Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Chương i một số vấn đề CHUNG về QUẢN lý NHÀ nước về KINH tế và đối TƯỢNG QUẢN lý của xây DỰNG GIAO THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.72 KB, 7 trang )

PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ ĐỐI
TƯỢNG QUẢN LÝ CỦA XÂY DỰNG GIAO THÔNG
1.1. THỰC CHẤT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Quản lý nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện bằng cơ quan nhà
nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Chính phủ, Bộ (Trung ương) và Uỷ ban nhân dân các cấp (địa
phương) là bộ máy trực tiếp (chủ thể) quản lý hành chính kinh tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế là tác động của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính, tổ chức,
kinh tế và giáo dục tới quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - lưu thông - tiêu dùng) để
đạt được các mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế và công bằng xã hội.
Giao thông vận tải là một ngành kinh tế, một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội - là tư
liệu chung của toàn xã hội, trực tiếp phục vụ lưu thông. Do tính xã hội của GTVT mà cần thiết
phải có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo điều kiện sống, tự do an toàn giao thông của mọi
thành viên trong xã hội. Để can thiệp vào thị trường GTVT, Nhà nước dùng các hình thức:
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát để duy trì ổn định giao thông (kiểm tra tải trọng, kiểm tra
cầu đường), kiểm tra kỹ thuật, hướng dẫn đầu tư, sử dụng phương tiện.
- Có chính sách định giá thích hợp để biến đổi dòng vận tải, giảm tắc nghẽn giao thông trong
đô thị.
- Tiến hành công bố các quy chế, xác định nghĩa vụ của dịch vụ công cộng, có chính sách đỡ
đầu các xí nghiệp quốc doanh, tiến hành phân bổ giao thông, tiến hành đánh giá sử dụng giao
thông.
- Ban hành các quy chế an toàn giao thông.
- Tiến hành thường xuyên việc nghiên cứu kỹ thuật và các hình thức tổ chức mới trong các
hoạt động GTVT.
Tạo ra tiền đề vật chất cho thị trường vận tải hoạt động là nhờ kết quả hoạt động của thị
trường XDGT (một bộ phận của thị trường GTVT). Đó là thị trường hoạt động hết sức phức tạp.
Nhà nước phải can thiệp vào thị trường XDGT nhằm các mục đích:
- Tạo môi trường định hướng vĩ mô phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quản
lý tổng thể mọi hành vi của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị
trường XDGT, tăng cường kiểm tra kiểm soát nhằm loại bỏ các yếu tố phi thị trường, tạo cạnh


tranh lành mạnh trong thị trường XDGT.
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách để định hướng thị trường, đảm bảo các yếu tố
cho thiết lập thị trường.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo thị trường thực sự cạnh tranh lành mạnh.
XDGT
hạ tầng.



ngành

kinh

tế

-

kỹ

thuật

thuộc

lĩnh

vực

kết

cấu


Đối tượng quản lý với XDGT chính là các quan hệ kinh tế (chủ yếu là tổ chức và hoạt động
của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường XDGT như: CĐT -


