Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Công cụ phân tích kỹ thuật trong chứng khoáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.21 KB, 27 trang )

Các công cụ để phân tích kỹ thuật.
Chỉ số sức mua/bán tương đối RSI

Năm 1978 J. Welles Wilder giới thiệu chỉ số RSI, từ đó đến nay RSI và trở thành một
trong các chỉ số phổ biến và hiệu quả được sử dụng trong phân tích kỹ thuật. Đây là một
chỉ số thuộc nhóm các phương pháp tương quan phản ánh tương quan sức mạnh sự tăng
giá và giảm giá trong một thời kỳ.
1. Tính toán RSI
RSI phản ánh mối quan hệ giữa sức tăng giá và sức giảm giá của một Cổ phiếu trong một
thời kỳ xác định bằng cách lấy tỷ số giá trung bình của các phiên tăng và giá trung bình
các phiên giảm trong thời kỳ đó. Gọi n là số các phiên trong thời kỳ xác định cần tính
RSI.
Gọi giá trung bình các phiên tăng trong n phiên là AIn = Tổng giá các phiên tăng / n
Gọi giá trung bình các phiên giảm trong n phiên là ADoanh nghiệp = Tổng giá các phiên
giảm / n
Chỉ số sức bền tương đối được tính bằng công thức
RSI = 100 – 100 / (1 + RS) (1)
Trong đó RS = AIn / A Doanh nghiệp là tỷ số giá trung bình các phiên tăng và giá trung
bình các phiên giảm
Xét ví dụ về một phương pháp phân tích kỹ thuật sử dụng trung bình động.
Giá Chứng khoán trong 5 phiên đến ngày 18/05/2007 của Công ty cổ phần nhựa Đồng
Nai – Mã Chứng khoán Doanh nghiệp
Thay %thay Khối
NgàyGiá
đổi
đổi
lượng
18/0 76.00
2.000 2,70% 56.350
5
0


17/0 74.00
2.000 2,78% 36.190
5
0
16/0 72.00
-3.500 -4,64% 43.350
5
0
15/0 75.50
3.500 4,86% 30.550
5
0
14/0 72.00
3.000 4,35% 52.750
5
0
(Nguồn SSI)
Trung bình sự thay đổi giá các phiên tăng trong 5 phiên
AG = (2.000 + 2.000 + 3.500 + 3.000) / 5 = 2.100
Trung bình sự thay đổi giá các phiên giảm trong 5 phiên


AL = (3.500) / 5 = 700
Hệ số tương quan phản ánh giữa sức tăng và sức giảm giá là tỷ số AG/AL, quy chuẩn về
thang 100 sẽ tính được RSI là:
RSI = 100 – 100/ (1 + AG/AL) = 75
2. Ý nghĩa
RSI xác định tương quan sức mạnh giữa phe mua và phe bán bằng cách phản ánh tỷ số
tăng giá và tỷ số tăng giá vào giá trị của RSI. Giá trị này nằm trong khoảng 0 đến
100. Giá trị 50 của RSI gọi là giá tị trung bình tại đây sức mua và bán có tương quan

ngang bằng nhau. RSI lớn hơn 50 và càng lớn thì phản ánh sức mua càng lớn hơn sức
bán, giá cả đang tăng. RSI nhỏ hơn 50 và càng nhỏ thì phản hánh sức bán càng lớn hơn
sức mua, giá cả đang xuống.
RSI có hai ngưỡng siêu mua và siêu bán là 70 và 30, nếu giá trị của RSI lớn hơn 70 thị
trường đang ở trạng thái siêu mua với sự áp đảo của phe mua, nếu RSI nhỏ hơn 30 thị
trường đang ở ngưỡng siêu bán và phe bán đang áp đảo Số phiên (giá trị của n) sử dụng
để tính trung bình giá các phiên tăng và giá các phiên giảm càng lớn thì RSI càng chính
xác theo ý nghĩa của công thức là phản ánh tương quan sức tăng và sức giảm của giá. Tác
giả J. Welles Wilder cho rằng nên lấy 14 phiên để tính RSI.


(nguồn ảnh đồ thị: )
3. Sử dụng RSI
Đồ thị của RSI là một máy dao động, chi tiết về sử dụng máy dao động trong phân tích
Chứng khoán đã được nên trong bài Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan Như mọi loại máy
hiển thị dao động kác, phân tích RSI dựa vào 3 ngưỡng:
- Siêu mua: mọi giá trị RSI ≥ 70 được gọi là siêu mua.
- Siêu bán: mọi giá trị RSI ≤ 30 được gọi là siêu bán.
- Trung bình: Ngưỡng 50 được gọi là trung bình, RSI > 50 báo hiệu về sự thắng thế của
phe mua, RSI < 50 báo hiệu sự thắng thế của phe bán
Chi tiết về các thông số của RSI và cách thức sử dụng RSI giống như mọi máy hiển thị
dao động khác đã được nêu trong Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan


Aroon thể hiện xu thế

Năm 1995, Tushar Chande giới thiệu Aroon với tư cách là phương pháp phân tích kỹ
thuật xác định xu thế giá cả của thị trường và cho biết xu thế đó mạnh đến đâu? Ý tưởng
tính toán Aroon dựa trên việc xác định phiên có giá cao nhất (hoặc nhỏ nhất) cách phiên
hiện tại bao xa trong số các phiên lấy dữ liệu tính. Nếu phiên có giá cao nhất nằm cách xa

phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự chuyển mình sang giảm giá, nếu phiên có giá
thấp nhất nằm cách xa phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự chuyển mình sang xu thế
tăng giá.
Với vai trò nhận định xu thế giả trên thị trường, đồ thị giá trị của Aroon có hai loại: Loại
thứ nhất bao gồm 2 đồ thị biểu thị hai giá trị là Aroon up và Aroon down thể hiện sức
mạnh tăng và giảm giá trên thị trường. Loại thứ 2 biểu thị sự tương quan giữa sức tăng và
sức giảm giá trên thị trường bằng cách lấy hiệu của Aroon up và Aroon down, đồ thị loại
này có dạng một máy dao động. Xem trước Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
1. Cách tính Aroon
Giả sử cần tính giá trị Aroon up và Aroon down cho phiên hiện tại:
gọi n là số phiên lấy dữ liệu để tính Aroon,
tup là số phiên trước phiên hiện tại có giá cao nhất trong n phiên,
tdown là số phiên trước phiên hiện tại có giá thấp nhất trong n phiên.
Aroon up = 100 (n – tup) / nAroon down = 100 (n – tdown) / nAroon tương quan = Aroon up
– Aroon down
Ví dụ tính Aroon cho phiên hiện tại với dữ liệu lấy trong 14 phiên trước đó. Trong 14
phiên này, phiên có giá cao nhất xảy ra cách hiện tại 5 phiên, phiên có giá thấp nhất xảy
ra cách phiên hiện tại 8 phiên.
Aroon
up
=
100
(14

5)
/
14
=
64,29
Aroon

down
=
100
(14

8)
/
14
=
42,86
Aroon tương quan = Aroon up – Aroon down
2. Sử dụng Aroon
Bằng cách dựa vào khoảng cách từ phiên hiện đến phiên có giá cao nhất hoặc thấp nhất.
Nếu giá cao nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại, Aroon up có giá
trị lớn hơn 50, theo thời gian nếu giá cao nhất này không được phá bỏ thì giá trị Aroon up
sẽ giảm dần.
Nếu giá thấp nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại thì Aroon down
có giá trị lớn hơn 50, theo thời gian nếu giá thấp nhất này không được phá bỏ thì giá trị
Aroon down sẽ giảm dần
Nếu Aroon up có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá cao nhất nằm cách xa phiên
hiện tại, xu thế tăng giá đã mất nếu đang là xu thế tăng giá.
Nếu Aroon down có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá thấp nhất nằm cách xa phiên
hiện tại, xu thế giảm giá đã không còn nếu đang là xu thế giảm giá.


