Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Chiến lược che giấu tình cảm trong giao tiếp ngôn ngữ của người việt (có đối chiếu với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.64 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

VŨ THU HUYỀN

CHIẾN LƯỢC CHE GIẤU TÌNH CẢM
TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CỦA
NGƯỜI VIỆT
(CÓ ĐỐI CHIẾU TIẾNG ANH)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

HÀ NỘI – 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

VŨ THU HUYỀN

CHIẾN LƯỢC CHE GIẤU TÌNH CẢM
TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CỦA
NGƯỜI VIỆT
(CÓ ĐỐI CHIẾU TIẾNG ANH)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Người hướng dẫn khoa học


TS. NGUYỄN VĂN CHIẾN

HÀ NỘI – 2010


Lêi C¶m ¥n
Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài: “Chiến lược che giấu tình cảm trong
giao tiếp ngôn ngữ của người Việt (có đối chiếu với tiếng Anh)”, trước tiên tác
giả khóa luận xin gửi lời biết ơn chân thành nhất tới TS. Nguyễn Văn Chiến người hướng dẫn khoa học.
Tác giả khoá luận cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả hoàn thành
khóa luận này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2010
Tác giả khóa luận

Trần Thị Phượng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Chiến. Kết quả thu được là hoàn toàn
trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2010
Tác giả khoá luận

Trần Thị Phượng


KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Nguyên nghĩa

TS

Tiến sĩ

GS.TS

Giáo sư - Tiến sĩ

S

Speaker (Người nói)

Sp1

Speaker 1(Vai phát ra diễn ngôn tức
vai nói, viết)

Sp2

Speaker 2 (Vai tiếp nhận diễn ngôn tức
vai nghe, đọc)

H

Hearer (Người nghe)

U


Utterance (Phát ngôn)

FTA

Face Theatening Acts (Hành vi đe doạ
thể diện)

LRĐ

Lời rào đón

PNC

Phát ngôn chính

VD

Ví dụ

Nxb

Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động giao tiếp là hoạt động tiếp xúc, trao đổi giữa các thành viên
trong một cộng đồng bằng nhiều phương tiện, cách thức khác nhau. Trong đó,
giao tiếp bằng ngôn ngữ là quan trọng nhất. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

được thực hiện qua các chiến lược giao tiếp nhằm hướng tới mục đích của giao tiếp
và tính hiệu quả của nó đối với người nói. “Che giấu tình cảm” là một trong những
chiến lược giao tiếp quan trọng và phổ dụng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ.
Lý thuyết lịch sự chính là tiền đề lý luận cơ bản của hiện tượng “che giấu
tình cảm” bởi chính lịch sự đã chi phối việc “che giấu tình cảm” và bản chất của
“che giấu tình cảm” là mong muốn giữ thể diện. Lý thuyết lịch sự đã được rất
nhiều các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu, điển hình như: Lakoff; Leech; Brown
và Levinson... Tuy nhiên, đây là những tri thức đại cương về lịch sự không đi
sâu đề cập đến vấn đề lịch sự và thể diện trong một khu vực giao tiếp nhất định
như “che giấu tình cảm”. Bên cạnh đó, trong một số tài liệu tiếng Việt, đặc biệt
là tiếng Anh thực hành (điển hình là cuốn “Say it naturally!” của tác giả Allie
Patricia Wall), “che giấu tình cảm” đã được đề cập đến nhưng dưới góc độ một hành
động ngôn ngữ (speech act). Ở đề tài này, chúng tôi nghiên cứu “che giấu tình cảm”
trên bình diện là một chiến lược giao tiếp thông qua các hành động ngôn ngữ cụ thể.
“Che giấu tình cảm” với tư cách là một chiến lược giao tiếp là sự thể hiện
của phép lịch sự được người nói dùng để hoàn thành mục đích giao tiếp như thiết
lập hoặc duy trì những quan hệ liên nhân (interpersonal) hài hoà. Lịch sự là một
phương thức giao tiếp thể hiện các khoảng cách xã hội giữa những người tham
gia giao tiếp, có tính phổ quát đối với mọi xã hội trong mọi lĩnh vực tương tác.
Đây là vấn đề văn hóa và mang tính đặc thù của từng nền văn hóa.


Một trong những điểm nổi bật của tính cách Việt trong giao tiếp là sự
khiêm tốn và ôn hoà. Trong hoạt động giao tiếp, người Việt rất ưa tế nhị, kín
đáo, tránh làm tổn thương đến đối tượng mà mình đang giao tiếp. Chính vì thế,
“che giấu tình cảm” là một chiến lược mà người Việt thường xuyên ưa dùng.
Việc tìm hiểu chiến lược này sẽ làm sáng tỏ phần nào tính cách, sở thích của người
Việt trong giao tiếp; mặt khác, góp phần bổ xung cho những tri thức đại cương về
“lịch sự” trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung và hiện tượng “che giấu tình cảm” nói

riêng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Chiến lược “che giấu tình cảm” của người Việt thông qua các hành động
ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này hướng tới hai mục đích sau:
Một là: Tiếp cận, phát hiện các đặc trưng giao tiếp ngôn ngữ thông qua
một chiến lược giao tiếp điển hình và một hiện tượng ngôn ngữ điển hình của hai
cộng đồng nói tiếng Việt và Anh
Hai là: Góp phần giúp những người nói tiếng Anh học tiếng Việt một cách
thuận lợi hơn ở một khu vực giao tiếp cụ thể.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát cụ thể những thủ thuật điển hình thể hiện chiến lược “che giấu
tình cảm” trong giao tiếp ngôn ngữ của cộng đồng người Việt và cộng đồng nói
tiếng Anh.
- Bước đầu xác định xu hướng “che giấu tình cảm” ưa dùng của hai tộc
người nói tiếng Việt và Anh là những xu hướng nào.