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
Nhà thầu - Nhà cung cấp - Tư vấn) vận động, phát triển trong nền kinh tế thị trường. Trong
XDGT, có thể tiếp cận đối tượng quản lý theo 2 giác độ: Hoặc đó là tập hợp quá trình tạo ra sản
phẩm, hoặc đó là các chủ thể tham gia vào quá trình đó. Quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý được biểu hiện:
- Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước phải thực hiện hàng loạt các nhiệm vụ: xây dựng,
ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật, kiểm tra, kiểm soát, tiến hành xử lý vi phạm pháp luật
trong mọi quá trình và mọi chủ thể tham gia vào quá trình ĐTXD. Với vai trò đó, nhiệm vụ của
nhà nước là định hướng cho các quan hệ kinh tế (XDGT) hình thành, vận động và phát triển theo
một trật tự nhất định. QLNN cần đặc biệt chú trọng tới các chủ thể tham gia vào TTXDGT phải
đảm bảo tuân thủ các điều kiện; về mặt kỹ thuật là phải có hệ thống tiêu chuẩn.
- Với tư cách là đối tượng quản lý, các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường (các
doanh nghiệp) phải được tổ chức và vận động trên cơ sở các quy định của pháp luật và chịu sự
kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nội dung quản lý Nhà nước
đối với XDGT thực chất là sự tác động của Nhà nước trên cả hai khía cạnh: xét theo quá trình tạo
ra sản phẩm và các chủ thể tham gia vào quá trình đó. Tác động của Nhà nước là nhằm đảm bảo
các điều kiện cần thiết để thực hiện các giai đoạn tuân thủ trình tự lô gíc của xây dựng; còn đối
với các chủ thể kinh doanh là buộc họ thực hiện tốt chức năng, vai trò của mình trong XDGT,
nhằm đạt được các mục tiêu cuối cùng của cả hệ thống xây dựng là: chất lượng tốt, đưa công
trình vào khai thác đúng tiến độ và tiết kiệm vốn đầu tư. Để tăng cường QLNN đối với lĩnh vực
XDCB, trong mấy chục năm qua nhà nước đã không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý XDCB bắt
đầu là ban hành các văn bản pháp quy (từ NĐ 232-CP/1981; NĐ 385-HĐBT/1990; NĐ 177CP/1994; NĐ 42-CP/1996 và NĐ 12-CP; NĐ 52-CP/1999 và NĐ 07-CP/2003), tiến đến là ban
hành Luật Xây dựng có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2004. Đó là quá trình đã gắn bó được hai
hoạt động đầu tư và xây dựng, biểu hiện là chuyển Điều lệ quản lý XDCB thành Điều lệ quản lý
Đầu tư và Xây dựng.

1.2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH PHỦ, BỘ, NGÀNH VÀ UBND ĐỐI VỚI
XDCB NÓI CHUNG VÀ XÂY DỰNG GIAO THÔNG NÓI RIÊNG

QLNN đối với thị trường XDGT do Chính phủ, các bộ chức năng và UBND các cấp trực
tiếp quản lý.
Bộ Kế hoạch Đầu tư có trách nhiệm: Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách về đầu tư, xác
định phương hướng và cơ cấu gọi vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; bảo đảm cân đối đầu tư
rồi trình Chính phủ quyết định.
Cấp giấy phép đầu tư và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân có vốn đầu tư nước ngoài triển khai
công tác chuẩn bị đầu tư theo luật đầu tư và các quy định có liên quan đến điều lệ quản lý đầu tư
xây dựng. Tổ chức thẩm định các loại dự án quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phát triển
ngành, vùng kinh tế trọng điểm để trình Chính phủ xem xét quyết định. Tổng hợp và trình Chính
phủ kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm và 5 năm. Phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
việc thực hiện kế hoạch đầu tư thuộc nguồn vốn do Nhà nước quản lý, đảm bảo để thực hiện kế
hoạch huy động từng phần kết quả đầu tư vào hoạt động. Chủ trì phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ
Thương mại, các bộ có xây dựng chuyên ngành và địa phương kiểm tra thực hiện quy chế đấu
thầu.
Bộ Xây dựng: Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách quản lý xây dựng, quy hoạch đô thị
và nông thôn, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành hoặc được Thủ tướng Chính phủ uỷ
quyền ban hành; ban hành hoặc thoả thuận để các bộ quản lý chuyên ngành ban hành các tiêu chuẩn,
quy trình quy phạm quản lý chất lượng công trình và kinh tế xây dựng (hệ thống các định mức và chỉ
tiêu kinh tế - kỹ thuật xây dựng, giá chuẩn, đơn giá xây dựng), tổ chức thẩm định thiết kế dự toán các
dự án trọng điểm để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thẩm định các dự án nhóm A để bộ quản lý
ngành phê duyệt. Thống nhất QLNN về chất lượng công trình xây dựng, cấp chứng chỉ chứng nhận
năng lực hành nghề của các doanh nghiệp tư vấn và xây lắp. Chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ ngành, địa phương để hướng dẫn và kiểm tra thực hiện điều lệ quản
lý đầu tư xây dựng.

