng
khác điều quan trọng là nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân
hàng.
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy ra
đời ngày 28/02/2002, hàng năm chi nhánh vẫn tăng trưởng trong doanh số cho
vay doanh nghiệp nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần, tỷ lệ nợ quá hạn
cho vay doanh nghiệp trên dư nợ cho vay doanh nghiệp > 1,3%, dư nợ cho vay
doanh nghiệp hàng năm vẫn tăng trưởng song tiềm ẩn nhiểu rủi ro, trong chi
nhánh tồn tại nhiều khoản cho vay có khả năng mất vốn, do vậy chất lượng cho
vay doanh nghiệp tại chi nhánh nhìn chung không cao.Vì vậy trong thời gian tới
chi nhánh cần nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp. Nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề, do vậy tôi chọn:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP


TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ VIỆT NAM
CHI NHÁNH CẦU GIẤY” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận khóa luận tốt nghiệp được chia làm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần
Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO
VAY
DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, trên thế giới hiện nay, ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng, là một
tổ chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu
dùng với quy mô lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những

thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu. Trong vài
năm gần đây ngân hàng không chỉ là một trong những tổ chức tài chính cung
cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp, mà còn tăng cường mở
rộng cho vay dài hạn đối với các doanh nghiệp để hỗ trợ việc xây dựng nhà máy
mới hay mua sắm trang thiết bị máy móc. Như vậy có thể thấy được ngân hàng
là một loại hình quan trọng của nền kinh tế, hiện có rất nhiều cách tiếp cận về
định nghĩa ngân hàng một trong những cách tiếp cận qua các chức năng, các
dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên trong xu
thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt hiện nay không chỉ ngân hàng thực hiện các
chức năng, cung cấp các dịch vụ đó, mà các đối thủ cạnh tranh với ngân hàng
cũng không ngừng phát triển chúng. Hiện nay có rất nhiều các tổ chức tài chính
đang thực hiện các chức năng và cung cấp các dịch vụ đó như: các công ty môi
giới chứng khoán, công ty kinh doanh chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty
bảo hiểm hàng đầu. Vì vậy để cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh tạo ra

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

4

sự khác biệt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế, thì
buộc các ngân hàng phải không ngừng mở rộng cung cấp các dịch vụ, tham gia
hoạt động dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, hoạt động bảo
hiểm. Như vậy có thể tiếp cận định nghĩa về ngân hàng dựa trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung câp: “Ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là

tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” theo giáo trình ngân
hàng thương mại – trường đại học kinh tế quốc dân.
Dựa trên cách tiếp cận về ngân hàng như trên, tùy theo các tiêu thức khác
nhau người ta có thể chia ngân hàng thành các loại hình sau:
Theo hình thức sở hữu: Ngân hàng được chia thành ngân hàng (NHTM) sở
hữu tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng sở hữu nhà nước.
Theo tính chất hoạt động bao gồm: ngân hàng chuyên doanh và đa năng,
ngân hàng hoạt động bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Theo cơ cấu tổ chức bao gồm: ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu
ngân hàng, ngân hàng thuộc sở hữu công ty, ngân hàng đơn nhất và ngân hàng
chi nhánh.
Tuy nhiên trong bài viết này tôi sẽ đi sâu làm rõ về NHTM cổ phần: Đây
là hình thức ngân hàng được thành lập thông qua phát hành cổ phiếu, người
nắm giữ cổ phiếu là cổ đông của ngân hàng có quyền tham gia quyết định các
hoạt động của ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng
thời gánh chịu mọi tổn thất có thể xảy ra với ngân hàng. Các NHTM cổ phần có
thể tăng vốn nhanh thông qua phát hành cổ phiếu thêm, vì vậy thường là các
NHTM lớn trong nền kinh tế. Các NHTM cổ phần có phạm vi hoạt động rộng,
hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con, chính vì vậy mà hầu
hết các NHTM cổ phần có khả năng giảm rủi ro do chuyên môn hóa, song
chúng thường gặp rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền (nhiều chi nhánh hoạt

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp


5

động độc lập với trụ sở ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể có
hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho ngân hàng).
Ngân hàng có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thị trường thông qua quá
trình tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra sự mở rộng mạnh mẽ hoạt động sản xuất
hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, theo các nhà kinh tế học tín dụng chính là
đòn bẩy của quá trình tích tụ vốn cho sản xuất hàng hóa. Quan hệ tín dụng được
hình thành từ khi nền sản xuất hàng hóa còn sơ khai, chỉ khi ngân hàng ra đời
đóng vai trò chủ thể độc lập trong việc huy động vốn cho nền kinh tế chuyển
vốn tới nơi cần vốn, đáp ứng nhu cầu sản xuất của xã hội thì tín dụng mới thực
sự phát huy tối đa vai trò đòn bẩy của mình. Ngày nay trong nền kinh tế thị
trường các định chế ngân hàng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng về
cơ bản ngân hàng vẫn thể hiện vai trò là một trung gian tài chính tức là trung
gian giữa chủ thể cần vốn và chủ thể có vốn nhàn rỗi. Với vai trò vô cùng quan
trọng của ngân hàng trong nền kinh tế, ngày nay ngân hàng ngày càng thể hiện
mình thông qua các chức năng cơ bản sau:


Trung gian tài chính: Ngân hàng là một trung gian tài chính thể hiện
thông qua hoạt động chủ yếu chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư. Sở dĩ ngân
hàng có thể thực hiện được chức năng này đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với cả cá
nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Các cá nhần và tổ chức tạm thời dư thừa tiền
mặt có thể gửi tiết kiệm trong ngân hàng nhờ đó mà các cá nhân tổ chức khác
thiếu vốn có thể vay vốn thông qua ngân hàng để phục vụ hoạt động của mình.