5. Phương pháp nghiên cứu


- Phân tích hệ thống trong dụng học ( phân tích hội thoại)
- Đối chiếu, so sánh
- Phương pháp thống kê
6. Giới hạn của đề tài nghiên cứu
- Chỉ khảo sát những thủ thuật mà chúng tôi cho là điển hình thể hiện
chiến lược “che giấu tình cảm” trong tiếng Việt và Anh.
- Các dẫn chứng lấy từ các tác phẩm văn học từ năm 1930 trở lại đây đối
với tiếng Việt.
7. Đóng góp của khoá luận

- Góp phần bổ xung cho những tri thức đại cương về “lịch sự” trong giao
tiếp ngôn ngữ nói chung và hiện tượng “che giấu tình cảm” nói riêng.
- Bước đầu xác định được xu hướng, sở thích của cộng đồng nói tiếng Việt
và Anh trong khu vực giao tiếp cụ thể này.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo bao gồm bốn chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận
Chương 2: Chiến lược “che giấu tình cảm” của người Việt qua các thủ
thuật thực hiện chiến lược đó.
Chương 3: Cấu trúc các phát ngôn thể hiện các thủ thuật “che giấu tình
cảm” của người Việt
Chương 4: Chiến lược “che giấu tình cảm” trong giao tiếp ngôn ngữ của
người Việt đối chiếu với tiếng Anh.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1


NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết lịch sự
Như chúng ta đã biết, tương tác bằng lời là một hoạt động xã hội. Trong
hội thoại, ngoài quan hệ trao đổi thông tin còn có quan hệ liên cá nhân. Các quy
tắc lịch sự sẽ đề cập đến phương diện liên cá nhân của hội thoại.
1.1.1. Định nghĩa lịch sự
Lịch sự là hiện tượng được rất nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu. Theo đó, đã có nhiều quan niệm khác nhau về lịch sự. Có thể đưa ra một số
quan niệm sau về hiện tượng lịch sự:
Theo Leech, “phép lịch sự liên quan tới quan hệ giữa hai người tham gia
mà chúng ta có thể gọi là “ta” và “người” ( “self” and “other”)”. Nó có chức
năng “gìn giữ sự cân bằng xã hội quan hệ bạn bè, những quan hệ này khiến

chúng ta có thể tin rằng người đối thoại với chúng ta tỏ ra trước hết là cộng tác
với ta”.[Dẫn theo 8, 256]
Trên cơ sở khái niệm “thể diện”, lịch sự được định nghĩa như sau:
G. Yule trong cuốn “Pragmatics” đề xuất: “ Lịch sự trong tương tác có thể
được xác định là những phương thức được dùng để tỏ ra rằng thể diện của người
đối thoại với mình được thừa nhận và tôn trọng”.[Dẫn theo 8, 267]
Theo Green: “ Lịch sự chỉ bất cứ phương thức nào được dùng để tỏ ra lưu
ý đến tình cảm (feelings) hay là thể diện của nhau trong hội thoại, bất kể khoảng
cách xã hội giữa người nói và người nghe như thế nào”.[Dẫn theo 8, 267]
Như vậy, có thể thấy rằng, dù định nghĩa lịch sự theo cách nào các nhà
nghiên cứu cũng xem xét hiện tượng lịch sự như một phạm trù của những nhân
tố liên cá nhân xuất hiện trong cuộc tương tác hội thoại. Mục đích cuối cùng của
phép lịch sự là để thiết lập hoặc duy trì những quan hệ hài hoà.
1.1.2. Lý thuyết về lịch sự


Nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu về hiện tượng lịch sự trong
giao tiếp ngôn ngữ, điển hình như: Watts, Leech, Grice, Brown và Levinson. Sau
đây là ba quan điểm tương đối hoàn chỉnh về lịch sự, thường được nhắc tới.
a. Lý thuyết của Lakoff
R.Lakoff nêu lên ba loại quy tắc lịch sự:
Thứ nhất: Quy tắc lịch sự quy thức (Formal politeness rule).
Đó là quy tắc: không được áp đặt. Quy tắc này thích hợp với những ngữ
cảnh, trong đó những người tham gia tương tác có những khác biệt được nhận
biết về quyền lực và cương vị. Áp đặt đối với H có nghĩa là làm cho H không thể
hành động theo như H muốn. Không áp đặt có nghĩa là không ngăn cản H hành
động theo ý muốn của mình.
Thứ hai: Quy tắc dành cho người đối thoại sự lựa chọn
Đây là quy tắc thích hợp với những ngữ cảnh trong đó người tham gia
giao tiếp có quyền lực và cương vị gần tương đương với nhau nhưng không gần