Nếu Aroon up và Aroon down xấp xỉ nhau, tức là phiên có giá thấp nhất và phiên có giá
cao nhất ở gần nhau, thị trường không đi theo xu hướng rõ rệt, xu thế nếu có cũng rất
yếu.
Để rõ ràng hơn, Aroon tương quan được sử dụng để xác định tương quan giữa Aroon up
và Aroon down đại diện cho tương quan giữa xu thế tăng và xu thế giảm. Aroon tương

quan càng gần 0 thì biến động càng không có xu thế tăng hoặc giảm rõ ràng mà có dạng
dập dềnh, Aroon tương quan lớn hơn 0 và càng lớn hơn bao hiêu thì xu thế tăng giá của
thị trường càng lớn bấy nhiêu, Aroon tương quan nhỏ hơn 0 và càng nhỏ hơn bao nhiêu
thì xu thế giảm giá của thị trường càng lớn bấy nhiêu. Xét ví dụ về Công ty Cổ phần
Lương thực Thực phẩm Safoco (SAF)

Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
- Tại vòng tròn số (1): Aroon tương quan rât lớn, xu thế giá là tăng và xu thế này rất
mạnh.
- Tại vòng tròn số (2): Aroon tương quan rât nhỏ, xu thế giá là giảm và xu thế này rất
mạnh.


- Tại vòng tròn số (3): Xu thế giá xấp xỉ 0, xu thế tăng và giảm không rõ ràng.
MACD -Trung bình động hội tụ/ phân kỳ

Kể từ khi được Gerald Appel giới thiệu, MACD đã trở thành một trong những công cụ
phân tích kỹ thuật đơn giản và tin cậy nhất. MACD được tính toán dựa trên hiệu số của
hai đường trung bình động dài hạn và ngắn hạn, giá trị trả về thuộc nhóm phân tích tương
quan: tương quan giữa trung bình động dài hạn và trung bình động ngắn hạn.
Chi tiết về phân tích tương quan xem: Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan .
Chi tiết về trung bình động xem: Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế .
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
1. Tính toán
Về mặt tính toán MACD lấy một giá trị trung bình động của giá trong ngắn hạn trừ cho
giá trị trung bình động trong dài hạn.
Thông thường MACD sử dụng EMA – 12 làm trung bình động ngắn hạn và EMA – 26
làm trung bình động dài hạn và cho hiệu số trên.

Như vậy nếu MACD > 0 thì trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn.
Nếu MACD < 0 thì trung bình động dài hạn nhỏ hơn trung bình động ngắn hạn.
Đồ thị các giá trị của MACD là một máy hiển thị dao động phản ánh tương quan giữa
trung bình động ngắn hạn và trung bình động dài hạn.
Thông thường đồ thị này được vẽ kèm với đồ thị trung bình động EMA – 9 của chính
MACD và đồ thị MACD – Histogram là hiệu số của MACD và trung bình động EMA – 9
của chính MACD.
Về MACD - Histogram sẽ được nêu trong một bài khác.
2. Ý nghĩa
So với các phương pháp phân tích khác, MACD thuộc về cả hai nhóm phân tích xu thế và
phân tích tương quan, MACD vừa chỉ ra xu thế của thị trường vừa xác định các tín hiệu
mua và bán trên cùng một đồ thị.
Như đã biết trong bài viết về trung bình động, khoảng cách giữa trung bình động ngắn
hạn và trung bình động dài hạn thể hiện xu thế tăng hoặc giảm của thị trường.


Nếu trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là tăng giá và
MACD có giá trị dương.
Nếu giá trị MACD dương và ngày càng lớn thì xu thế thị trường tăng ngày càng mạnh,
phe bò tót ngày càng thắng áp đảo.
Nếu trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là giảm giá và
MACD có giá trị âm.
Nếu giá trị MACD âm và ngày càng nhỏ thì xu thế thị trường giảm ngày càng mạnh, phe
gấu ngày càng thắng áp đảo.
Đường trung bình của MCAD là 0 nơi mà trung bình động giá ngắn hạn gặp trung bình
động giá dài hạn, tại đây bắt đầu có sự đổi chiều về xu thế của thị trường. Ví dụ về
MCAD giá cổ phiếu Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - Doanh nghiệp

(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )
- Đồ thị trên tại các thời điểm số 1 và 2, đường MACD (Màu xanh) giao cắt đường zero,

tại đây các đường đồ thj trung bình động EMA - 12 và EMA - 26 giao cắt nhau trên đồ thị
giá.
- Trên đồ thị MACD, đường EMA - 9 của chính MACD được vẽ trên cùng đồ thị với màu
tím và MACD - Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với các cột màu xanh dương.
3. Sử dụng
Khi sử dụng MACD cần chú ý các tín hiệu sau để phát lênh mua hoặc bán:


- Sự giao cắt giữa MCAD và đường trung bình động EMA của chính MACD: Nếu đường
MACD ở cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này thì
đó là tín hiệu bán ra để cắt lỗ. Nếu đường MACD cắt đường EMA của chính nó và đi lên
trên đường này thì đó là tín hiệu mua vào. Sự giao cắt này được gọi là cò súng khai hỏa
các tín hiệu mua và bán khác chính xác. Tuy nhiên cũng chú ý rằng khi các tín hiệu này
xảy ra thì thường sự việc đã xảy ra rồi. Tuy không thể mua đáy bán đỉnh được nhưng việc
bạn sớm mua vào hay bán ra ở đầu một xu thế lên giá hoặc giảm giá cũng là một món
hời.
- Sự giao cắt giữa MCAD và đường zero. Sự giao cắt này chỉ là sự khẳng định lại tăng
phần chắc chắn về xu thế mà các phép phân tích khác chỉ ra. Thông thường sự giao cắt
này xảy ra khá muộn với độ trễ lớn nhất là khi sử dụng MCAD với hai đường trung bình
động trong 9 ngày và 26 ngày. Do đó không thể dùng sự giao cắt này làm tín hiệu để phát
lệnh mua/bán.
Các tín hiệu trên cần kết hợp với nhiều tín hiệu trên các phân tích khác để có kết quả
chính xác hơn.
- Xác định xu thế tăng hoặc giảm hoặc dập dềnh.
- Các dấu hiện về phân kỳ âm, phân kỳ dương.
- Ngưỡng siêu mua/siêu bán
Khi phối hợp các tín hiệu trên với nau cần nhớ đến nghịch lý của việc áp dụng phân tích
kỹ thuật:

Việc áp dụng và chờ đợi càng nhiều tín hiệu để tăng phần khẳng định chính xác hơn của

một quyết định mua bán có thể làm tăng phần chậm trễ cho quyết định mua bán đó và
ngược lại việc áp dụng quá ít tín hiệu để ra quyết định mua bán cho kịp thời cơ có thể lại
kém phần chính xác. Quyết định chính xác nhất là không quyết định.
MACD - Histogram dự đoán MACD

Thomas Aspray giới thiệu MACD – Histogram vào năm 1968 như một giải pháp làm
giảm thiểu độ trễ của MACD. Như đã biết sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình
động EMA của chính nó là phát pháo lệnh cho các hành vi mua và bán của Nhà đầu tư.
Tuy nhiên nếu ngồi chờ phát pháo lệnh này thì sự việc có thể đã trễ. Vì vậy MACD –
Histogram được ra nhằm mục đích dự đoán sự xuất hiện của phát pháo lệnh trước khi nó
xảy ra, nhờ đó Nhà đầu tư có thể ra quyết định mua/bán kịp thời hơn so với việc chờ đợi
sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó. Xem trước:
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
- Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.


- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Giá trị của MACD – Histogram được tính bằng hiệu của MACD và giá trị trung bình
động EMA của chính MACD. Thông thường nếu chọn MACD được tính bằng hiệu hai
đường trunhg bình động của giá là EMA – 12 và EMA – 26 thì giá trị trung bình động
EMA của chính MACD được chọn là 9 phiên.
Đồ thị MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với MACD dưới dạng biểu đồ hình
cột.
Nếu MACD vượt đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram
dương và biểu đồ cột quay lên trên.
Nếu MACD nằm dưới đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD –
Histogram âm và biểu đồ cột quay xuống dưới.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh

hoạ về đồ thị MACD – Histogram dưới dạng các cột màu xanh. Khi MACD – Histogram
bằng 0 là lúc có sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó.

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
2. Ý nghĩa
MACD phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị của MACD và giá trị trung bình động EMA –
9 của chính MACD. Nếu giá trị của MACD – histogram dương và càng lớn thể hiện phe
bò tót càng thắng thế trên thị trường. Nếu giá trị MACD – histogram âm và càng nhỏ thì
phe gấu càng thắng thế trên thị trường.
Việc giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó là một hiệu lệnh cho
hành vi mua vào hoặc bán ra. Tại điểm giao cắt này MACD – Histogram có giá trị 0.
Bằng việc dựa vào sự tăng giảm của MACD – Histogram để dự đoán việc MACD –
Histogram bằng 0 sẽ xảy ra, nhờ đó MACD – Histogram đưa ra khuyến cáo về một hành
vi mua bán của Nhà đầu tư nên đến sớm hơn. Kỹ thuật sử dụng để dự đoán như vậy chính
là phân kỳ dương và phân kỳ âm.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh
hoạ về sự xuất hiện của phân kỳ dương và âm trên MACD – Histogram sớm dự báo sự
giao cắt cắt của MACD và trung bình động của chính nó.


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
3. Sử dụng
Nếu đường MACD đang ở trên đường trung bình, giá cả đang lên nhưng MACD –
Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ âm thì dấu hiệu này cảnh báo về sự giao cắt của
MACD với trung bình động của chính nó và sẽ thấp hơn trung bình động. Lúc này Nhà
đầu tư có thể ra quyết định bán ra sớm hơn việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định
bán.
Nếu đường MACD đang ở dưới đường trung bình, giá cả đang xuống nhưng MACD –
Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ dương thì dấu hiệu này cảnh báo sự giao cắt của
MACD và đường trung bình động EMA của chính nó và cao hơn trung bình động. Lúc

này Nhà đầu tư có thể ra quyết định mua vào sớm hơn là việc chờ đợi sự giao cắt mới ra
quyết định mua.
Chú ý rằng việc sử dụng MACD – Histogram để phán đoán cũng như sử dụng MACD
giao cắt trung bình động EMA của chính nó được sử dụng dựa trên sự phối hợp bổ trợ với
các phép phân tích khác.
Ngoài ra vì MACD – Histogram dự đoán sự giao cắt của MACD nên dù có độ trễ ít hơn
so với MACD nhưng tính chính xác lại kém hơn. Sử dụng một biện pháp phỏng đoán
gián tiếp qua một dấu hiện dự đoán khác thì sẽ kém an toàn hơn là sử dụng phép dự đoán
trực tiếp.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần bao bì Bình Dương – HBD


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
- Tại khoảng thời gian số 1, có rất nhiều tín hiệu xuất hiện lần lượt tại các thời điểm khác
nhau: sự giao cắt của giá và đường trung bình động SMA – 5, giá rót rất mạnh sau khi
giao cắt đường này, RSI cắt ngưỡng siêu mua và đi xuống dưới, sự xuất hiện của phân kỳ
âm trên MACD – Histogram và sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của
nó. Tín hiệu cuối cùng về sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó là
phát pháo lệnh chắc chắn nhất đòi hỏi Nhà đầu tư phải rút lui gấp nếu không muốn bị
thua lỗ thêm mặc dù lúc đó giá có tăng trong ngắn hạn một vài phiên. Ví dụ này cho thấy
việc sớm dự báo giảm giá giúp Nhà đầu tư sớm thoát khỏi thị trường hơn là chờ đợi phát
pháo lệnh cuối cùng.
- Tại khoảng thời gian số (2), có nhiều tín hiệu báo hiệu về sự tăng giá mạnh: Giá giao cắt
trung bình động SMA – 5 và vượt lên rất mạnh so với trung bình động, sự xuất hiện của
phân kỳ dương trên MACD - Histogram, RSI vượt lên ngưỡng siêu bán. Tuy nhiên phát


pháo lệnh cuối cùng và chắc chắn nhất là sự giao cắt của MACD và trung bình động của
nó đã không xảy ra và giá đã không thực sự tăng mạnh và nhanh chóng giảm. Ví dụ này
điểm hình cho tính chất sớm nắm bắt thời cơ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng khả

năng chính xác kém hơn.
- Tại khoảng thời gian số (3), nhiều dấu hiệu về sự tăng giá xuất hiện: phân kỳ dương
xuất hiện đồng thời trên RSI và MACD – histogram, RSI vượt lên trên ngưỡng siêu bán.
Những tín hiệu này xảy ra trước phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt giữa MACD và
trung bình động của chính nó. Tuy nhiên cũng cần cảnh giác với biến động dập dềnh của
giá trong giai đoạn này.
- Tại khoảng thời gian số (4): sự xuất hiện của phân kỳ âm, ngưỡng siêu mua trên RSI
không còn và sự giao cắt và rớt mạnh của giá so trung bình động thúc giục sự rút lui của
Nhà đầu tư. Lúc này chưa có phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt MACD và trung
bình động của chính nó, giá đã có sự tăng trở lại. Giá sắp tới sẽ như thế nào? Cần phải
chờ đợi những tín hiệu chắc chắn hơn hay phải rút lui cho kịp thời?

Các bài viết trước đã đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả
của cổ phiếu qua các phiên. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương
lai không chỉ phụ thuộc vào giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều
yếu tố khác trong đó có khối lượng giao dịch trong ngày.
Do đó kỳ này sẽ đề cập đến các vấn đề về khối lượng giao dịch trên thị trường và nguyên
tắc chung của các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng giao dịch trước khi đề cập
cụ thể đến một số phương pháp phân tích thuộc loại này trong các bài viết tiếp theo.
Xem trước:
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
- Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD.
1. Giới thiệu chung
Như đã biết, giá cả trên thị trường được quyết định bằng cuộc đấu giữa cung và cầu theo
nguyên tắc thuận mua và bán. Sự thuận mua vừa bán này được phản ánh không chỉ qua
mức giá cân đối cung cầu mà qua cả khối lượng khớp thành công giữa hai bên. Nói cách
khác, bán phải có người mua. Mua mà không có người bán hoặc bán không có người mua
là những trạng thái cần phải chú ý trên thị trường, phản ánh mức cung cầu mất cân đối
nghiêm trọng.