Bộ Tài chính: Trên cơ sở các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, các cân đối chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân, chủ động phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ kế hoạch cấp
phát vốn cho đầu tư phát triển; đồng thời thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các tổ chức, đơn vị có
sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước.
Kho bạc nhà nước: Trực tiếp tổ chức thực hiện cấp vốn đầu tư, cấp và thu hồi vốn tín dụng
ưu đãi của Nhà nước (kể cả các nguồn vốn vay, viện trợ của Chính phủ dành cho đầu tư phát
triển). Quy định quy trình, thủ tục, hồ sơ chứng từ trong quá trình tạm ứng, thanh toán vốn.
Thanh toán vốn kịp thời, đầy đủ cho dự án khi đã có đủ điều kiện. Có ý kiến rõ ràng bằng văn
bản với CĐT về việc từ chối thanh toán, trả lời các thắc mắc của CĐT trong việc thanh toán vốn.
Trường hợp phát hiện quyết định của các cấp có thẩm quyền trái với quy định hiện hành phải có
văn bản đề nghị xem xét lại và nêu ý kiến đề xuất. Nếu quá thời gian quy định mà không được
trả lời thì có quyền giải quyết theo đề xuất của mình. Nếu được trả lời nhưng vẫn không thoả
đáng, có quyền báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền cao hơn để xem xét. Thực hiện chế độ thông
tin báo cáo và quyết toán VĐT theo quy định của luật NSNN và các hướng dẫn của Bộ Tài
chính. Có quyền yêu cầu CĐT cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin theo chế độ quy định để phục vụ
cho công tác kiểm soát thanh toán vốn. Có quyền dừng thanh toán vốn hoặc thu hồi số vốn mà
CĐT sử dụng sai mục đích, không đúng đối tượng hoặc trái với chế độ quản lý tài chính của Nhà
nước, đồng thời báo cáo Bộ Tài chính để xử lý; được quyền từ chối thanh toán vốn của các dự án
mà CĐT không thực hiện nghiêm túc chế độ lập kế hoạch VĐT hàng quý, chế độ báo cáo theo
quy định của Luật Xây dựng và các quy định hiện hành của các luật khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Nghiên cứu chính sách QLNN về tiền tệ - tín dụng trong
đầu tư xây dựng, trình Chính phủ ban hành hoặc được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền ban hành;
hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện huy động vốn để cho vay đầu tư phát triển. Thực hiện
chế độ bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho các nhà thầu Việt Nam khi tham gia


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
đấu thầu quốc tế. Các ngân hàng thương mại tự quyết định cho vay, thu nợ trong quá trình kinh
doanh tiền tệ.
Các Bộ quản lý ngành về đất đai, tài nguyên, công nghệ, môi trường, thương mại, bảo tồn,