gũi về quan hệ xã hội. Dành cho sự lựa chọn có nghĩa là bày tỏ ý kiến sao cho ý
kiến hay lời thỉnh cầu của mình có thể không được biết đến mà không bị phản
bác hay từ chối. Nói chung nếu S muốn thuyết phục H theo một quan điểm hay
một công việc nào đó thì S sẽ nói sao cho H không buộc phải nhận ra ý định của
S. Những điều S khẳng định hay thỉnh cầu đều được rào đón hay nói theo lối
hàm ẩn.

Thứ ba: Quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè.


Quy tắc này thích hợp với những bạn bè gần gũi hoặc thích sự thân mật
với nhau. Trong phép lịch sự thân tình, hầu như tất cả các đề tài đều có thể đưa
ra trò chuyện. Trong phép lịch sự này, người ta không phải nói với nhau bằng lối
nói gián tiếp, hàm ẩn rằng quan hệ chưa được thân tình. Nguyên tắc chi phối ở
đây không phải chỉ dừng ở chỗ tỏ ra quan tâm thực sự đến nhau mà còn phải tỏ
ra săn sóc, tin cậy nhau bằng cách thổ lộ tâm tình, bộc lộ mọi chi tiết của cuộc
sống, kinh nghiệm, cảm xúc của mỗi người.
b. Lý thuyết của Leech
Quy tắc lịch sự của Leech được xây dựng trên hai khái niệm: tổn thất
(cost) và lợi ích (benefit). Siêu quy tắc lịch sự của Leech: Hãy giảm thiểu biểu
hiện của những niềm tin không lịch sự, hãy tăng tối đa biểu hiện của những niềm tin
lịch sự. Siêu nguyên tắc này bao gồm sáu phương châm lịch sự lớn. Cụ thể như sau:
(1) Phương châm khéo léo
(2) Phương châm rộng rãi
(3) Phương châm tán thưởng
(4) Phương châm khiêm tốn
(5) Phương châm tán đồng
(6) Phương châm thiện cảm
Theo Leech, mức độ lịch sự của một hành vi ở lời phụ thuộc vào ba nhân
tố: bản chất của hành vi đó; hình thức ngôn từ thể hiện hành vi đó; mức độ quan

hệ giữa người cầu khiến và người được cầu khiến.
Rõ ràng, Leech đã phần nào hướng đến hiệu lực lịch sự của các hành vi
ngôn ngữ, tư tưởng cốt lõi trong lý thuyết lịch sự của Brown và Levinson.

c. Lý thuyết của Brown và Levinson


Hiện nay, đây là lý thuyết được xem là nhất quán nhất, có ảnh hưởng rộng
rãi nhất, có hiệu quả nhất đối với việc nghiên cứu về phép lịch sự. Brown và
Levinson đã phát triển một lý thuyết thống nhất mà theo cách đó, các cách thức
thể hiện ngôn ngữ là sự thể hiện của các chiến lược lịch sự cụ thể. Lý thuyết này
đề cập đến đồng thời cả hành vi ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Tuy nhiên, mối quan
tâm chủ yếu của tác giả hướng tới các hành vi ngôn ngữ.
c1. Thể diện (Face)
Brown và Levinson xây dựng lý thuyết của mình trên khái niệm thể diện
(face) mượn của Goffman.
Thể diện được Brown và Levinson định nghĩa là: “Hình ảnh về ta công
cộng mà mỗi thành viên muốn mình có được” ( “Face” the public self - imagine
that every member wants to claim for him or herself). [2, 61]
Như vậy, thể diện ở đây chính là sự ý thức, sự khẳng định về giá trị cá
nhân của mỗi người, là hình ảnh về một cái tôi cụ thể. Hình ảnh này có thể bị
làm tổn hại, được giữ gìn hay được đề cao trong quá trình tương tác giữa các
thành viên tham gia giao tiếp.
Thể diện gồm hai phương diện: Thể diện âm tính (nagative face) và thể
diện dương tính (positive face).
- “Thể diện âm tính là mong muốn không bị can thiệp, mong muốn được hành
động tự do theo như cách mình đã lựa chọn” (J. Thomas). Nó là “nhu cầu được độc
lập, tự do trong hành động, không bị người khác áp đặt” (G.Yule). (Dẫn theo 8, 264]
- Thể diện dương tính là cái “được phản ánh trong ý muốn mình được ưa
thích, tán thưởng, tôn trọng, đánh giá cao” ( J. Thomas), là “sự thỏa mãn khi một

giá trị của mình được tán thưởng” (G.M.Green). G.Yule giải thích cụ thể rằng:
“Thể diện dương tính của một người là cái nhu cầu được chấp nhận, thậm chí
được yêu thích bởi người khác, được đối xử như là thành viên của cùng một