Hãy xem xét các tình huống sau đây:
- Không ai mua mà cũng chẳng ai bán: đây là trường hợp thị trường đóng băng, hai phe
mua bán lừng chừng thăm dò, hàng hóa không được giao dịch hoặc giao dịch với số
lượng rất ít trên thị trường.
- Mua mà không ai bán: số lượng mua vào rất lớn nhưng số lượng bán ra nhỏ, khối lượng
giao dịch thành công rất ít hoặc không có giao dịch thành công. Tình huống này xảy ra


khi hàng hoá khan hiếm, rất nhiều người muốn mua, nhưng không có hàng bán trên thị
trường, những người có hàng thì ôm chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn. Lúc này
cầu lấn át cung.
- Bán mà không ai mua: số lượng bán ra rất lớn nhưng số lượng mua vào nhỏ. Khối
lượng giao dịch thành công là không có hoặc rất nhỏ. Tình huống này xảy ra khi hàng
hóa bị coi rẻ, người có hàng thì bán tống bán tháo tìm cách rút lui khỏi thị trường, người
chưa có hàng thì chẳng muốn mua vào. Lúc này cung lấn át cầu.
- Mua và bán đều thỏa mãn: khối lượng giao dịch trao đổi trên thị trường lớn, bên mua và
bán gặp nhau và đều thỏa mãn. Cung cầu lúc này ở trạng thái cân bằng.
2. Dòng chảy tiền tệ
Một số phương pháp dựa trên khối lượng thường được đặt tên gọi là dòng chảy tiền tệ
(cash flow) hàm ý chỉ lượng tiền được rút ra hoặc đưa vào thị trường đối với một loại cổ
phiếu. Lượng tiền này thực chất là kết quả của khối lượng giao dịch thành công trên thị
trường và giá cả của cổ phiếu trên thị trường. Nếu giá cả tăng thì tương ứng với khối
lượng là một lượng tiền được đổ vào thị trường: giá càng tăng cao, khối lượng giao dịch
càng lớn thì lượng tiền đổ vào càng lớn. Nếu giá giảm thì tương ứng với khối lượng là
một lượng tiền được rút ra khỏi thị trường: giá càng giảm mạnh, khối lượng giao dịch
càng lớn thì tiền rút ra càng lớn.
3. Ý nghĩa chung
- Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị
trường khan hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó,
khi những người nắm giữ cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra

của họ gặp đúng nhu cầu hàng của phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công
tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ hãm lãi hoặc giảm giá. Một trường hợp khác là phe mua vào
cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy hiểm nên họ chấm dứt việc mua vào,
lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột
biến.
- Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị
trường bị coi rẻ. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một
số Nhà đầu tư cảm thấy được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung
bán ra lớn trên thị trường khiến cho khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm
giá chậm lại hoặc tăng giá. Một trường hợp khác là phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán
ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng cung giảm khiến cho khối lượng khớp thành
công không có sự biến đổi tăng đột biến.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng.
Lúc này không dễ đoán trước được điều gì.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi
xu thế trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục
và thường xuyên các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các
phương pháp phân tích khác.
Dưới đây là hai ví dụ minh họa vềý nghĩa của khối lượng. Chú ý rằng ví dụ này chỉ minh
họa về ý nghĩa chứ không minh họa về cách sử dụng.


Xét ví dụ về Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh - HAX

- Suốt giai đoạn số 1, giá cả biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch quá nhỏ, Nhà đầu
tư không hào hứng nhiều với cổ phiếu này, đường MACD luôn sát với đường trung bình
động EMA của chính nó, giai đoạn này khó có thể dự đoán trước được điều gì.
- Trong suốt giai đoạn từ thời điểm số (2) đến thời điểm số (5) là thời điểm giá Cổ phiếu
tăng vọt. Xuất phát từ thời điểm số (2) với sự không hào hứng của Nhà đầu tư nên khối
lượng giao dịch nhỏ. Tiếp theo đó với sự tăng giá liên tiếp, nhiều Nhà đầu tư găm hàng

lại không bán ra nên khối lượng giao dịch vẫn thấp. Đến thời điểm số (3) một số Nhà đầu
tư cảm thấy được giá liền bán ra gặp đúng cơn khát của các Nhà đầu tư khác nên khối
lượng giao dịch lớn, giá vẫn tiếp tục tăng vì cầu vẫn lấn át. Những người có hàng lại tiếp
tục găm hàng cho đến thời điểm số (4) thì cảm thấy được giá và lại bán ra nhưng vẫn bị
cầu lấn át. Lúc này khả năng về một sự thay đổi xu thế đã gần kề khi đã hai lần xảy ra
hiện tượng những người có hàng cảm thấy được giá trong đợt tăng giá liên tục này.
Từ thời điểm số (5) đến số (6) có thể coi là biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm
ẩn nguy cơ về sự thay đổi giá khó đoán trước. Trong giai đoạn này nếu quan sát trên
MACD sẽ thấy sự tiến sát đến EMA – 9 của chính MACD và khi hai đường này giao
nhau đã khẳng định sự xuống giá.
Xét ví dụ khác về công ty Cổ phiếu Hàng Hải Hà Nội - MHC
(Nguồn ảnh đồ thị trái phiếu )


Giai đoạn số 1 có thể coi là một giai đoạn biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn
nguy cơ khó đoán trước, trong ngắn hạn giai đoạn này được chia thành các kỳ giảm và
tăng giá với khối lượng lớn.
Giai đoạn số 2 là giai đoạn giảm giá, khối lượng giao dịch nhỏ được kết thúc bằng những
cú xốc lại về khối lượng giao dịch lớn hơn trong những phiên giảm giá cuối cùng. Ở cuối
giai đoạn này có một phiên giá lên với khối lượng lớn hơn các phiên trước, đây là lúc mà
một số Nhà đầu tư vội vàng bán ra để giảm lỗ khi thấy có dấu hiệu phục hồi lại.
Các giai đoạn số (3) và (4) là lúc giá biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch nhỏ bởi
sự giằng co giữa phe mua và bán. Giai đoạn này rất khó dự đoán tuy nhiên cần chú ý xu
hướng đi xuống.
4. Cách sử dụng chung
Khối lượng giao dịch thành công, khối lượng đặt mua hoặc đặt bán được coi là nhiều hay
ít còn tùy thuộc vào số lượng của cổ phiếu được phát hành trên thị trường và phụ thuộc
vào tương quan với khối lượng giao dịch trong các phiên giao dịch của cổ phiếu đó. Một
khối lượng có thể được coi là nhiều đối với cổ phiếu này nhưng cũng có thể ít với khối
lượng khác. Hơn nữa sự biến đổi của khối lượng giao dịch mới tạo thành ý nghĩa nếu dựa

vào khối lượng để phân tích.
Vì vậy, thông thường, các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng đều dựa vào sự
biến đổi khối lượng giao dịch trên thị trường chứ không phụ thuộc vào một giá trị cụ thể
của phân tích. Điều đó có nghĩa là các phương pháp này nhìn nhận vào chiều, hướng của
đồ thị mà không chú ý đến giá trị hiện tại trên đồ thị hoặc nếu có thì giá trị này phải được
quy chuẩn.
Dựa theo xu thế của đồ thị, các phương pháp phân tích theo khối lượng sử dụng hai yếu
tố trên đồ thị là sự xuất hiện của các phân kỳ dương/phân kỳ âm và tốc thay đổi đột biến
về khối lượng giao dịch trên thị trường:
- Theo đó một phân kỳ dương xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế tăng
giá trên thị trường, một phân kỳ âm xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế
giảm giá trên thị trường.
- Một sự biến động đột biến về khối lượng giao dịch sẽ phỏng đoán và xác nhận về sự
thay đổi xu thế trên thị trường.
Các phương pháp phân tích về khối lượng cần kết hợp với các phương pháp phân tích
khác nhằm tăng cường tính chính xác, giảm độ chậm trễ trong phỏng đoán và xác nhận
về xu thế giá cả trên thị trường. Về cách sử dụng chi tiết sẽ được nêu cụ thể theo từng
phương pháp phân tích trong các bài viết tiếp theo.
A/D line - Đường tích lũy/ phân bổ