Tạo phương tiện thanh toán: Tạo tiền là một chức năng quan trọng thể
hiện rõ bản chất của ngân hàng, với mục tiêu kiếm lời cho mình NHTM mô

hình chung với nghiệp vụ kinh doanh đặc thù này đã thực hiện chức năng tạo
tiền cho nền kinh tế. Các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù ấy chính là nghiệp vụ
tín dụng và đầu tư trong mối liên hệ với ngân hàng trung ương. Nền kinh tế cần
có cung ứng tiền tệ vừa đủ phù hợp với các chỉ tiêu lạm phát, tăng trưởng bền
vững và tạo được việc làm. Các NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

6

việc thực hiện các chính sách này, chúng được sử dụng như một kênh mà qua
đó lượng tiền cung ứng được tăng lên hoặc giảm đi nhằm thực hiện những mục
tiêu trên.


Trung gian thanh toán: Với mục đích phục vụ khách hàng, ngân hàng đã
đưa ra nhiều hình thức thanh toán hộ khách hàng giá trị của hàng hóa và dịch vụ
thông qua thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… Cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử và cung cấp tiền khi khách hàng cần.
Để hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của các NHTM, về khả năng tạo lợi
nhuận lớn trong quá trình hoạt động của mình chúng ta cùng tìm hiểu về các
hoạt động cơ bản của NHTM, để từ đó làm cơ sở cho việc xem xét cơ chế vận
hành quản lý tài sản có, tài sản nợ của ngân hàng.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng được coi là tổ chức huy động tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân

trong nền kinh tế để tiến hành cho vay kiếm lời. Vì vậy hoạt động chính của
ngân hàng thương mại chủ yếu là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử
dụng vốn:



Hoạt động huy động vốn: Hoạt động tín dụng được coi là hoạt
động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, vì vậy các ngân hàng luôn tìm
mọi cách huy động vốn để cấp tín dụng cho khách hàng. Vốn được huy động từ
mọi tổ chức kinh tế trong xã hội, từ cá nhân tổ chức, hộ gia đình. Như vậy có
thể nói ngân hàng là trung gian tài chính, là cầu nối giữa người đang tạm dư
thừa tiền mặt và người tạm thời thiếu hụt tiền mặt.



Hoạt động sử dụng vốn: Khi ngân hàng huy động vốn, một phần
vốn đó dùng để cho vay, phần khác ngân hàng tiến hành dự trữ bắt buộc theo
quy định của nhà nước, tiến hành đầu tư. Một trong hoạt động sử dụng vốn lớn
nhất trong ngân hàng và đồng thời mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng là
hoạt động tín dụng trong đó bao gồm hoạt động cho vay, bảo lãnh, chiết khấu,
cho thuê. Tiếp đó đến khoản mục đầu tư, thường thì các ngân hàng thường đầu

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

7


tư dưới dạng chứng khoán quỹ, để vừa đảm bảo khả năng thanh khoản, vừa sinh
lời cho ngân hàng, đồng thời còn tiến hành kinh doanh ngoại tệ mạnh.


Hoạt động khác: Ngoài hai hoạt động chủ yếu trên ngân hàng còn
thực hiện các hoạt động khác như: quản lý ngân quỹ, bảo quản vật có giá, cung
cấp dịch vụ bảo hiểm, ủy thác, môi giới đầu tư chứng khoán…
Như vậy sau khi tìm hiểu khái quát về các hoạt động cơ bản của NHTM, ta
nhận thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất trong ngân hàng,
đồng thời cũng là hoạt động mang lại nhiều thu nhập cho ngân hàng, các ngân
hàng luôn muốn mở rộng hoạt động này. Trong hoạt động tín dụng thì hoạt
động cho vay doanh nghiệp là hoạt động chính yếu, nó chiếm tỷ lệ cao trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. Để hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay doanh
nghiệp sau đây chúng ta cùng tìm hiểu khái quát về hoạt động này.
1.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
Có thể nói cho vay doanh nghiệp là hoạt động quan trọng nhất trong hoạt
động của NHTM, vì vậy chúng ta cần tìm hiểu rõ về hoạt động này tại ngân
hàng thương mại.
Có thể hiểu cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ
chức tín dụng giao cho doanh nghiệp một khoản tiền để sử dụng vào mục đích
và thời hạn nhất định theo thỏa thuận và nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay, thời hạn này là khoảng
thời gian được tính từ khi doanh nghiệp bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời
điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
giữa tổ chức tín dụng và doanh nghiệp. Dựa vào thời hạn, cho vay doanh
nghiệp có thể chia thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.




Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp



8

Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ 12
tháng đến 60 tháng.



Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên
60 tháng trở lên.
Ngân hàng chỉ cho vay với khách hàng khi đảm bảo thực hiện hai nguyên tắc
sau:

 Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
 Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Mặc dù cho vay ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải đảm bảo thực hiện hai
nguyên tắc trên, tuy nhiên trong thực tế ít khách hàng có thể tuân thủ hai

nguyên tắc trên. Do vậy để giúp cho việc đảm bảo các nguyên tắc trên, ngân
hàng chỉ xem xét cho vay khi khách hàng thỏa mãn một số điều kiện vay nhất
định. Các điều kiện vay vốn:
 Có năng lực pháp lý dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật.
 Có mục đích vay vốn hợp pháp.
 Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
 Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
 Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và
hướng dẫn của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
 Các điều kiện khác.
Theo cuốn giáo trình “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter. S.
Rose hiện nay có thể phân loại cho vay theo doanh nghiệp thành các hình thức
cho vay sau đây:
Các khoản cho vay doanh nghiệp ngắn hạn bao gồm:
 Cho vay vốn lưu động.
 Cho vay mua hàng dự trữ.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

9

 Cho vay ngắn hạn xây dựng các công trình.
 Cho vay kinh doanh bán lẻ.
 Cho vay trên tài sản.