nhóm xã hội và nhu cầu được biết rằng mong muốn của mình cũng được người
khác chia sẻ. Nói đơn giản thì thể diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể
diện dương tính là nhu cầu được liên thông với người khác”.[Dẫn theo 8, 264]
Hai thể diện âm tính và dương tính là hai mặt bổ xung cho nhau. Chúng
phát huy tác dụng theo lối “cộng sinh” với nhau, có nghĩa là một sự vi phạm thể
diện âm tính cũng đồng thời làm mất thể diện dương tính.
c2. Hành vi đe doạ thể diện (FTA)
Thể diện có thể bị mất đi; được duy trì, bảo vệ; hay được đề cao, tôn thêm.
Mỗi thành viên đều muốn thể diện của mình được tôn trọng trong quá trình
tương tác mang tính xã hội, đặc biệt trong hội thoại. Đại bộ phận các hành vi
ngôn ngữ trong quá trình tương tác bằng ngôn ngữ đều tiềm ẩn khả năng làm tổn
hại đến thể diện. Brown và Levinson gọi chúng là các hành vi đe doạ thể diện Face Threatening Acts, viết tắt là FTA.
Chính vì vậy, lịch sự trong giao tiếp chủ yếu là sự điều phối các thể diện
bằng các hành vi ngôn ngữ. Trong hội thoại, các đối tác đều thể hiện mong muốn
được giữ thể diện (Face want). Mong muốn giữ thể diện có nghĩa là xử sự làm
sao cho hình ảnh về ta công cộng của mình được tôn trọng, mà tôn trọng thể diện
của mình là tôn trọng thể diện của người khác.
Khi thực hiện một hành động hay một hành vi ở lời nào đó mà có khả năng làm
mất thể diện của đối tác thì người nói tìm cách làm dịu khả năng đe doạ thể diện đó
bằng những hành vi mà Brown và Levinson gọi là cứu vãn thể diện (Face saving acts).
Tuy nhiên, bản thân các hành vi ngôn ngữ tự chúng không phải bao giờ
cũng chỉ có hiệu quả đe doạ thể diện. Nhiều hành vi ngôn ngữ khi thực hiện lại
có hiệu quả làm gia tăng sự tôn trọng thể diện của cả người nói và người tiếp
nhận. Đó là các hành vi tôn vinh thể diện - hành vi phản đe doạ thể diện (anti -



FTA). Như vậy, đe doạ và tôn vinh thể diện là hai mặt tác động đến các đối tác
trong giao tiếp.
c3. Chiến lược lịch sự
Để đạt được hiệu quả lịch sự, người nói phải tính toán được các mức độ đe
dọa thể diện trong mỗi hành vi ở lời để từ đó tìm cách giảm nhẹ nó. Brown và
Levinson đánh giá mức độ đe doạ thể diện của một hành vi ngôn ngữ theo các
thông số: quyền lực, khoảng cách, mức độ áp đặt của các hành vi đó. Đánh giá
đúng được điều này, người nói sẽ quyết định lựa chọn chiến lược lịch sự nào là
thích hợp nhất với quan hệ liên nhân và mục đích của hội thoại.
Brown và Levinson đã trình bày năm siêu chiến lược lịch sự, cùng với sự
đánh giá mức độ mất thể diện, biểu hiện bằng sơ đồ sau:
1 Nói không bù đắp
ít hơn

Nói trắng
Thực hiện
FTA

2 Lịch sự dương tính
Nói có bù đắp

4. Nói kín

5. Không thực hiện

3 Lịch sự âm tính

[2, 60]


FTA

Nhiều hơn

Theo sơ đồ này thì lịch sự nhất là không thực hiện FTA. Nếu bắt buộc
phải thực hiện một FTA thì lịch sự nhất là thực hiện bằng lối nói kín (off record).
Nếu buộc phải thực hiện bằng lối nói trắng ra (on record) thì chọn lối nói trắng
có bù đắp mà không chọn lối nói không bù đắp. Để thực hiện một FTA có bù đắp
thì chọn siêu chiến lược âm tính rồi mới đến siêu chiến lược dương tính.


Như vậy, mức độ lịch sự từ cao xuống thấp của các hành vi ngôn ngữ
được sắp xếp như sau:
5. Không thực hiện FTA
4. Thực hiện FTA bằng lối nói kín
3. Thực hiện FTA bằng lối nói trắng có bù đắp theo phép lịch sự âm tính
2. Thực hiện FTA bằng lối nói trắng có bù đắp theo phép lịch sự dương tính
1. Thực hiện FTA bằng lối nói không bù đắp.
Có thể nói, lịch sự chính là lý thuyết chi phối hiện tượng “che giấu tình
cảm” trong giao tiếp ngôn ngữ. Bản chất của “che giấu tình cảm” chính là giữ
thể diện cho đối tác giao tiếp. Bởi vậy, việc tìm hiểu chiến lược “che giấu tình
cảm” sẽ góp phần bổ xung cho tri thức đại cương về lịch sự.
1.2. Chiến lược giao tiếp
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Hoạt động giao tiếp được hiểu là hoạt động tiếp xúc, trao đổi giữa các
thành viên trong một cộng đồng, được thực hiện bằng nhiều phương tiện, cách
thức khác nhau. Trong đó, giao tiếp bằng ngôn ngữ là quan trọng nhất.
Trong quá trình giao tiếp, người nói (viết) mã hoá thông tin và thực hiện
hành vi nói (viết) để truyền thông tin cho người nghe. Người nghe (đọc) tiếp
nhận thông tin và giải mã thông tin để hiểu. Sự thông hiểu là kết quả cuối cùng

của quá trình giao tiếp.
Giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ
một thành viên nào trong xã hội. Chính giao tiếp làm gia tăng mối quan hệ giữa
ta (self), người (others) và xã hội (society).