Sau khi chỉ số cân bằng khối lượng OBV ra đời , Marc Chaikin đã công bố đường tích
lũy/phân bổ - Accumlation/Distribution Line A/D Line như một trong những phương
pháp phân tích dựa vào tổng khối lượng tích lũy qua các phiên. Tuy nhiên khác với OBV


chỉ thuần túy dựa khối lượng , A/D Line đưa thêm vào một hệ số điều chỉnh căn cứ theo
giá đóng cửa qua mỗi phiên nhằm phản ánh chính xác hơn trạng thái của thị trường bằng
sự kết hợp tính toán giữa giá và khối lượng. Xem trước
- Phân tích kỹ thuật (8): OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng
- Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng .

- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Marc Chaikin sử dụng hệ số giá đóng tỷ lệ - Close Location Value CLV làm hệ số điều
chỉnh căn cứ theo giá đóng cửa của cổ phiếu trong mỗi phiên:
CLV = ((C - L) - (H - C)) / (H - L) )
Trong đó
C là giá đóng cửa
L là giá sàn
0020H là giá trần
Theo công thức trên thì:
• Nếu giá đóng cửa tăng kịch trần thì CLV = +1
• Nếu giá đóng cửa giảm kịch sàn thì CLV = -1
• Nếu giá đóng cửa bằng giá tham chiếu thì CLV = 0
• Nếu giá đóng cửa trên giá tham chiếu và dưới giá trần thì CLV là số âm nằm trong
khoảng 0 .. +1
• Nếu giá đóng cửa dưới giá tham chiếu và trên giá sàn thì CLV là số âm nằm trong
khoảng 0 .. -1
Nếu như OBV đơn thuần sử dụng tổng tích lũy khối lượng thì A/D Line sử dụng tổng tích
lũy khối lượng nhân với hệ số giá đóng tỷ lệ (Volume x CLV), nghĩa là:
Gọi A/D Linei là giá trị của đường tích lũy tại phiên i.
Khi đó: A/D Linei = A/D Linei – 1 + Volume x CLVCũng giống như OBV, A/D Line chỉ
quan tâm đế phương hướng mà không để ý đến giá trị nên A/D Line0 hoặc A/D Line-1
được quy ước có giá trị bằng 0.
2. Ý nghĩa
OBV là giá trị tích lũy khối lượng giao dịch thành công đã có sự điều chỉnh về tỷ lệ tăng
giá trải các phiên. Về ý nghĩa A/D Line cũng giống như OBV nhưng không giống OBV
chỉ dựa thuần túy vào khối lượng giao dịch thành công để xét đoán tâm lý, hành vi Nhà
đầu tư và trạng thái của thị trường, A/D Line còn thể hiện các yếu tố trên trong mối quan
hệ với giá cả qua các phiên nhờ hệ số điều chỉnh CLV. Do có sự tham gia của giá và khối
lượng, nên A/D Line có thể coi một dạng phân tích phản ánh dòng chảy tiền tệ vào và ra

khỏi thị trường đối với loại cổ phiếu đang xem xét nên A/D Line cho nhiều tín hiệu và sự
xác nhận hơn OBV.
Nếu OBV đánh giá sức tăng hoặc giảm của giá dựa trên khối lượng được giao dịch thành
công và sự tăng giảm của giá.
Nếu giá tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ hoặc giá giảm nhẹ nhưng khối lượng
giao dịch lớn thì đồ thị A/D Line tăng chậm. Nếu giá giảm mạnh nhưng khối lượng giao


dịch lớn hoặc giá tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ thì đồ thị A/D Line giảm
chậm. Chỉ khi khối lượng giao dịch lớn với giá tăng mạnh thì đồ thị A/D Line mới tăng
mạnh và chỉ khi cả giá và chỉ khi khối lượng giao dịch lớn với giá giảm mạnh thì đồ thị
A/D Line mới giảm mạnh.
Như vậy căn cứ vào sức tăng của A/D Line và việc hình thành phân kỳ âm hoặc dương
của A/D Line để kết luận và khẳng định tính chắc chắn của xu thế tăng hoặc giảm giá
hiện tại. Do có hệ số điều chỉnh CLV nên cách hiểu về ý nghĩa phân kỳ âm và phân kỳ
dương của OBV sẽ có sự khác biệt cần phải điều chỉnh. Khi một phân kỳ âm xuất hiện,
điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên bán tháo với khối lượng lớn với giá giảm
mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá tăng không mạnh nên không
thiết lập được đỉnh mới cao hơn đỉnh cũ.
Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức tăng của giá nếu giá đang ở xu thế tăng
hoặc củng cố cho sức mạnh sụt giảm nếu giá đang trên xu thế giảm. Khi một phân kỳ
dương xuất hiện, điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên thu gom với khối lượng
lớn với giá tăng mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá giảm không
mạnh nên không thiết lập được đáy mới thấp hơn đáy cũ.
Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức giảm của giá nếu giá đang ở xu thế
giảm hoặc củng cố cho sức mạnh tăng nếu giá đang trên xu thế tăng.
3. Cách sử dụng
Cũng giống như OBV, A/D Line sử dụng phân kỳ âm và phân kỳ dương làm tín hiệu cảnh
báo về sự thay đổi xu thế của giá cả hoặc xác nhận và củng cố tính chắc chắn của xu thế
này.

- Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ âm cảnh báo về
khả năng thay đổi xu thế giá tăng hiện tại.
- Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang giảm thì phân kỳ âm khẳng định tính chắc
chắn của sự giảm giá.
- Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế giảm thì phân kỳ dương cảnh
báo về khả năng thay đổi xu thế giá giảm hiện tại.
- Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ dương khẳng
định tính chắc chắn của sự tăng giá.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh – BMP
(Ảnh AD Line 1)
Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn
Trong suốt 2 tháng 11 và 2 năm 2006, giá của cổ phiếu BMP có xu thế tăng, phân kỳ
dương trên đồ thị A/D Line xuất hiện liên tục trong hai tháng này xác nhận tính chắc chắn
của xu thế tăng giá. Thực tế xu thế này đã kéo dài sang hết tháng 01/2007 với sức tăng
giá mạnh.
Tuy nhiên trong tháng 01/2007 này, đồ thị A/D Line có dạng dập dền không hình thành
phân kỳ dương tạo thành cảnh báo về sự suy yếu của xu thế tăng giá hiện tại. Kết quả là
bước sang tha giá cổ phiếu chuyển sang trạng thái dập dềnh, dao động mạnh và bắt đầu đi
xuống trong tháng 03, 04 nắm 2007.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ - FPT


(Ảnh AD Line 2)
Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn
Một phân kỳ âm đã xuất hiện trên đồ thị A/D Line vào tháng 01 năm 2007 trong khi giá
của cổ phiếu FPT đang theo xu thế tăng lên. Hiện tượng này cảnh báo về sự thay đổi xu
thế tăng giá hiện thời trong giai đoạn tới.
Kết quả thể hiện ở giá cổ phiếu của FPT bắt đầu ngừng xu thế tăng vào tháng 2 và bắt
đầu đi xuống từ tháng 03 năm 2007
Chaikin Oscillator - Máy giao động Chaikin


Như đã giới thiệu trong bài viết trước về đường tích lũy phân bổ A/D Line, bài viết này sẽ
giới thiệu về phương pháp bổ trợ cho A/D Line. Phương pháp này được đặt tên là
Chaikin oscillator – Máy dao động Chaikin lấy theo tên của tác giả Marc Chaikin. Xem
trước:
- Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ
- Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng.
- Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD.
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Giống như MACD tính bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của giá thì phương
pháp Chaikin Oscillator được tính toán bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của
A/D Line. Hiệu số giữa trung bình hàm mũ trong 3 phiên và trung bình hàm mũ trong 10
phiên thường được sử dụng.
2. Ý nghĩa
Do cùng một cách tính toán, vì vậy xét về ý nghĩa, Chalkin Oscillator áp dụng đối với sự
tăng giảm của A/D Line có ý nghĩa tương tự như MACD áp dụng đối với sự tăng gjảm
của giá cả. Theo đó, Chalkin Oscillator xác nhận xu thế tăng hoặc giảm của A/D Line từ
đó xác định xu thế tăng hoặc giảm của giá.
Nếu Chaikin Oscillator dương tức là trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động
dài hạn, xu thế của A/D Line là tăng; ngược lại nếu Chaikin Oscillator âm tức là trung
bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn, xu thế của A/D Line là giảm. Nếu
đường trung bình động ngắn hạn giao cắt đường trung bình động dài hạn Chaikin
Oscillator sẽ thay đổi giá trị từ dương sang âm (hoặc ngược lại) xuyên qua đường trung
bình (giá trị 0); tín hiệu này cảnh báo về sự thay đổi xu thế từ tăng sang giảm hoặc từ
giảm sang tăng hoặc ngừng xu thế tăng, giảm chuyển sang biến động dập dềnh.
Về thực chất Chaikin Oscillator phân tích chỉ ra xu thế của A/D Line chứ không trực tiếp
chỉ ra xu thế của giá cả. Tính chất gián tiếp này giúp cho Chaikin Oscillator phán đoán
với độ trễ ít hơn A/D Line; tuy nhiên, bù lại Chaikin Oscillator sẽ phản ánh kém chính

xác hơn A/D Line. Do đó việc sử dụng Chaikin Oscillator cần phải chú ý kết hợp với các


phương pháp khác nhằm tăng tính chính xác phân tích. Chi tiết hơn về ý nghĩa của
MACD và A/D Line, xin đọc các bài viết:
- Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ
3. Sử dụng
Giống như MACD, Chalkin Oscillator sử dụng hai dấu hiệu là phân kỳ âm (hoặc dương)
và sự giao cắt giữa đường Chalkin Oscillator và giá trị trung bình 0.
Khi sử dụng Chalkin Oscillator cần phải có sự phối hợp với các tín hiệu khác để đảm bảo
sự chính xác hơn trong dự đoán và xác nhận.
Chi tiết hơn về sử dụng Chalkin Oscillator, có thể tham tham khảo về cách dùng tương tự
của phương pháp MACD nêu trong bài viết: Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình
động hội tụ/phân kỳ.
Ví dụ về công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - Doanh nghiệp
(Ảnh Chaikin)
Nguồn đồ thị - www.vietstock.com.vn
Trên đồ thị Chaikin Oscillator xuất hiện phân kỳ dương trong thời gian đủ dài vào tháng
2 và tháng 3 năm 2007. Sự phân kỳ dương kéo dài đến khi đường Chaikin Oscillator giao
cắt đường trung bình giá trị 0, sự giao cắt này xảy ra trước khi đồ thị A/D Line thiết lập
các đỉnh cao mới để tạo thành phân kỳ dương. Đồng thời trên đồ thị giá, ngưỡng kháng
cự (Resistance) bị phá bỏ.
Các tín hiệu liên tiếp trên củng cố và khẳng định sự tăng giá của Doanh nghiệp. Vào
tháng 6/2007, phân kỳ âm xuất hiện trên Chaikin Oscillator với độ dốc rất lớn, trước đó
phân kỳ dương trên đồ thị A/D Line đã chấm dứt đồng thời với dấu hiện đồ thị Chaikin
Oscillator giao cắt giá trị 0 cảnh báo về xu thế giảm giá. Tiếp đó, phân kỳ âm xuất hiện
trên cả hai đồ thị A/D Line và Chaikin Oscillator liên tục trong thời gian dài xác nhận xu
thế giảm giá đang xảy ra của Doanh nghiệp.


Độ lệch chuẩn

Độ lệch chuẩn là khái niệm sử dụng bổ biến trong toán học thống kê. Bài viết này sẽ bàn
luận về ý nghĩa độ lệch chuẩn khi sử dụng làm công cụ phân tích kỹ thuật, các bài viết
sau sẽ trình bày cụ thể từng phương pháp thuộc nhóm này. Xem trước:
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Nếu gọi X là giá trị của cổ phiếu, E(X) là trung bình động của X, S là phương sai, d là độ
lệch chuẩn. Độ lệch chuẩn sẽ được tính toán như sau: S = E[(X – EX)2] = E(X2) –


[E(X)]2 d = Căn bậc hai của S Về trung bình động E(X) xem bài - Phân tích kỹ thuật (2):
Trung bình động và xu thế.
2. Ý nghĩa độ lệch chuẩn
Trong thống kê độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay quanh
giá trị trung bình. Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn định của số liệu càng
lớn, dao động quanh giá trị trung bình càng nhỏ. Giá trị độ lệch chuẩn càng cao thì mức
độ ổn định của số liệu càng nhỏ, dao động quanh giá trị trung bình càng lớn. Như vậy nếu
giá của cổ phiếu có độ lệch chuẩn nhỏ, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu này quanh
trung bình động thấp, nếu độ lệch chuẩn lớn, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu quanh
trung bình động cao.
Hãy hình dung trong ví dụ sau:
Vào cuối học kỳ người ta lấy hai học sinh cùng có điểm trung bình 5,0 để xét cho đi thi
học sinh giỏi.
Học sinh thứ nhất có độ lệch chuẩn là 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này toàn điểm
5;
Học sinh thứ 2 có độ lệch chuẩn lớn hơn 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này có cả
hai loại điểm 10 và điểm 0.
Người ta nói học sinh thứ nhất học đều và ổn định hơn học sinh thứ hai.