Dựa vào mục đích vay vốn có các khoản cho vay doanh nghiệp trung và
dài hạn bao gồm:
 Cho vay kì hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
 Cho vay theo dự án dài hạn.
* Cho vay mua hàng dự trữ
Khoản cho vay này chủ yếu là tài trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp, khi
doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị trường trong tương lai gần, mà thời
điểm hiện tại hàng hóa mà họ dự trữ không đáp ứng được cho nhu cầu thị
trường, thì họ sẽ tiến hành vay ngắn hạn ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu của
họ. Các khoản cho vay này chủ yếu được tài trợ cho việc mua nguyên vật liệu
dự trữ hoặc hàng hóa thành phẩm. Các khoản cho vay trên tận dụng chu kì tiền
mặt trong một doanh nghiệp như sau:
 Tiền mặt bao gồm cả tiền vay ngân hàng chỉ được dùng để mua dự trữ nguyên
nhiên vật liệu, bán thành phẩm hoặc thành phẩm.


Hàng hóa được sản xuất để bán hoặc dự trữ.



Hàng đã bán (thường là bán chịu).



Tiền mặt thu về được dùng để trả nợ cho các khoản vay của
ngân hàng.
Thông thường kì hạn của khoản tín dụng này tính từ khi doanh nghiệp cần
vốn đáp ứng nhu cầu ngắn hạn của mình, kết thúc khi doanh nghiệp thu được
tiền hàng và nhập ngay vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
* Cho vay vốn lưu động

Thông thường các khoản vay này chủ yếu dùng tài trợ ngắn hạn cho nhu
cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp, nó có thời hạn từ vài ngày cho tới một
năm. Nó thường được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc thế chấp bằng

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

10

hàng tồn kho và khách hàng phải chịu lãi suất thả nổi trên số tiền thực tế họ đã
sử dụng, lệ phí được tính trên phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng đôi
khi nó được tính trên toàn bộ phần hạn mức. Ngân hàng dựa trên hạn mức tín
dụng của doanh nghiệp mà yêu cầu doanh nghiệp phải có số dư tài khoản tiền
gửi phù hợp tại ngân hàng để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
* Cho vay ngắn hạn xây dựng các công trình xây dựng
Mặc dù xây dựng một công trình là một dự án mang tính chất dài hạn cần
được đầu tư dài hạn, nhưng ngân hàng lại chấp nhận cho vay ngắn hạn. Khoản
cho vay ngắn hạn này chỉ được thực hiện khi bên thi công chắc chắn có được
một cam kết cho vay thế chấp để tài trợ dài hạn cho dự án sau khi kết thúc giai
đoạn xây dựng khi đó ngân hàng mới chấp nhận giải ngân vốn cho vay ngắn
hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn này nhằm mục đích cung cấp cho bên thi
công để thuê nhân công, mua nguyên vật liệu xây dựng, thuê thiết bị xây dựng
và thiết kế mặt bằng. Khi giai đoạn thi công kết thúc bên thi công tiến hành vay
thế chấp dài hạn các tổ chức tín dụng khác để thanh toán tiền vay ngắn hạn cho
ngân hàng.
* Cho vay kinh doanh bán lẻ

Để hỗ trợ cho việc tiêu dùng các sản phẩm lâu bền, xe máy, đồ dùng gia
đình, nội thất, ngân hàng thường chấp nhận cho vay trả góp bằng cách tài trợ
cho các khoản phải thu mà người bán những sản phẩm này sẽ nhận được sau
khi kí hợp đồng bán hàng trả góp, hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của
người bán lẻ xem xét, nếu đáp ứng được các yêu cầu tín dụng ngân hàng sẽ mua
những hợp đồng này với một mức lãi suất tùy theo chất lượng tín dụng của
khoản vay, tùy theo chất lượng của tài sản thế chấp, thời hạn của các khoản vay.
Đối với các khách hàng vay để mua ô tô, xe máy, các hàng hóa lâu bền
khác thì ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ có thể yêu cầu hãng
sản xuất chuyển hàng. Thời hạn của khoản vay này có thể là một tháng hoặc vài
tháng. Để được cấp khoản tín dụng này người bán lẻ phải kí hợp đồng đảm bảo

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

11

an toàn cho phép ngân hàng sở hữu sản phẩm này khi họ không có khả năng trả
nợ. Sau đó nhà sản xuất có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và chuyển hóa
đơn thanh toán cho ngân hàng, định kì ngân hàng sẽ tiến hành xem xét tình hình
bán hàng của người bán lẻ và kiểm tra số hàng đã bán và số hàng lưu kho, và
người bán lẻ phải có trách nhiệm thanh toán dần nợ cho ngân hàng dựa trên số
hàng đã bán được.
* Cho vay trên tài sản
Đây là khoản cho vay ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong khoản cho vay
ngắn hạn của ngân hàng, các khoản cho vay chủ yếu có thể dựa vào các tài sản

có khả năng chuyển đổi trong nay mai như: Hàng tồn kho, khoản phải thu,
nguyên vật liệu hoặc thành phẩm. Các tài sản này được dùng làm vật đảm bảo
tuy nhiên quyền sở hữu vẫn thuộc khách hàng để đảm bảo quá trình sản xuất
kinh doanh của khách hàng không bị gián đoạn, tuy nhiên khi khách hàng
không trả được nợ đúng hạn thì ngay lập tức khoản đảm bảo này lại thuộc về
ngân hàng.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng
Với những doanh nghiệp có nhu cầu vay mượn thường xuyên thì đây là
một loại hình lý tưởng. Theo đó ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho doanh
nghiệp theo hạn mức cho sẵn, hạn mức có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì, được
cấp dựa trên cơ sở sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn, nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ
cho doanh nghiệp, khi doanh nghiệp có thu nhập ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ,
do đó tạo chủ động trong quản lý ngân quỹ cho ngân hàng. Tuy nhiên loại hình
cho vay này cũng có hạn chế đó là ngân hàng không kiểm soát được việc sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
* Cho vay kì hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác
Các khoản cho vay này thường dùng tài trợ trung và dài hạn để mua thiết
bị, hoặc xây dựng các công trình. Thông thường doanh nghiệp yêu cầu được