1.2.2. Khái niệm chiến lược giao tiếp
Con người khi sinh ra đã có thể giao tiếp bằng cách đưa ra các kí hiệu hay
tiếp xúc nhưng không bằng tri thức, kĩ năng - điều được xem là năng lực giao
tiếp (communicative competence). Mỗi một cá nhân khi trưởng thành, chín chắn
thì năng lực giao tiếp càng trở nên vô cùng cần yếu. Khả năng giao tiếp một cách
hiệu quả, thích hợp phải được rèn luyện thông qua nói, nghe, đọc, viết cùng với
các thành viên khác trong xã hội. Giao tiếp như thế nào cho thực sự hiệu quả liên
quan tới nhiều yếu tố, mà những yếu tố này chỉ được hoàn thiện cùng với quá
trình lớn lên của cá nhân. Mỗi người tích luỹ kinh nghiệm từ cuộc sống hàng
ngày, mài giũa kỹ năng giao tiếp qua các mối quan hệ, tương tác trong xã hội.
Theo quan điểm của các nhà nhân loại học, năng lực giao tiếp phải bao
gồm ít nhất ba yếu tố chính: kiến thức ngôn ngữ, kỹ năng tương tác và hiểu biết
về văn hoá. Những yếu tố này giúp người nói biết cách chọn mã ngôn ngữ một
cách phù hợp trong các trường hợp giao tiếp cụ thể, hay nói cách khác là những
chiến lược giao tiếp (Communicative stratergy) cụ thể trong những tình huống
mang tính xã hội khác nhau để đạt tới một mục đích giao tiếp nhất định.
Trong cuốn “Dictionary of language teaching & applied linguistics”,
“chiến lược” được định nghĩa là “một cách thức để đạt tới một cái đích nhất
định” (a way of reaching a goal). “Chiến lược giao tiếp” là cách mà người học
ngoại ngữ sử dụng để biểu thị cái ý mình muốn nói chuyển thành nghĩa của
ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai mà người học bị giới hạn bởi kiến thức của
ngôn ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ đó. (Communicative stratergy: a way used to
express a meaning in a meaning in a second or foreign language by a learner who
has a limited command of the language). Cụ thể hơn, “chiến lược giao tiếp được

hiểu như một kế hoạch cụ thể cho một mục đích giao tiếp nhất định trong một
trường hợp giao tiếp nhất định, được thực hiện thông qua việc lựa chọn những


phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.” (“Communicative strategy is grasped as a
particular plan used for a certain communicative purpose in a certain
communicative situation through choosing non - verbal and verbal means of
communication”).
Như vậy, có thể thấy rằng, chiến lược giao tiếp bao gồm chiến lược giao
tiếp bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Hai chiến lược giao tiếp
này được phân biệt rạch ròi với nhau. Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp
này, chúng tôi chỉ đi vào khảo sát chiến lược giao tiếp bằng phương tiện ngôn
ngữ, cụ thể là chiến lược “che giấu tình cảm” bằng ngôn ngữ trong giao tiếp của
người Việt (có đối chiếu với tiếng Anh).
1.2.3. “Che giấu tình cảm” như một chiến lược giao tiếp
Như đã đề cập trong phần mở đầu, trong luận văn này, chúng tôi nghiên
cứu hiện tượng “che giấu tình cảm” như một chiến lược giao tiếp chứ không đơn
thuần chỉ là một hành động ngôn ngữ. Bởi lẽ, việc che giấu tình cảm của người
nói là có mục đích, chủ ý rõ ràng, cụ thể và khác nhau trong những ngữ cảnh
giao tiếp cụ thể. Trên cơ sở ngữ cảnh, tình huống và mục đích giao tiếp cụ thể
đó, nhân vật giao tiếp sẽ chọn cho mình cách “che giấu tình cảm” thích hợp và
hiệu quả nhất (thông qua các hành vi ngôn ngữ và phi ngôn ngữ). Tuy nhiên,
trong luận văn này, chúng tôi đi sâu vào phân tích các hành vi ngôn ngữ thực
hiện chiến lược “che giấu tình cảm” đó.
Trước tiên cần phải hiểu mục đích chung nhất của việc “che giấu tình
cảm” trong giao tiếp là gì? Hay nói cách khác: tại sao trong một số trường hợp,
đôi khi người ta cần hay muốn che giấu tình cảm thực sự của mình? Một lý do cơ
bản nhất chính là việc người nói muốn tránh làm tổn thương đến tình cảm của
đối tác hay của chính mình. Mà bản chất chính là việc giữ thể diện cho đối tác và
cho chính mình. Bởi vậy, “che giấu tình cảm” như thế nào trong giao tiếp cho