Nếu cử học sinh thứ nhất đi thi thì sẽ an toàn hơn vì không sợ bị điểm liệt và mang tiếng
xấu về cho trường, nhưng cử học sinh thứ hai sẽ có khả năng sinh lợi lớn hơn vì có thể
đoạt giải nhất mặc dù rủi ro bị liệt là tương đương.
Điều này cũng có ý nghĩa tương tự về mức độ sinh lời và rủi ro trong Chứng khoán, càng
chấp nhận rủi ro cao thì sinh lời càng lớn.
Trong xác xuất thống kê, nếu gọi X là giá cổ phiếu với trung bình là a, theo mô hình phân
phối chuẩn có các xác suất sau:
P(a – d < X < a + d) = 68,26%
P(a – 2d < X < a + 2d) = 95,44%
P(a – 3d < X < a + 3d) = 99,74%
Điều này có nghĩa xác suất để giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ trung bình giá trừ đi độ
lệch chuẩn (a – d) cho đến trung bình giá cộng với độ lệch chuẩn (a + d) là 68.26% tức là
gần 70%. Chú ý rằng 70% là ngưỡng mà nhiều nhà kinh doanh và quân sự mong đợi:
“Nếu khả năng chắc thắng 70% thì cứ việc tiến hành”.
Vì vậy nếu giá cổ phiếu không nằm trong khoảng 70% (vượt trên ngưỡng a + d hoặc
xuống dưới ngưỡng a - d) thì đó sẽ là các tín hiệu cảnh báo cần phải chú ý.

Bollinger Band - Dải băng Bollinger


Tiếp theo bài trước bàn về độ lệch chuẩn, bài này sẽ giới thiệu một phương pháp sử dụng
độ lệch chuẩn là dải băng Bollinger (Bollinger Bands) của tác giả John Bollinger. Xem
trước:
- Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Về tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi hai
đường đồ thị trên cùng đồ thị giá của cổ phiếu: một đường goi là băng trên (upper band)
và một đường gọi là băng dưới (lower band):

- Băng trên được vẽ bởi giá cổ phiếu cộng với độ lệch chuẩn.
- Băng dưới được vẽ bởi giá cổ phiếu trừ đi độ lệch chuẩn.
Về cách tính độ lệch chuẩn, xem bài Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn
2. Ý nghĩa
Trong bài viết về độ lệch chuẩn đã chỉ ra xác suất giá cổ phiếu nằm trong dải băng
Bollinger là xấp xỉ 70%. Nếu giá cổ phiếu không nằm trong dải băng Bollinger, tức là
thuộc về phần xác suất 30% còn lại thì các tín hiệu này cần phải chú ý.
- Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá cổ phiếu sẽ vượt quá băng
trên (upper band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa
là sức tăng giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
- Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá cổ phiếu sẽ đi thấp hơn
băng dưới (lower band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này có
nghĩa là sức giảm giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
Nếu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng Bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau
đó thì đây là tín hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự
tăng hoặc giảm giá đã đạt đến sự căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát
cuối cùng rồi lịm dần của sự sống vào thời điểm hấp hối.
3. Cách sử dụng:
Dựa vào giá vượt ra ngoài dải Bollinger: khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải Bollinger và
tiếp tục nằm ở ngoài dải thì xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục:
- Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu
thế tăng sẽ tiếp tục tăng mạnh.
- Nếu giá nằm dưới dải dưới (lower band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định
xu thế giảm sẽ tiếp tục giảm mạnh.
Dựa vào giá vượt ra ngoài dải Bollinger rồi quay trở lại nằm trong dải:
- Nếu giá cổ phiếu vượt quá dải trên (upper band) rồi sau đó thiết lập một đỉnh giá khác
nằm trong dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế tăng giá hiện tại và
chuyển sang xu thế giảm hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang giảm
và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu rớt xuống dưới đường trung
bình động tương ứng của dải băng Bollinger.



- Nếu giá cổ phiếu xuống dưới dải dưới (lower band) rồi sau đó thiết lập một đáy giá
khác nằm trong dải Bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế giảm giá hiện
tại và chuyển sang xu thế tăng hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang
tăng và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu vượt lên trên dưới đường
trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger.
Tuy nhiên để có kết luận chính xác hơn về các dấu hiệu đảo chiều này, cần phải có sự kết
hợp với các phương pháp phân tích khác.
Xét ví dụ về công ty Cổ phần Vận Tải Hà Tiên – HTV sử dụng Dải băng bollinger tính
trong 20 phiên.

Nguồn đồ thị
- Tại các thời điểm xác định bằng các đường kẻ màu đỏ và xanh, giá cổ phiếu đã vượt
quá băng trên (upper band) hoặc xuống thấp hơn băng dưới (lower band), nếu so sánh lên
đồ thị RSI sẽ thấy các thời điểm này tương ứng với các ngưỡng siêu mua và siêu bán.
Điều này khẳng định sức tăng (hoặc giảm giá) hiện tại là rất mạnh. Đặc biệt trong giai
đoạn tháng 2, các đỉnh của giá liên tục được thiết lập cao hơn băng trên (upper band)
khẳng định sức tăng giá rất mạnh và còn tiếp diễn dài trong giai đoạn này.
- Tại các vùng được khoanh tròn là các tín hiệu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng
Bollinger rồi trở lại vào trong dải băng này.


- Vòng tròn số 1 và số 4 là khoảng thời gian mà một đỉnh của giá cổ phiếu được thiết lập
nằm trên băng trên và một đỉnh tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng
bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang giảm và càng
được khẳng định chắc chắn hơn khi giá cổ phiếu đi xuống dưới đường trung bình động
SMA-20.
- Vòng tròn số 2 và số 3 là khoảng thời gian mà một đáy của giá cổ phiếu được thiết lập
nằm thấp hơn băng dưới và một đáy tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng

Bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang tăng. Tuy nhiên
vòng tròn số 3 được khẳng định chắc chắn và có sức tăng mạnh mẽ hơn vì giá cổ phiếu
sau đó đã xuyên phá và vượt lên trên đường trung bình động SMA – 20.

Ngày tích lũy/ phân phối

Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử
dụng là tổng hợp số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện
cho các tình huống trên thị trường, thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử
dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để tăng cường khả năng tổng hợp thống kê số
liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường. Xem trước
- Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề khối lượng.
- Phân tích kỹ thuật (8): Chỉ số cân bằng khối lượng - On Balance Volume - OBV
1. Thống kê
Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử
dụng là tổng hợp số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện
cho các tình huống trên thị trường, thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử
dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để tăng cường khả năng tổng hợp thống kê số
liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường.
Quay ngược lại, khi nhìn ra các hình mẫu đặc trưng này, họ suy đoán với giả định rằng
lịch sử có thể tái lập lại với một xác suất nào đó. Việc này xem chừng có sự nhầm lẫn
giữa nguyên nhân và kết quả: sử dụng kết quả là các hình mẫu để khẳng định nguyên
nhân là sự vận động của thị trường. Tuy nhiên thống kê là một phương pháp nghiên cứu
khoa học lâu đời và có tính bền vững của nó. Tâm lý hành vi của Nhà đầu tư tác động đến
thị trường cũng là một lĩnh vực khoa học cần được nghiên cứu, bản chất của việc dùng
thống kê để phân tích chính là nghiên cứu ứng xử của Nhà đầu tư theo phương pháp
thống kê.
Vì vậy khi nhận ra một hình mẫu dựa vào thống kê, để khẳng định rằng hình mẫu này
không chỉ là hình ảnh của lịch sử mà còn là kim chỉ nam trong tương lai của các Nhà đầu
tư, cần phải xác định nguyên nhân tâm lý của các Nhà đầu tư trên thị trường gắn liền với