bảo tàng di tích, di sản văn hoá, cảnh quan, quốc phòng, an ninh, phòng cháy và chữa cháy: Có
trách nhiệm xem xét và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề có liên quan của dự án đầu tư trong
thời gian quy định, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của người có thẩm quyền quyết định
đầu tư và cho phép đầu tư dự án.
Các Bộ quản lý xây dựng chuyên ngành: Có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể việc thực hiện cơ
chế chính sách xây dựng cho phù hợp với đặc thù của xây dựng chuyên ngành; nghiên cứu và
ban hành theo quy định phân cấp của Chính phủ các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kỹ thuật
xây dựng; xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành để ban hành sau khi thoả thuận
với Bộ Xây dựng.
Bộ GTVT chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý ĐTXD đối với các dự án đầu tư thuộc KCHTGT
thuộc thẩm quyền của Bộ; tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm giám sát đầu tư, giám định chất
lượng công trình thuộc KCHTGT theo quy định của pháp luật. Bộ GTVT quản lý, hướng dẫn cụ
thể việc thực hiện cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển ngành và QLNN các dự án đầu tư thuộc
ngành, đồng thời có quyền kiến nghị đình chỉ đối với hoạt động ĐTXD trái với quy định thuộc
chức năng QLNN của Bộ GTVT. Bộ chịu trách nhiệm hướng dẫn cụ thể việc thực hiện cơ chế
chính sách ĐTXD, nghiên cứu ban hành các văn bản kỹ thuật áp dụng trong ngành. Khuyến khích
các thành phần kinh tế ĐTXD các công trình giao thông phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát
triển GTVT. Bảo đảm xây dựng theo quy hoạch, chất lượng - sử dụng bền vững, hợp mỹ quan, bảo
vệ môi trường sinh thái, áp dụng công nghệ tiên tiến và thực hiện bảo hành công trình. Quản lý sử
dụng các nguồn vốn ĐTXD công trình giao thông do Nhà nước giao cho đạt hiệu quả.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Là cơ quan QLNN có thẩm quyền
chung quản lý tổng thể trên lãnh thổ theo quy định của pháp luật: bảo đảm thực thi các văn bản
pháp luật và nghị quyết của HĐND địa phương. Trong lĩnh vực kinh tế, UBND có thẩm quyền:
- QLNN đối với mọi tổ chức thực hiện DAĐT trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức xây dựng quy hoạch, thực hiện dự án phát triển kinh tế ở địa phương. Các sở quản
lý ngành là cơ quan chuyên môn của UBND giúp UBND trong quản lý ngành, lĩnh vực.
1.3. CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG

Công cụ quản lý là những phương tiện mà chủ thể quản lý dùng để tác động lên các đối

tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Trong QLNN thì quản lý kinh tế là một
dạng hoạt động phức tạp, nó cần đến những công cụ thích hợp để quản lý toàn bộ nền kinh tế,
các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế. Đối với kinh tế, công cụ quản lý là những
phương tiện cần thiết mà qua đó Nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng) sử dụng để điều


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
tiết, hướng dẫn, kiểm soát đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế nói chung, cũng như lĩnh
vực XDCB nói riêng. Tại điều 26 của Hiến pháp năm 1992 quy định: Nhà nước thống nhất quản
lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch và bằng chính sách. Trong lĩnh vực XDGT,
Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ trực tiếp như pháp luật, kế hoạch hoá và công cụ gián
tiếp là hệ thống các chính sách.
1.3.1. Công cụ kế hoạch

Kế hoạch là một công cụ nhằm định hướng, tổ chức và điều khiển các hoạt động kinh tế. Đó
là các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu
trong từng thời kỳ do Nhà nước đặt ra. Đặc điểm của kế hoạch hoá định hướng là Nhà nước đưa
ra chương trình, mục tiêu phấn đấu cho các ngành, địa phương, các giải pháp chung; còn thực
hiện mục tiêu đó bằng cách nào là do các tổ chức cơ sở. Hệ thống kế hoạch hoá định hướng bao
gồm các thông tin hướng dẫn, các dự báo thị trường, khoa học-công nghệ, chiến lược phát triển
ngành, vùng, kế hoạch 5 năm, hàng năm và các chương trình dự án. Đặc trưng của kế hoạch hoá
định hướng là lo dài hạn, các cân đối chủ yếu để đảm bảo ổn định ở tầm vĩ mô. Kế hoạch không
đảm bảo chất, thiếu cơ sở khoa học sẽ gây hậu quả xấu cho phát triển kinh tế, cũng như đối với
doanh nghiệp.
1.3.2. Công cụ pháp luật