phù hợp, hiệu quả hay làm thế nào nói lời “không”, lời từ chối là điều rất cần
thiết trong giao tiếp. Có như vậy, các thành viên giao tiếp mới giữ gìn được mối
quan hệ tốt đẹp và duy trì thể diện của chính mình trong mắt người khác.
1.3. Phân tích hội thoại và hành động ngôn ngữ
1.3.1. Phân tích hội thoại
1.3.1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại (conversation) là hành động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất
của con người. Đó là giao tiếp hai chiều, có sự tương tác qua lại giữa người nói và
người nghe với sự luân phiên lượt lời. Số lượng nhân vật hội thoại, còn gọi là đối tác
hội thoại thay đổi từ hai đến số lượng lớn. Có những cuộc hội thoại tay đôi (song
thoại - dialogue), tay ba (tam thoại - trilogue), hoặc nhiều hơn nữa (đa thoại polylogue).
Theo GS.TS Đỗ Hữu Châu, “hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động
ngôn ngữ khác”, “qua hội thoại, các yếu tố, đơn vị của ngôn ngữ mới được đóng
dấu chứng nhận tư cách đơn vị ngôn ngữ của mình và các quy tắc, các cơ chế
vận hành các yếu tố, đơn vị đó mới bộc lộ ra, phát huy tác dụng”.
Trong bất cứ cuộc thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: vận động trao
lời, vận động trao đáp, vận động tương tác.
1.3.1.2. Cấu trúc hội thoại
Về cấu trúc hội thoại, có ba trường phái với ba quan điểm khác nhau. Đó
là: trường phái phân tích hội thoại ở Mỹ (Conversation Analysis); trường phái
phân tích diễn ngôn (Discourse Analysis); trường phái lý thuyết hội thoại ở Thuỵ
Sĩ và Pháp. Trong đó các nhà hội thoại học Thuỵ Sĩ và Pháp đã tổng hợp và phát
triển những thành tựu của lý thuyết phân tích hội thoại và phân tích diễn ngôn, từ
đó xây dựng nên một quan điểm về cấu trúc hội thoại của mình khá toàn diện. Ở


khoá luận này, chúng tôi sẽ trình bày quan điểm về cấu trúc hội thoại của trường

phái lý thuyết hội thoại Thuỵ Sĩ và Pháp. Cụ thể, các đơn vị hội thoại sẽ bao
gồm:

a. Cuộc thoại (Conversation)
Đây là đơn vị hội thoại bao trùm, lớn nhất. Đó là một lần trao đổi, nói
chuyện giữa các cá nhân trong hoàn cảnh xã hội nào đó. Theo C.K.Orechioni,
“để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khung thời gian - không gian
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng” [Dẫn theo 8, 313].
Để xác định một cuộc thoại, ta có các tiêu chí sau: Nhân vật hội thoại;
tính thống nhất về nội dung và địa điểm; tính thống nhất về đề tài diễn ngôn; các
dấu hiệu định ranh giới cuộc thoại (dấu hiệu mở đầu, kết thúc).
b. Đoạn thoại (Sequence)
Đó là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với
nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là sự liên kết chủ đề, một
chủ đề duy nhất. Về ngữ dụng, đó là tính duy nhất về đích của diễn ngôn.
Cấu trúc tổng quát của một cuộc thoại có thể bao gồm: đoạn thoại mở đầu,
thân cuộc thoại, đoạn thoại kết thúc. Trong đó, đoạn thoại mở đầu và kết thúc ít
nhiều được định hình do đó dễ nhận biết hơn các đoạn thoại khác. Tổ chức của
đoạn thoại mở đầu và kết thúc phần lớn được nghi thức hoá và lệ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như vào kiểu cuộc thoại, vào hoàn cảnh giao tiếp, mục đích, hoàn
cảnh gặp gỡ, vào sự quen thuộc, sự hiểu biết về nhau, vào quan hệ thân thuộc giữa
các nhân vật hội thoại. Chúng cũng mang đậm dấu vết của từng nền văn hoá.
c. Cặp thoại hay cặp trao đáp (Adjacency Pairs)


Trong hội thoại có sự tương tác giữa những người tham gia hội thoại.
Tương tác (Interaction) là hoạt động qua lại đối với hoạt động của nhau giữa
những người tham gia hội thoại. Có tương tác bằng lời và tương tác không bằng
lời. Trong tương tác bằng lời, mỗi phát ngôn đều có quan hệ trực tiếp với những