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

12

vay chọn gói dựa trên khoản chi phí dự tính của dự án đề xuất và cam kết thanh

toán nhiều lần dựa trên dự tính về dòng thu nhập tương lai của doanh nghiệp, kế
hoạch thanh toán được xây dựng phù hợp với chu trình chu chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn tồn tại những thời điểm mà doanh nghiệp thiếu
hụt tiền mặt, không có khả năng thanh toán đúng hạn cho doanh nghiêp. Các
khoản vay này yêu cầu phải có đảm bảo bằng tài sản cố định, nên lãi suất khoản
cho vay này thường lớn, và kéo theo đó rủi ro với ngân hàng cũng lớn.
* Cho vay theo dự án dài hạn
Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn cho doanh nghiệp, khi doanh
nghiệp có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện dự án
nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cũng yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp cho mình dự án của họ, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích dự
án, xem xét tính khả thi của dự án từ đó đưa ra quyết định phần vốn cho vay và
xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng gồm nhiều
mục như: Phân tích thị trường nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, qui trình
sản xuất, phân tích tài chính….trong đó đối với ngân hàng phân tích tài chính
được coi là mục tiêu quan trọng hàng đầu của ngân hàng. Một dư án có tình
hình tài chính mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay để
thực hiện dự án.
Nhu cầu đầu

Nhu cầu đầu tư

tư theo dự án

vào tài sản cố định

+

Nhu cầu đầu tư vào
tài sản lưu động


Các nhu cầu này được tính dựa trên tổng hợp các chi phí về xây dựng, giải
phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị…và các tài sản lưu động dự trữ cần
thiết để bắt đầu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi tài trợ cho dự án
ngân hàng thường dựa vào các yếu tố sau:
 Qui mô và thời hạn của mỗi nguồn.
 Tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận được nguồn.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

13

Các nguồn tài trợ đều gắn với những điều kiện nhất định, nếu ngân hàng là
người cấp tín dụng duy nhất cho dự án thì rủi ro với ngân hàng là rất cao, vì vậy
việc có nhiều bên tham gia sẽ san sẻ bớt rủi ro cho ngân hàng, song lại đòi hỏi
ngân hàng phải phân tích kĩ các nguồn và chủ tài trợ.
Như vậy sau khi tìm hiểu tổng quan về NHTM cho chúng ta cái nhìn
chung nhất về hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, về vai trò của
chúng trong nền kinh tế, cũng như cho chúng ta biết được một cách sơ lược về
quy trình, cách phân loại cho vay doanh nghiệp tại NHTM. Mục đích cuối cùng
của NHTM là an toàn và sinh lời vì vậy các NHTM phải tìm cách nâng cao chất
lượng tín dụng.
Đặc điểm cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
Từ cách phân loại cho vay doanh nghiệp trên ta có thể thấy được đặc điểm cho
vay doanh nghiệp, tùy vào loại hình cho vay doanh nghiệp mà có thể khái quát

lên đặc điểm của cho vay doanh nghiệp.
* Đối với cho vay ngắn hạn:
 Có thời hạn vay vốn ngắn, thường để tài trợ cho nhu cầu vốn ngắn hạn cho
doanh nghiệp, tài trợ cho những nhu cầu kinh doanh mang tính thời vụ, khi nào
thiếu hụt sẽ sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng, sự thiếu hụt vốn
ngắn hạn của doanh nghiệp có thể do sự chênh lệch về thời gian và doanh số
giữa tiền thu bán hàng và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia
tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến thời vụ.
 Rui ro với ngân hàng là thấp, vì do tính chất của khoản vay là ngắn hạn.
 Với khoản cho vay ngắn hạn này của ngân hàng có thể tài trợ cho doanh nghiệp,
giúp họ vượt qua khó khăn trong kinh doanh.
* Đối với cho vay trung và dài hạn
 Thời hạn cho vay dài, doanh nghiệp thường vay với mục đích mua sắm trang
thiết bị máy móc, nhà xưởng, đầu tư cho dự án của doanh nghiệp.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

14

 Khoản cho vay này có rủi ro cao, khả năng mất vốn lớn, nếu ngân hàng thẩm
định tài sản thế chấp không tốt, cho vay vượt quá tài sản đảm bảo của doanh
nghiệp.
 Đối với khoản cho vay mà số tiền vay lớn hơn nhiều so với quy mô vốn của
ngân hàng, thì ngân hàng thường cho vay theo hình thức hợp vốn với ngân hàng
khác, tuy nhiên yêu cầu kiểm soát vốn tốt, linh hoạt.

 Khoản cho vay này thường lớn vì vậy công tác giám sát sau khi giải ngân của
ngân hàng phải tốt, linh hoạt.
Trên đây là khái quát về cho vay doanh nghiệp, cũng như đặc điểm cho
vay doanh nghiệp, cách phân loại cho vay doanh nghiệp. Tuy nhiên để giảm
thiểu rủi ro tín dụng thì ngân hàng thương mại cần tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình cho vay cơ bản theo quy định của ngân hàng nhà nước.
1.2.2. Quy trình cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
Trong các quan hệ giao dịch trong kinh doanh luôn tồn tại rủi ro bất chắc
xảy ra do các bên tham gia không hiểu rõ về nhau, trong quan hệ tín dụng cũng
vậy khi thông tin ngân hàng thu thập được về khách hàng không đầy đủ và
chính xác sẽ là cơ sở dẫn tới hình thành rủi ro tín dụng. Để giải quyết vần đề
này, các ngân hàng thường xây dựng một quy chế cho vay chung, mô tả chi tiết
toàn quy trình tín dụng. Một quy trình tín dụng được xây dựng luôn hướng tới
ba mục tiêu đó là:


Lợi nhuận của ngân hàng.



An toàn ít rủi ro (thanh khoản).



Sự lành mạnh của các khoản tín dụng.
Việc xây dựng một quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý nhằm giảm thiểu rủi ro, nâng cao doanh lợi. Về mặt thời
gian, quy trình tín dụng được chia làm ba giai đoạn: trước khi cấp tìn dụng,
trong khi cấp tín dụng, sau khi cấp tín dụng. Tuy nhiên, về mặt tác nghiệp quy
trình tín dụng được chia thành các bước cụ thể sau:


Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

15

(1) Lập hồ sơ đề nghị cấp vốn vay: Về mặt kinh tế trong giai đoạn này
quan hệ tín dụng chưa phát sinh, nhưng đây là giai đoạn quan trọng vì những
thông tin thu thập được trong giai đoạn này rất cần thiết cho việc phân tích,
đánh giá khách hàng. Điều quan trọng trong bước lập hồ sơ này là ngân hàng
phải hướng dẫn khách hàng lập đúng và cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết
cho ngân hàng như:


Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng.