Nền kinh tế thị trường là tổng thể các quan hệ kinh tế - xã hội diễn ra trên cơ sở các nguyên
tắc tự do, bình đẳng và do đó, nếu không có pháp luật thì không thể đảm bảo duy trì được các giá
trị của nền kinh tế thị trường và các quan hệ kinh tế xã hội sẽ trở nên hỗn loạn; không có pháp
luật thì không thể giải quyết được hai mối quan hệ cơ bản nhất trong lĩnh vực kinh tế, đó là quan

hệ giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế và quan hệ giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Nhà nước
định ra pháp luật và sử dụng pháp luật làm công cụ để tổ chức và quản lý nền kinh tế thị trường.
Nhờ có pháp luật và bằng pháp luật mà hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế
được vận hành theo đúng quỹ đạo, đảm bảo được kỷ cương trong lĩnh vực kinh tế nói chung và
XDCB nói riêng. Đầu tư và xây dựng là hai lĩnh vực có yêu cầu quản lý khác nhau, cần ban hành
các văn bản cho phù hợp, đáp ứng với yêu cầu quản lý của từng giai đoạn trong chu kỳ dự án. Đối
với các chủ thể kinh doanh xây dựng, Bộ Xây dựng đã có Quyết định số 23 ngày 13 tháng 11/2000
về quy chế cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế công trình và quyết định số 27/2000 ngày 08/12/2000
về điều kiện kinh doanh xây dựng. Có Luật Xây dựng, hệ thống văn bản dưới luật của Chính phủ,
Bộ Xây dựng và hệ thống các văn bản hướng dẫn của bộ quản lý ngành, công tác quản lý thị
trường XDGT sẽ dần ổn định.
1.3.3. Công cụ chính sách

Chính sách kinh tế là công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, kích thích và định
hướng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Đã có người ví chính sách, pháp luật như một dòng
sông, doanh nghiệp như con thuyền; sông càng thông thoáng càng nhiều thuyền và có cả thuyền
to. Điều khiển nền kinh tế gián tiếp thông qua thị trường là sử dụng các đòn bẩy (chính sách)


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG
kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp
luật và theo kế hoạch của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước có các chính sách cơ bản sau:
- Chính sách đối với các thành phần kinh tế: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh". Đến nay, ở nước ta đang tồn tại 7 thành phần kinh tế, đó là: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Trong
thị trường XDGT có đủ các thành phần tham gia hoạt động và cạnh tranh quyết liệt, đều được

đối xử bình đẳng trong hoạt động SXKD và đều được thụ hưởng các chính sách kinh tế.
- Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực: Theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều
kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ… để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy
nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Khi hội nhập, nền kinh tế nước ta sẽ
tận dụng được công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý của thế giới. Cần tăng cường đào tạo kỹ
năng hội nhập quốc tế cho các cán bộ: quản lý quy hoạch, xây dựng văn bản pháp quy, thẩm định
phê duyệt dự án, thiết kế, cấp giấy phép và kiểm tra chất lượng công trình. Trong lĩnh vực
XDGT, hội nhập về thể chế đang là vấn đề bức bách.
- Chính sách quản lý và sử dụng đất đai: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân đối với toàn bộ
vốn đất đai, Nhà nước tôn trọng và thừa nhận các quyền của người sử dụng đất nhằm phát huy
mọi tiềm năng đất đai, lao động, vốn để phát triển kinh tế bằng chính sách giao quyền sử dụng
đất (thu tiền hoặc không thu tiền) và chính sách cho thuê đất. Người sử dụng đất có quyền
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để lại thừa kế quyền sử dụng đất phù hợp với các quy định
của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai. Chính sách này nhằm khơi thông sự vận động của vốn
đất đai, bảo đảm sử dụng đất đai hợp lý, có hiệu quả. Trong XDGT, vấn đề tái định cư, huy động
vốn từ đất có liên quan mật thiết tới đầu tư phát triển cho nền kinh tế.
- Chính sách tài chính: Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, mặt bằng và
thông tin; doanh nghiệp phải trả tiền khi sử dụng công sản của Nhà nước; Nhà nước buộc doanh
nghiệp phải chấp hành chế độ kế toán báo cáo tài chính. Với cơ chế chủ sở hữu doanh nghiệp
nhà nước: Nhà nước ban hành cơ chế phân phối thu nhập; quản lý việc tạo vốn, bảo toàn vốn và
xoá bao cấp về vốn; phát triển công ty tài chính để huy động vốn.
- Chính sách tín dụng: Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng với các thành phần kinh tế
trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng là lãi suất công bằng và có lãi suất tài trợ cho dự án
được khuyến khích.
Ngoài các công cụ kế hoạch, pháp luật và chính sách, để thực hiện vai trò của của mình, Nhà
nước còn thực hiện cung cấp các thông tin cho thị trường XDGT.