phát ngôn đi trước nó và định hướng cho những phát ngôn đi sau nó. Các phát
ngôn không đứng biệt lập mà phát ngôn này đi kèm phát ngôn kia.
Như vậy, cặp thoại chỉ hiện tượng mỗi phát ngôn được tiếp theo bằng một
phát ngôn riêng, tương thích với nó. Ví dụ: hỏi - trả lời; chào - chào; trao - nhận;
xin lỗi - chấp nhận hoặc không chấp nhận. Chúng là những phát ngôn có quan hệ
tương thích về chức năng.
1.3.2. Lý thuyết hành động ngôn ngữ
1.3.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ
a. Thuật ngữ hành động ngôn ngữ (Speech acts)
Thuật ngữ hành động ngôn ngữ (Speech acts) do nhà Triết học người Anh
J.Austin đề xuất trong cuốn “How to do things with words” (Hành động như thế
nào bằng lời nói) và được một nhà Triết học khác là J.Searle phát triển. Hai ông
đã xác nhận rằng khi sử dụng ngôn ngữ, chúng ta không chỉ tạo ra những phát
ngôn có chứa mệnh đề về những đối tượng, thực thể, sự kiện… mà còn thực hiện
những chức năng như: yêu cầu, phủ nhận, cảm ơn, xin lỗi, đảm bảo… Chúng ta
có thể nhận dạng ra hành động ngôn ngữ do một phát ngôn nào đó thực hiện khi
biết được ngữ cảnh mà phát ngôn đó diễn ra. Hành động ngôn ngữ chính là ý
định về mặt chức năng của mỗi phát ngôn.
b. Các hành động ngôn ngữ
Khi chúng ta nói năng là khi chúng ta thực hiện một loại hành động đặc
biệt bằng phương tiện là ngôn ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi
Sp1 nói ra một phát ngôn U cho Sp2 trong một ngữ cảnh nhất định. Theo Austin,


có ba loại hành động ngôn ngữ lớn: hành vi tạo lời (Locutionary Act); hành vi
mượn lời (Illocutionary Act); hành vi ở lời (Perlocutionary Act).
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ,
các kiểu kết hợp từ thành câu… để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung.
Hành vi mượn lời là hành vi “mượn” các phát ngôn để gây ra một hiệu quả
ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói. Chức năng

hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời của phát ngôn.
Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng.
Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra
một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận.
c. Phân loại các hành động ngôn ngữ
Searle đã dùng bốn tiêu chí: đích ở lời; hướng khớp ghép lời với hiện thực
mà lời đề cập đến; trạng thái tâm lý được thể hiện; nội dung mệnh lệnh để phân
biệt năm phạm trù hành vi ở lời khác nhau. Đó là:
- Tái hiện (Respresensatives): Với hành vi tái hiện, đích ở lời là miêu tả
sự việc đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời - hiện thực, trạng thái tâm lý
là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Các mệnh
đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai, logic.
- Điều khiển (Directives) (ra lệnh, yêu, hỏi, cho phép): Đích ở lời là đặt
người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động tương lai; hướng khớp
ghép hiện thực - lời; trạng thái tâm lý là sự mong muốn của người nói và nội
dung mệnh đề là hành động tương lai của người nghe.
- Cam kết (Commissives) (hứa hẹn, tặng, biếu): Đích ở lời là trách nhiệm
phải thực hiện hành động tương lai mà người nói bị ràng buộc; hướng khớp ghép
hiện thực - lời; trạng thái tâm lý là ý định của người nói; nội dung mệnh đề là
hành động tương lai của người nói.


- Biểu cảm (Expressives): Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lý phù hợp với
hành vi ở lời. Trạng thái tâm lý thay đổi tuỳ theo từng loại hành vi; nội dung mệnh
đề là một hành động hay một tính chất nào đó của người nói hay của người nghe.
- Tuyên bố (declarations): Đích ở lời là nhằm làm cho có tác dụng nội
dung của hành vi; hướng khớp ghép vừa là lời - hiện thực; vừa là hiện thực - lời;
nội dung mệnh đề là một mệnh đề.
1.3.2.2. “Che giấu tình cảm” như một chiến lược giao tiếp thông qua
các hành động ngôn ngữ

Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một mục
đích ở lời mà còn thực hiện đồng thời một số hành vi. Hiện tượng người giao
tiếp sử dụng trên bề mặt hành vi ở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành
vi ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp.
Một hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành vi trong đó người nói thực hiện
một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu
biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực ở lời
của một hành vi khác. Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp là một trong những
phương thức tạo ra tính mơ hồ về nghĩa trong lời nói.
“Che giấu tình cảm” chính là một chiến lược giao tiếp thông qua các hành
động ngôn ngữ, cụ thể là các hành động ngôn ngữ gián tiếp. Chính tính mơ hồ về
nghĩa trong lời nói được tạo ra bởi các hành vi ngôn ngữ gián tiếp là cách để
người nói che giấu tình cảm của mình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng
và nhận biết được các hành vi ở lời gián tiếp cũng như là hiện tượng che giấu
tình cảm trong giao tiếp? Điều này phụ thuộc mạnh mẽ vào ngữ cảnh giao tiếp.
Đây là yếu tố quyết định để nhận ra một hành vi ngôn ngữ gián tiếp và sự che
giấu tình cảm của người nói.


Như vậy, hành vi ngôn ngữ gián tiếp chính là phương tiện để người nói thể
hiện một chiến lược “che giấu tình cảm”. Cách thức thực hiện các hành vi ngôn
ngữ gián tiếp phục vụ cho chiến lược này được chúng tôi thống kê và tổng kết
thành các thủ thuật điển hình mà người Việt hay dùng trong giao tiếp.