Tài liệu chứng minh năng lực sử dụng vốn, và khả năng hoàn trả
của khách hàng.



Những tài liệu liên quan đến đảm bảo tín dụng hoặc những điều
kiện cấp tín dụng đặc thù như cho vay tín chấp.




Đơn đề nghị cấp tín dụng của khách hàng.
(2) Phân tích tín dụng: Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và
tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả
năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định
khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn trả cả gốc và lãi, phù hợp
với hợp đồng tín dụng. Đồng thời tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi
ro tín dụng cho ngân hàng, đồng thời tiên lượng khả năng kiểm soát những loại
rủi ro đó và dự kiến các biện pháp kiểm soát những loại rủi ro đó.
Về cơ bản quy trình phân tích tín dụng đều giống nhau giữa các ngân hàng
và thường xem xét tới các yếu tố sau



Năng lực vay nợ: Năng lực vay nợ là điều tối quan trọng khi tiến
hành phân tích tín dụng khách hàng, sở dĩ ngân hàng phải xác định năng lực
vay nợ của khách hàng vì khi đó ngân hàng xác định quyền đòi nợ hợp pháp
của mình với người đứng ra vay nợ, tư cách của người đứng ra vay nợ (nếu như
trong một tổ chức) cũng được xem xét cụ thể. Ngân hàng có thể không xét cho
vay trong trường hợp khách hàng không ưu tiên quyền đòi nợ của ngân hàng
trước, trong trường hợp khách hàng phá sản. Ngân hàng chỉ cho công ty vay với

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp


16

điều kiện là khách hàng và các cổ đông khác của công ty cho phép ngân hàng
được quyền đòi nợ trước khi công ty đó phá sản


Uy tín: Uy tín thường là yếu tố quan trọng trong việc xác định sự
sẵn lòng trả nợ của bên vay, uy tín được thể hiện rõ trong các hồ sơ quá khứ của
người xin vay.



Tài sản thế chấp: Trong bất kì một hợp đồng tín dụng nào tài sản
thế chấp được coi là khoản mục quan trọng, tín dụng được cấp khi người vay
đáp ứng đủ các tài sản thế chấp theo quy định của ngân hàng. Giá trị thực của
công ty (chủ yếu là vốn chủ sở hữu) được coi là thước đo sức mạnh tài chính
của khách hàng, quyết định tới khối lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho
khách hàng. Tài sản thế chấp sẽ đảm bảo cho ngân hàng trong trường hợp
khách hàng không có khả năng trả nợ, tuy nhiên ngân hàng luôn mong muốn
khách hàng có thể trả gốc và lãi cho mình bằng chính nguồn thu nhập của họ.



Khả năng sinh lời: Đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc
phân tích tín dụng khách hàng, vì chủ yếu nguồn trả lãi và nợ gốc được lấy từ
lợi nhuận, vì vậy khi phân tích tín dụng ngân hàng cần xem xét kĩ khả năng sinh
lời của khách hàng. Đối với cá nhân khả năng tạo ra lợi nhuận chủ yếu dựa vào
sức khỏe, giáo dục, năng lực…Đối với hãng kinh doanh khả năng tạo ra lợi
nhuận chủ yếu dựa vào doanh thu, chi phí...Vì vậy khi xem xét tới khả năng
sinh lời ngân hàng cần xem xét đầy đủ các yếu tố liên quan.




Một số điều kiện khác: Đó là điều kiện khách quan của nền kinh
tế, nhưng chúng nằm ngoài sự kiểm soát của người vay và người đi vay. Có thể
khách hàng có khả năng sinh lời cao, uy tín tốt, nhưng do điều kiện kinh tế bất
lợi gây thiệt hại cho khách hàng, dẫn tới ngân hàng cũng gặp rủi ro. Vì vậy
trong quá trình hoạt động, nhân viên tín dụng ngân hàng cần tìm hiểu đầy đủ
thông tin về sự biến động của kinh tế cũng như ngành kinh doanh của khách
hàng để từ đó có biện pháp trích lập dự phòng kịp thời, khắc phục tổn thất xẩy
ra.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

17

Trong quá trình phân tích tín dụng ngân hàng cần chú ý phân tích tình hình
tài chính của khách hàng, thông qua các báo cáo tài chính của khách hàng ngân
hàng tiến hành phân tích, tuy nhiên trước khi phân tích ngân hàng cần sàng lọc
kỹ những thông tin mà khách hàng cung cấp vì những thông tin trong quá khứ
không hoàn toàn tin cậy cho dự báo trong tương lai. Giá trị của các báo cáo tài
chính giúp đánh giá hợp lý các dự báo ngân quỹ và lợi nhuận của người vay.
Một trong những phương pháp phân tích tài chình là xem xét từng khoản mục
trên báo cáo tài chính, hơn nữa ngân hàng có thể phân tích tài chính của khách
hàng thông qua các chỉ tiêu tài chính, vì dựa trên việc phân tích các chỉ tiêu tài

chính ngân hàng có thể biết được:


Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các trái khoán khi đền hạn
hay không.



Các khoản phải thu và hàng tồn kho của khách hàng có tính thanh
khoản cao hay không, có đủ đáp ứng yêu cầu của thị trường hay không.



Lợi nhuận của doanh nghiệp có thể đạt được bao nhiêu khi không
đảm bảo thanh toán được các khoản chi phí cố định.



Nếu doanh nghiệp thua lỗ tài sản của doanh nghiệp có thể sụt
giảm bao nhiêu so với giá trị sổ sách.