hình mẫu đó. Bài viết này sẽ đề cập đến một số phương pháp được phát hiện ra nhờ các


chuyên gia thống kê thường xuyên quan sát thị trường và phát hiện ra quy luận biến động
của thị trường.
2. Ngày tích lũy và ngày phân phối
Giá tăng, giá giảm là chuyện bình thường trên thị trường Chứng khoán. Vấn đề là bản
chất các ngày tăng và ngày giảm là gì. Ai cũng biết giá cả trên thị trường được xác định
bằng cung và cầu của các Nhà đầu tư. Điều gì ẩn giấu sau cung và cầu. Qua thống kê
người ta chỉ ra rằng trong một thị trường tăng (hoặc giảm) sẽ có các ngày tích lũy và
ngày phân phối được thể hiện qua giá cả và khối lượng.
Khi xu thế của thị trường là tăng giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ tăng mạnh hoặc khối
lượng giao dịch sẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày tích phân phối sẽ tăng yếu thậm chí
đứng giá hoặc giảm giá hoặc khối lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả
hai.
Khi xu thế của thị trường là giảm giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ giảm mạnh hoặc khối
lượng giao dịch sẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày phân phối giá sẽ giảm yếu thậm chí
đứng giá hoặc tăng giá hoặc khối lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả
hai. Đó là quy luật thống kê mà các Nhà đầu tư đã chỉ ra khi nghiên cứu các số liệu của
thị trường. Quy luật này cần được giải thích bằng hành vi tâm lý của các Nhà đầu tư để
có được tính chính xác cao.
Khi thị trường đi lên, đối với các Nhà đầu tư lẻ, họ tìm cách “tích lũy”: người có cổ phiếu
thì tìm cách giữ chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn, người không có thì tìm cách
mua vào gây nên tình trạng khan hiếm hàng trong khi nhu cầu lớn; kết quả là giá cổ phiếu
tăng mạnh trong các ngày tích lũy nhưng khối lượng giao dịch nhỏ. Trong quá trình tích
lũy đó, một số Nhà đầu tư cảm thấy được giá và không muốn tiếp tục mạo hiểm thêm sẽ
bán cổ phiếu ra thị trường: hành động bán ra gặp đà mua vào khi giá tăng của các Nhà
đầu tư khác nên khối lượng giao dịch thành công sẽ tăng vọt, đi kèm đó là sự tăng giá sẽ
yếu hơn, thậm chí là đứng giá hoặc giảm giá do có sự pha loãng cầu bằng lượng cung
được bán ra; những ngày này được gọi là ngày “phân phối”.

Tương tự khi thị trường đi xuống, các Nhà đầu tư nhỏ có xu thế bán tống bán tháo cổ
phiếu và hạn chế mua vào trong các ngày tích lũy khiến hàng hóa trở nên thừa thãi vượt
quá lượng cầu nhỏ đẩy giá giảm mạnh. Khi tích lũy xảy ra vài ngày, một số Nhà đầu tư
cảm thấy giá cả đã đạt đến mức hấp dẫn để mua vào họ sẽ tìm cách thu gom khiến giá
giảm chậm lại thậm chí đứng giá hoặc tăng giá đi cùng với khối lượng giao dịch lớn.
Tuy nhiên con cá mập của thị trường lại là các quỹ đầu tư chứ không phải là các Nhà đầu
tư lẻ, những quỹ đầu tư này cũng tham gia vào sự hình thành của các ngày tích lũy và
phân phối nhưng cách tiếp cận của họ khác với các Nhà đầu tư lẻ.
Hãy hình dung thế này nếu một quỹ đầu tư muốn thâu tóm 10 triệu cổ phiếu A nào đó, giả
sử khối lượng giao dịch trung bình của cổ phiếu A là 1 triệu cổ phiếu/ngày, họ sẽ phải mất
10 ngày để mua vào. Nếu ngày nào họ cũng mua vào 1 triệu cổ phiếu sẽ tạo ra hiện tượng
khan hiếm đẩy giá cổ phiếu tăng vọt và họ sẽ mất một khoản tiền lớn. Vì vậy xen kẽ các
ngày thu gom mang tính chất tích lũy, họ sẽ bán ra tại một số ngày, “phân phối” lại cổ
phiếu để điều chỉnh làm chững lại sự tăng giá, qua đó thâu tóm 10 triệu cổ phiếu với
khoản tiền phải bỏ ra thấp hơn so với việc mua vào liên tục.


Tương tự nếu muốn bán cổ phiếu, các quỹ đầu tư cũng thực hiện bán dần và xen kẽ các
ngày phân phối bên cạnh các ngày tích lũy khiến cho tốc độ giảm giá chậm lại nhờ đó họ
sẽ bán được giá hơn. Như vậy thị trường đang trong xu thế tăng hoặc giảm giá bao gồm
các ngày tích lũy được xen kẽ bởi các ngày phân phối điều chỉnh. Thông thường sau 3
đến 5 ngày phân phối, xu thế tăng hoặc giảm sẽ kết thúc.
Nguyên nhân là tính chất mạo hiểm ngày càng tăng khi giá đã tăng cao, các ngày phân
phối xen kẽ gây ra trạng thái căng thẳng cho các Nhà đầu tư lẻ và loại bỏ dần các Nhà
đầu tư yếu bóng vía; đối với các quỹ đầu tư khoảng thời gian sau 3 đến 5 ngày phân phối
cũng là lúc họ hoàn thành kế hoạch thu gom hoặc bán tháo. Các phép thống kê cũng chỉ
ra thông thường sau khoảng 3 đến 5 phân phối là chấm dứt xu thế tăng hoặc giảm.
Hai hình dưới là các đợt có ngày phân phối trong 1 chu kỳ tăng giá của công ty cổ phần
Bê Tông Châu Thới (BT6) và công ty Cổ phần Hóa An (DHA).
Những ngày này có giá giảm, chững lại hoặc có khối lượng giao dịch tăng đột biết (có thê

xảy ra trước khi giá cả đang ở mức đỉnh).
(Ảnh ngay tich luy 1)
Nguồn đồ thị
(Ảnh ngay tich luy 2)
Nguồn đồ thị
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT) đã nêu trong bài
Độ rộng dải băng Bollinger - Bollinger Band Width
(Ảnh ngay tich luy 3)
Nguồn đồ thị
Để ý rằng trong đợt tích lũy tăng giá của BBT có xen lẫn các ngày phân phối lân cận các
ngày mà BBW lập một đỉnh và đáy tương ứng.

Thống kê - Sóng Elliot

Những người yêu thích phân tích kỹ thuật không lạ gì với lý thuyết sóng Elliot – lấy theo
tên tác giả là Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Bản chất lý thuyết này được Elliot
phát hiện dựa vào thống kê tổng hợp các số liệu trong quá khứ: lý thuyết này khẳng định
rằng một chu kỳ tăng giá tuân theo 5 sóng chủ và 3 sóng điều chỉnh.
(Ảnh Thong ke 1)
Nguồn ảnh Lâm Minh Chánh, MBA - />- Sóng chủ 1. Tích lũy xuất phát từ thị trường suy thoái và còn yếu, rất khó nhận ra sóng
số 1 này. Do vừa mới thoát ra thị trường suy thoái nên đầu tư và lúc này mang tính chất
mạo hiểm, không hấp dẫn với các Nhà đầu tư do không có nhiều kỳ vọng vào sự hồi phục
của thị trường.


×