CHƯƠNG 2
CHIẾN LƯỢC “CHE GIẤU TÌNH CẢM” CỦA NGƯỜI VIỆT QUA CÁC
THỦ THUẬT THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC ĐÓ


Trong thực tế giao tiếp, người ta có thể sử dụng rất nhiều các thủ thuật

khác nhau để thực hiện chiến lược “che giấu tình cảm” khi cần thiết. Tên gọi các
thủ thuật này được chúng tôi khái quát thông qua việc thống kê các dẫn chứng cụ
thể (dẫn theo các tác phẩm văn học hay trong giao tiếp thường nhật) căn cứ vào
các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Có thể đưa ra một số thủ thuật điển hình sau:
2.1. Sử dụng lời nói dối vô hại
Trong giao tiếp của người Việt, việc sử dụng lời nói dối vô hại (white lie)
diễn ra rất phổ biến và đa dạng cùng với sự phong phú của hoàn cảnh giao tiếp.
Trong luận văn này, chúng tôi không đồng nhất “lời nói dối” với sự gian dối
nhằm mục đích lừa lọc hay trục lợi. Trái lại, trong một số trường hợp giao tiếp
nhất định, việc đưa ra một lời nói dối là để tránh làm tổn thương đến thể diện dương
tính của đối tác hay thể diện âm tính của bản thân mình. Khi đó, đưa ra một lời nói dối
vô hại chính là nhằm mục đích “che giấu tình cảm”. Hãy xét các trường hợp sau:
a/ Trường hợp 1: Đoạn trích
“Ông chồng gần chúi hẳn người vào gầm bộ ngựa tìm và hỏi toang toang:
- Ơ hay! Cái đèn búp măng đâu rồi? U em!
Bà tớn tác:
- U em đâu rồi?...Con! Chạy ra bảo u em thắp đèn!...Mau con!
Thấy họ rối rít cả lên, hò hổng om xòm mà vẫn không có một cái đèn.
Ông chủ thì vẫn lục sục dưới những gầm bàn, gầm ghế và thỉnh thoảng gọi u em như
quát. Bà chủ đã phải hơi gắt tiếng. Thứ vội bảo: - Thưa ông, thôi ạ…vẫn còn sáng
chán!”
Y nhã nhặn thì đúng hơn. Thật ra thì trong nhà đã nhá nhem rồi…không
gian xám màu tro.”
(Nam Cao, Sống mòn) [22,612]


Có thể thấy, hoàn cảnh giao tiếp giữa Thứ và ông bà chủ - người cho Thứ
thuê nhà đã được tái hiện khá đầy đủ bằng những câu trần thuật: trời nhá nhem
tối, trong nhà không có ánh đèn, ông bà chủ nhà rối rít tìm một cái đèn, có lúc đã
phải gắt tiếng với nhau mà không thấy. Trước hoàn cảnh đó, Thứ vội vàng phát

ngôn: “Thưa ông, thôi ạ…vẫn còn sáng chán”. Hiện thực “vẫn còn sáng chán”
trong phát ngôn này của nhân vật Thứ hoàn toàn trái ngược với hiện thực trong
thực tế ngoài phát ngôn “trời nhá nhem tối, không gian xám màu tro”. Tuy nhiên,
sự phản ánh sai thực tế này của Thứ là có chủ ý: nhằm mục đích làm cho vợ
chồng ông bà chủ nhà giảm thiểu tối đa cảm giác ngượng ngùng, áy náy vì sự
thiếu chu đáo trong tiếp đón khách và gia cảnh tuềnh toàng. Mặt khác, cũng
chính với phát ngôn này, Thứ giấu được tâm lý bối rối, ái ngại của bản thân trước
sự cuống quýt và thiếu thốn về vật chất của đối tác giao tiếp.
b/ Trường hợp 2: Đoạn trích
“Trông từ đằng xa đã ghét rồi! Nhưng không thể đuổi ông về, các cụ đành
cố tươi cười chào mời ông vồn vã: - " Kìa! Ông Cửu!...Mời ông vào trong này.
Chúng tôi đợi mãi. Mời ông vào thưởng trống.”
(Nam Cao, Đôi móng giò) [22, 118]
Nhân vật ông Cửu ở đây vốn xuất thân hèn kém, bị quan viên trong làng xã
coi thường. Trong một lần làng có đám, sau buổi tế, ông Cửu xuất hiện trong sự
không mong muốn, ghét bỏ của các quan viên. Tuy vậy, các cụ vẫn cố tỏ vẻ tươi
cười, chào mời ông vồn vã bằng một phát ngôn đầy thân tình: “Kìa!Ông
Cửu…thưởng trống”. Thực tế các nhân vật quan viên làng xã không hề mong
muốn, cũng chẳng hề chờ đợi sự có mặt của ông Cửu. Hiện thực trong phát ngôn
này hoàn toàn trái ngược với hiện thực tồn tại trong suy nghĩ, tâm trạng của họ.
Đây là một sự che giấu nhằm mục đích giữ thể diện cho đối tác giao tiếp là ông


×