Tình hình tài chính của công ty là vững vàng hay yếu kém.
Thông thường có bốn chỉ tiêu thường được sử dụng trong phân tích tài
chính bao gồm: nhóm chỉ tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu hoạt động, khả năng
sinh lời, nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mỗi một chỉ tiêu
phản ánh một khía cạnh tình hình tài chính doanh nghiệp, qua hệ thống các chỉ
tiêu đó tình hình tài chính doanh nghiệp được phản ánh một cách rõ nét.
(3) Quyết định tín dụng: Đây là khâu cực kỳ quan trọng, nó sẽ quyết định

hoặc từ chối cho khách hàng vay vốn. Sau khi quá trình phân tích tín dụng kết
thúc bộ phận phân tích tín dụng chuyển tờ trình cho vay cùng biên bản thẩm
định, ngân hàng đứng trước quyết định có cho vay hay không. Cơ sở để ra

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

18

quyết định tín dụng là dựa vào thông tin thu thập và xử lý từ hồ sơ tín dụng
trước chuyển sang, và những thông tin thu thập khách có liên quan. Tùy thuộc
vào quy mô vốn vay khách nhau mà quyền phán quyết tín dụng là khác nhau,
thông thường quyền phán quyết được trao cho một hội đồng tín dụng hay một
cá nhân phụ trách. Hội đồng tín dụng bao gồm những người có quyền hạn và
trách nhiệm quan trọng trong ngân hàng, thường phán quyết những hồ sơ vay
vốn có qui mô lớn, trong khi quyền phán quyết các hồ sơ vay có qui mô nhỏ
thường được trao cho cá nhân trụ trách. Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả
có thể là chấp nhận hoặc từ chối cho vay.


Nếu chấp nhận cho vay thì ngân hàng tiến hàng kí kết hợp đồng
tín dụng với khách hàng chính thức hình thành quan hệ tín dụng về mặt pháp lý.



Nếu từ chối cho vay thì phải có văn bản thông báo cho khách

hàng, và phải nêu rõ lý ro từ chối, đại diện cấp tín dụng phải ghi rõ ý kiến của
mình lên giấy đề nghị cấp tín dụng của khách hàng.
(4) Giải ngân: Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng
được ký kết, giải ngân là phát tiền vay cho khách trên trên cơ sở mức tín dụng
đã cam kết trong hợp đồng. Khi thực hiện giải ngân, nhân viên ngân hàng cần
luôn chú ý tới nguyên tắc tiền chi ra phải có hàng hóa đối ứng đi vào và tiền
vay sử dụng hợp với mục đích vay trong hợp đồng, tùy vào hình thức và quy
mô của món vay mà ngân hàng áp dụng giải ngân theo hình thức



Giải ngân một lần: Món vay thường được giải ngân một lần,
phương thức này thương áp dụng cho những món vay nhỏ, thời hạn ngắn.



Giải ngân nhiều lần: Tiền vay theo hạn mức tín dụng được phát
cho khách hàng làm nhiều lần, thường áp dụng cho những món vay lớn thời hạn
dài hoặc việc sử dụng vốn của khách hàng mang tính chất phức tạp, thông qua
giải ngân mới có thể giám sát được việc thực hiện của khách hàng.
(5) Giám sát tín dụng: Được thực hiện khi khách hàng bắt đầu giải ngân,
nhằm đảm bảo cho khoản vay được khách hàng sử dụng đúng với mục đích như

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp


19

trong hợp đồng tín dụng của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng kiểm soát
rủi ro tín dụng, phát hiện và chấm dứt kịp thời những sai pham có thể ảnh
hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Ngân hàng có thể thực hiện nhiều cách
giám sát khách hàng như:


Giám sát trực tiếp: Tức ngân hàng trực tiếp tới địa điểm kinh
doanh của khách hàng thăm hoặc tới nơi cu ngụ của khách hàng đứng tên vay
vốn để kiểm tra.



Giám sát gián tiếp: Ngân hàng có thể thực hiện theo dõi khách
hàng thông qua giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng,
phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kì, giám sát khách
hàng thông qua việc trả lại của khách hàng, kiểm tra các hình thức đảm bảo
tiền vay, giám sát hoạt động thông qua mối quan hệ với khách hàng khác, thông
qua thông tin thu thập khác.
(6) Thanh lý hợp đồng tín dụng: Đây là khâu kết thúc của qui trình
tín dụng. Khâu này bao gồm:

 Thu nợ cả gốc và lãi: Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ gốc và lãi của khách hàng
theo phương thức thu nợ gốc và lãi trong hợp đồng tín dụng. Khi khách hàng
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán nợ với ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến
hành làm thủ tục hoàn trả lại tài sản đảm bảo tiền vay cho khách hàng. Trong
trường hợp khách hàng không trả đủ nợ, ngân hàng tiến hành chuyển nợ quá
hạn, còn trong trường hợp ngân hàng xét thấy vì lý do khách quan chính đáng
nào đó mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng tiến hành gia

hạn nợ cho khách hàng.
 Tái xét hợp đồng tín dụng: Là việc đánh giá phân loại lại khách hàng dựa trên
kết quả của việc giám sát. Việc tái xét khách hàng thường nhằm vào mục tiêu
phát hiện, ngăn ngừa những rủi ro liên quan đến việc khách hàng suy yếu trong
năng lực trả nợ.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