PHẦN THỨ II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG GIAO THÔNG

1.4. KIỂM TRA, KIỂM SOÁT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XDGT

Trong quản lý nhà nước về kinh tế, khi cơ chế tác động, biện pháp điều chỉnh chủ yếu là bằng
pháp luật, Nhà nước phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm loại trừ các
hành vi bất hợp pháp ra khỏi đời sống kinh tế xã hội. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chấp hành
các văn bản pháp luật là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế nói
chung (nói riêng với XDGT), thiếu khâu này, hoạt động quản lý sẽ kém hiệu lực, hiệu quả. Hơn
nữa, nhằm khắc phục các khiếm khuyết của thị trường XDGT, Nhà nước cần phải tăng cường kiểm
tra, kiểm soát. Đó là kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng, cung ứng sau đăng ký
kinh doanh, kiểm soát tư cách hành nghề của các tổ chức tư vấn, các cá nhân như chủ nhiệm đồ án,
giám đốc dự án, giám sát viên; đó là kiểm tra, kiểm soát bảo vệ quy hoạch xây dựng, thẩm định dự
án đầu tư. Ở nhiều nước, các Hội nghề nghiệp tích cực tham gia vào kiểm soát, quản lý năng lực
hành nghề đối với các cá nhân là: Kỹ sư, công nhân kỹ thuật; các Hội nghề nghiệp tổ chức tiến
hành thi sát hạch, kiểm tra trước khi cơ quan nhà nước cấp chứng chỉ. Tức là có sự phối hợp khá
chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các Hội nghề nghiệp như ở Hoa Kỳ và Úc. Trong quá
trình quản lý các dự án XDGT có sử dụng VĐT từ NSNN, sự kiểm tra của CĐT có vị trí đặc biệt
quan trọng. Bởi vì CĐT là người thay mặt Nhà nước, do Nhà nước quyết định thành lập để quản lý
vốn đầu tư của nhà nước và có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các chủ thể kinh doanh tham
gia thực hiện dự án đầu tư (tư vấn thiết kế, giám sát; nhà thầu, nhà cung cấp). Ở đây, kiểm tra công
nghệ, kiểm soát các hoạt động tác nghiệp, thực hiện khối lượng và chất lượng xây lắp của nhà thầu
trên công trường là công việc thường xuyên của CĐT cùng tư vấn. Khi dự án hoàn thành đưa vào
khai thác, CĐT còn kiểm tra, kiểm soát để xác nhận quyết toán của nhà thầu.
Kiểm tra, kiểm soát của cộng đồng là biện pháp hữu hiệu, đặc biệt là kiểm tra các dự án sử
dụng vốn huy động đóng góp của nhân dân.
Các doanh nghiệp XDGT là bộ phận năng động nhất trong hệ thống chuyên ngành XDGT.
Hoạt động của các doanh nghiệp này đang diễn ra trên thị trường XDGT thường xuyên có mối
liên hệ, tác động qua lại với Nhà nước. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp - Nhà nước và thị trường
XDGT là rất chặt chẽ - có tính nhân quả. Để có sự phát triển, hiệu quả trong hoạt động XDGT
phải có sự phối hợp đồng bộ, nỗ lực của Nhà nước, của các hiệp hội, của các doanh nghiệp và
của chính tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Cần hoàn thiện quan hệ của Chính phủ với

doanh nghiệp. Ngày nay, vai trò chức năng của Nhà nước đối với doanh nghiệp đã mang nội
dung mới, đó là Nhà nước không chỉ có kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp mà quan trọng hơn,
còn phải hỗ trợ, nâng đỡ cho nó phát triển.



×