20

 Xử lý nợ có vấn đề và thanh lý hợp đồng tín dụng: Những khoản nợ quá hạn
ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá khả năng và mức độ thu hồi, tùy vào từng
trường hợp cụ thể ngân hàng có những cách xử lý khác nhau. Những khoản nợ
quá hạn sau khi được xử lý sẽ được thanh lý để chấm dứt sự tồn tại của hợp
đồng.
Trên đây là quy trình cho vay đối với doanh nghiệp, như chúng ta đã biết
cho vay là một trong hoạt động tín dụng quan trọng trong ngân hàng. NHTM rất
quan tâm tới hình thức cho vay vì đây không phải chỉ là hình thức kinh doanh
chủ yếu đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà giúp doanh nghiệp có thể bù
đắp những khoản chi phí vốn huy động, mà còn thể hiện rõ nhất chức năng của
một định chế tài chính phân biệt với các tổ chức phi ngân hàng khác.
1.3. Chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương
mại
Như chúng ta đã biết ngân hàng là tổ chức tài chính kinh doanh trong

lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế
đều kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, tuy nhiên trong lĩnh vực ngân hàng người
ta còn xem xét tới mục tiêu an toàn. Vì vậy để tạo ra khả năng sinh lời cao, các
NHTM cũng như các doanh nghiệp phải không ngừng cải thiện, nâng cao chất
lượng sản phẩm của mình. Trong ngân hàng sản phẩm mà họ cung cấp là các
loại hình dịch vụ như dịch vụ tín dụng, huy động tiền gửi, dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ đại lý. Tuy nhiên dịch vụ tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng
70% - 80% tổng lợi nhuận của ngân hàng, trong dịch vụ tín dụng ngân hàng cho
vay doanh nghiệp là một trong những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho
ngân hàng, vì vậy yêu cầu nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp là đòi hỏi
tất yếu của quá trình phát triển, chất lượng cho vay doanh nghiệp không còn là
sự lựa chọn nữa mà là yếu tố quyết định sự sống còn của ngân hàng. Đồng
nghĩa với việc nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp là sự thỏa mãn ngày

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

21

càng gia tăng của khách hàng, khi đó tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao vị
thế của mình trong hệ thống NHTM.
Chất lượng cho vay doanh nghiệp là một khái niệm khó có thể đạt được,
nó là tổng hợp của nhiều yếu tố cấu thành nên. Nhưng trước tiên để hiểu thế nào
là chất lượng cho vay doanh nghiệp thì trước hết chúng ta phải hiểu rõ thế nào
là chất lượng. Hiện nay quan niệm thế nào là một sản phẩm có chất lượng, cũng
như một khoản cho vay có chất lượng có nhiều ý kiến khác nhau, tùy vào góc

độ của người quan sát mà đưa ra ý kiến khác nhau. Cũng giống như khi bàn về
thế nào là một chiếc đồng hồ có chất lượng: Có người cho rằng miễm nó chính
xác là đủ, nhưng có người cho rằng phải hiện đại nữa mới là chất lượng, người
khác thì nói rằng nó phải thật bền, chịu va chạm, chịu nước, người lại thích
đồng hồ sang trọng, đắt tiền… Nhìn chung ở các giác độ khác nhau người ta có
quan niệm khác nhau về chất lượng. Cũng như chiếc đồng hồ đó, trong lĩnh vực
ngân hàng, dịch vụ cho vay được coi là có chất lượng tốt nếu:
 Trên giác độ ngân hàng
Chất lượng khoản vay đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đề ra, đem
lại lợi nhuận cao, an toàn cho ngân hàng. Khi cho vay điều mà ngân hàng quan
tâm tới là nó phải đảm bảo an toàn, khách hàng vay vốn sử dụng đúng mục đích
như trong hợp đồng tín dụng, hoàn trả đủ gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp. Và chất lượng được so sánh
với đối thủ cạnh tranh đi kèm với chi phí và giá cả.
 Trên giác độ của khách hàng
Dịch vụ cho vay của ngân hàng đó là tốt nếu nó đảm bảo được vốn cho
quá trình sản xuất kinh doanh của mình, thủ tục đơn giản gọn nhẹ tiết kiệm thời
gian và tiền bạc, lãi suất và thời hạn hợp lý, có kỳ hạn thu nợ hợp lý.
Như vậy có thể đưa ra một số khái niệm về chất lượng như sau:
(1) Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814 – 1994 phù hợp với ISO/DIS
8402 quan niệm: “Chất lượng là tập hợp những đặc tính của một thực thể tạo

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

22


cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm
ẩn”.
(2) “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu” Philip Crosby.
(3) “Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với yêu cầu của người tiêu
dùng” European Organization for Quality Control.
Xét trên phương diện trên ta thấy chất lượng được đo bằng sự thỏa mãn
nhu cầu, nếu một sản phẩm nào đó không đáp ứng được nhu cầu, không được
thị trường chất nhận thì bị coi là chất lượng kém. Tuy nhiên nhu cầu luôn luôn
biến động theo thời gian, nên chất lượng cũng luôn biến động theo thời gian,
không gian, điều kiện sử dụng, chất lượng phải gắn với người tiêu dùng. Trong
nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua lại sản phẩm để bán
ra thị trường cho người tiêu dùng, chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận chất
lượng sản phẩm dưới quan điểm của người tiêu dùng, phải nắm bắt đầy đủ quan
niệm của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Vì vậy dưới giác độ của
người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm được xem xét dưới khía cạnh sau:
 Chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng chi phí, người tiêu dùng không chấp
nhận mua một sản phẩm với bất kì giá nào.
 Chất lượng sản phẩm tập hợp các tiêu chí các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ
thuật hay tính hữu ích của nó.
 Chất lượng sản phẩm phải được gắn với điều kiện tiêu dùng cụ thể của nhu
cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội, phong tục tập quán.
Dựa trên những khía cạnh trên có thể hiểu chất lượng sản phẩm như sau:
“chất lượng sản phẩm là tập hợp những chỉ tiêu những đặc trưng của sản
phẩm thể hiện mức thỏa mãn những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng
nhất định”.
Trên giác độ nhân viên tín dụng của ngân hàng có thể định nghĩa chất
lượng cho vay doanh nghiệp như sau: “chất lượng cho vay doanh nghiệp là tập
hợp các chỉ tiêu phản ánh sự thỏa mãn nhu cầu của doanh nghiệp khi sử dụng


Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

23

dịch vụ của ngân hàng phù hợp với quy chế tín dụng và đảm bảo thu hồi đủ gốc
và lãi vay theo thời gian quy định”
Như vậy có thể nói chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa là một khái
niệm cụ thể, vừa trừu tượng và là một chỉ tiêu tổng hợp giúp cho ngân hàng làm
cơ sở để cải thiện hoạt động của mình. Trong quá trình hoạt động để nâng cao
năng lực cạnh tranh thì các NHTM phải luôn luôn bán sát nhu cầu của khách
hàng, tìm hiểu đánh giá ý kiến của khách hàng về dịch vụ mà mình cung cấp,
đồng thời tìm hiểu những mặt tồn tại, cũng như những nguyên nhân của những
khoản cho vay có chất lượng xấu để từ đó đưa ra biện pháp khắc phục kịp thời.
Hiện nay để đánh giá tốt chất lượng tín dụng nói chung, hay chất lượng
cho vay doanh nghiệp nói riêng thì các ngân hàng thường dùng các chỉ tiêu cả
định tính, định lượng để đánh giá chất lượng tín dụng của các khoản vay vốn.
Hiện nay các ngân hàng thương mại thường dùng các chỉ tiêu sau để đánh giá
chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng
thương mại
* Mức độ hài lòng của khách hàng
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thỏa mãn của khách hàng khi sử dụng dịch
vụ do ngân hàng cung cấp, cụ thể đây là dịch vụ cho vay. Chỉ tiêu này phản ánh
thông qua phong cách phục vụ khách hàng của ngân hàng, cách tiếp đón khách
hàng, quy trình tiến hành thẩm định khoản vay vốn của ngân hàng có nhanh

chóng hay không, các điều kiện vay vốn ngân hàng đưa ra có khắt khe không,
có quyết định giải ngân đúng theo hợp đồng vay vốn của khách hàng hay
không. Khách hàng có sử dụng thêm dịch vụ khác của ngân hàng hay không,
sau khi hoàn tất khoản vay khách hàng có tiếp tục quan hệ với ngân hàng hay
không. Tất cả điều này tạo lên sự tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng, thể
hiện mức độ hài lòng của mình về ngân hàng.

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

24

* Chỉ tiêu doanh số cho vay doanh nghiệp
Doanh số cho vay doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh số tiền ngân hàng
đã giải ngân cho doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Mức tăng trưởng
doanh số cho vay doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định là một chỉ tiêu tốt
để đánh giá chất lượng cho vay. Doanh số cho vay doanh nghiệp phản ánh quy
mô cho vay doanh nghiệp của ngân hàng đang được mở rộng hay thu hẹp trong
một thời kỳ nhất định. Tùy vào chủ trương của NHTM, chính sách khuyến
khích phát triển của nhà nước đối với các doanh nghiệp, cũng như giới hạn cho
vay của ngân hàng nhà nước (NHNN) mà các NHTM có thể tiến hành cho vay
với các mức khác nhau theo quy định, điều này ảnh hưởng lớn tới doanh số cho
vay doanh nghiệp của NHTM. Để biết được mức giới hạn an toàn cho khoản
cho vay doanh nghiệp của NHTM, thì phải dựa vào nhiều tiêu chí khác để đánh
giá chỉ tiêu này bao nhiêu là tốt như quy trình thẩm định tín dụng của ngân
hàng, quy mô vốn của ngân hàng… Nhưng thông thường trong NHTM hoạt

động cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, nên các ngân hàng thường
mong muốn doanh số này càng cao càng tốt.
Doanh số cho vay tăng hay giảm dựa vào nhiều yếu tố một trong các yếu
tố đó là:
 Số lượng doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng, nếu trong kì nhiều
doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng và thỏa mãn các điều kiện của
ngân hàng thì sẽ được ngân hàng giải ngân cho vay.
 Quy mô vốn tự có của ngân hàng: Theo quy định của NHNN tổng dư nợ cho
vay với một doanh nghiệp đối với ngân hàng không được vượt quá 15% vốn tự
có, vì vậy để doanh số cho vay tăng thì quy mô vốn của ngân hàng phải đủ lớn.
 Ngoài ra còn phụ thuộc nhiều vào quy định của NHNN trong từng thời kì khác
nhau, như trước tình hình hiện nay lạm phát đang leo thang cao NHNN có quy

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A


Khoá luận tốt nghiệp

25

định yêu cầu các NHTM phải giảm lượng vốn giải ngân cho nền kinh tế. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ tới doanh số cho vay của các NHTM.
Như vậy doanh số cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, để doanh số cho vay
doanh nghiệp thực sự phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp đòi hỏi cần
phải xem xét tới các yếu tố tác động trên. Tuy nhiên doanh số cho vay tăng
đồng thời lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay doanh nghiệp tăng và tỷ lệ
nợ xấu cho vay doanh nghiệp giảm phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp
tốt, doanh số cho vay doanh nghiệp giảm kéo theo lợi nhuận thu từ cho vay

doanh nghiệp giảm phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp xấu.
* Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp
Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng số tiền mà doanh nghiệp hiện còn nợ ngân
hàng trong một thời điểm xác định. Đây là chỉ tiêu tốt nhất phản ánh quy mô
cho vay doanh nghiệp của ngân hàng, chỉ tiêu này tăng trưởng hàng năm là một
dấu hiệu đáng mừng cho ngân hàng, vì quy mô, thị phần cho vay doanh nghiệp
của ngân hàng đã được mở rộng. Tuy nhiên nếu chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay
doanh nghiệp cao, chưa hẳn phản ánh hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp
cao vì khi đó có thể phản ánh tốc độ tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng,
đôi khi vượt quá khả năng về vốn của ngân hàng và khả năng kiểm soát rủi ro
tín dụng của mình. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay doanh nghiệp cao có thể
là do ngân hàng cho vay với lãi suất thấp so với lãi suất trên thị trường, hi sinh
tỷ suất lợi nhuận để đạt dư nợ cho vay cao. Đây là dấu hiệu không tốt cho ngân
hàng, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng, ngân hàng cần tuân thủ giới hạn
cho vay để đảm bảo an toàn tín dụng, đồng thời thường tính chỉ tiêu dư nợ cho
vay trên tổng nguồn vốn huy động được để đánh giá chính xác chỉ tiêu này:

Hệ số sử dụng vốn vay

=

Tổng dư nợ cho vay DN
Tổng nguồn vốn huy
động

Nguyễn Thị Trang

Tài Chính Doanh Nghiệp 46 A



×